Vietnam: Another Asia Miracle
Điều thần kỳ mới của Châu Á
Việt Nam đã phát triển với tốc độ đáng ngưỡng mộ bằng cách để thị trường phát huy sức mạnh của nó. Việt Nam cũng cần tự do về chính trị.
Cách đây không lâu, danh từ "người Việt Nam" thường xuất hiện trên các bài phóng sự gắn với cụm từ "thuyền nhân". Hai mươi năm sau sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn vào năm 1975, hình ảnh đặc trưng của Việt Nam (trên báo chí thế giới) vẫn còn là làn sóng người tị nạn rời bỏ đất nước tới các nước láng giềng, trốn chạy sự áp bức và cảnh cơ hàn ở đất nước mình. Mọi việc đã thay đổi thật nhanh. Ngày nay, rất nhiều người từng là người tị nạn đang trở về nước khởi nghiệp và làm ăn trong một đất nước Việt Nam đổi mới. Việt Nam ngày nay là một trong các nước phát triển nhanh nhất châu Á với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5% trong vòng 1 thập niên qua. Mặc dù tốc độ phát triển không ấn tượng bằng Trung Quốc nhưng phóng sự đặc biệt của chúng tôi (The Economist) tuần này nhận thấy rằng Việt Nam đã có bước tiến rất ấn tượng trong xóa đói giảm nghèo hơn hẳn nước láng giềng rộng lớn của mình. Mục tiêu tăng trưởng 9% trong năm nay của chính phủ rất có thể tan thành mây khói bởi đất nước này đang phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát ở mức 2 con số và thâm hụt thương mại tăng nhanh. Nhưng viễn cảnh lâu dài của nền kinh tế Việt Nam vẫn nhiều triển vọng.
Xóa đói giảm nghèo
Các thành phố lớn của Việt Nam sáng sủa và hối hả và nông thôn nước này, nơi phần lớn người dân trong tổng số 85 triệu dân vẫn đang sinh sống, dường như phát triển không thua kém hơn nông thôn của nước láng giềng Thái Lan, mặc dù theo thống kê chính thức Thái Lan giàu có hơn hẳn. Việt Nam, đã có lúc đứng trên bờ vực của nạn đói đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới. Trái ngược hẳn với Việt Nam, Philippine - đã từng là đất nước giàu có thứ hai ở Châu Á - gần đây đã phải cầu xin Việt Nam bán gạo cho nhiều triệu người dân đang lâm vào cảnh đói ăn của mình. Những tiến bộ về kinh tế và xã hội của Việt Nam đã biến nước này trở thành con cưng (thường được nêu ra làm gương) của các thể chế đa quốc gia như là Ngân hàng Thế giới. Việt Nam cũng đã trở thành một trong những điểm đến nhiều nhất của các công ty đa quốc gia và khách du lịch. Việt Nam cũng đang trở thành một quyền lực ngoại giao đang tăng nhanh: vào tháng 7 năm nay (2008), Việt Nam sẽ làm chủ tịch HĐBA LHQ, nơi mà Việt Nam đang là thành viên không thường trực.
Có nhiều điều hữu ích nữa mà Việt Nam có thể làm được nhờ vào uy tín mới của mình, thông qua các hoạt động ngoại giao chủ động cũng như mang tính biểu tượng. Các quốc gia trong quá trình chuyển đổi có thể học hỏi nhiều điều từ Việt Nam, như cách gác lại những mối thù cũ, mở cửa với thế giới và cải cách nền kinh tế trì trệ của mình. Là một trong những người bạn hiếm hoi của Bắc Triều Tiên và Myanmar, Việt Nam có thể giúp dỗ dành các quốc gia tăm tối này bước ra khỏi tình trạng tự cô lập của mình. Là nước đã thoát khỏi tình trạng nghèo khổ cùng cực bằng việc theo đuổi thương mại tự do, Việt Nam có thể khuyến khích các nước đang phát triển có một thái độ xây dựng hơn tại vòng đàm phán thương mại Doha (và cũng bằng việc này sẽ làm cho các quốc gia giàu có hơn lấy làm xấu hổ nếu không làm theo).
Thành tựu đạt được ấn tượng là thế nhưng Việt Nam vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Việt Nam đang muốn tiến tới mục tiêu trở thành một nước giàu và một nước công nghệ cao và đã đặt ra mốc năm 2020 để đạt tới mục tiêu này. Như một vài kẻ thù đã học được bài học trong thế kỷ qua: trí thông minh và quyết tâm của người Việt Nam không thể được xem thường. Thế nhưng nếu muốn đạt được những giấc mơ của mình, Việt Nam cũng phải học những bài học đích đáng từ câu chuyện phát triển của chính mình cho tới thời điểm hiện nay và từ những nước láng giềng, những nước đã đi được tới đâu so với ước muốn của mình.
Việt Nam trở thành một câu chuyện thành công chỉ từ khi những người cộng sản nắm quyền thừa nhận rằng chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường và thương mại tự do là con đường chắc chắn nhất dẫn tới giàu có. Họ bắt đầu vào năm 1986 với một chương trình tự do hóa dưới tên gọi là Đổi Mới, mặc dù cải cách thực sự được đưa vào từng đợt trong vòng 20 năm vừa qua. Chủ nghĩa tập thể (hợp tác xã) bị xóa bỏ, nông dân được giao đất và giá sản phẩm nông nghiệp được thả tự do (điều tiết theo thị trường). Vào năm 2000, doanh nghiệp tư nhất - cho tới thời điểm đó vẫn chịu nhiều hạn chế - được hợp thức hóa và một thị trường chứng khoán được thiết lập. Rào cản thương mại được hạ thấp, xuất nhập khẩu tăng nhanh và Việt Nam giờ đây nằm trong số những những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Rất có thể không có việc quay lại thời kỳ cũ vì nếu có bất cứ cố gắng nào sử dụng sự can thiệp cứng nhắc của chính phủ (vào nền kinh tế) thì chắc chắn rằng giấc mơ trở thành quốc gia giàu có vào năm 2020 của Việt Nam sẽ mãi mãi chỉ là một giấc mơ hoang.
Cũng như Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan, Việt Nam đã cho thấy rằng hệ thống chính quyền của mình có khả năng giải phóng người dân khỏi đói nghèo. Thế nhưng điều chắc chắn là không phải là ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia giàu có tính theo thu nhập bình quân đầu người lại đều là các nước dân chủ tự do. Tự do chính trị bản thân nó là một thứ quyền và nó không cần phải được biện minh bằng lập luận rằng nó mang lại những lợi ích kinh tế. Thế nhưng sự thực thì nó có mang lại những lợi ích về kinh tế. Lãnh đạo Việt Nam đã nhận ra rằng thật khó điều hành nền kinh tế thị trường nếu dùng các biện pháp cứng nhắc chỉ phù hợp cho nền kinh tế kế hoạch trước đây. Xử lý tất cả những khó khăn của một xã hội đang phát triển nhanh sẽ dễ dàng hơn nếu có một thị trường tự do hiện hữu trong ý thức cũng như trong hàng hóa và dịch vụ. Đặc biệt các quyết định kinh tế cần thiết và khó khăn sẽ dễ mang tính thuyết phục hơn nếu những công dân cảm thấy họ có tiếng nói trong các quyết định này.
Hãy trở thành ngôi sao sáng
Cho tới nay thì Đảng Cộng sản dường như quyết tâm giữ độc quyền quyền lực. Đảng gọi những người tổ chức các phong trào ủng hộ dân chủ là "những kẻ khủng bố" và tống họ vào tù. Thế nhưng Việt Nam cũng cần phải đặc biệt lưu ý tới kinh nghiệm của Hàn Quốc và Đài Loan. Cuối những năm 80s, hai nước này đều là những nước độc tài. Chế độ của họ, do phải đối mặt vào sự bất bình tăng cao, nhìn thấy điều tất yếu phải làm và đã dân chủ hóa. Giờ thì, dù chính trị ít nhiều cấn cá, hai quốc gia này có nền kinh tế thịnh vượng và công nghệ mà Việt Nam đang khát khao đạt tới. Đảng Cộng sản, thay vì nhìn vào hai mô hình này, dường như đã quan tâm nhiều hơn tới tấm gương của Singapore, một nước láng giềng thịnh vượng và có công nghệ cao. Quy mô nhỏ của Singapore giúp cho nước này là một ngoại lệ thế nhưng thậm chí nền dân chủ có khuôn khổ của nước này - đảng đối lập của Đảng Nhân dân Hành động nắm quyền từ trước tới nay của nước này được phép cạnh tranh trong khuôn khổ chặt chẽ - có thể cũng là một bước khởi đầu tốt đối với Việt Nam.
Sự thực là Việt Nam cũng có thể nhìn vào các nước láng giềng khác như là Philippine và Thái Lan, nền dân chủ của hai nước này là một con đường gập ghềnh. Thế nhưng điều này cho thấy một điều rằng dân chủ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để đạt tới đẳng cấp cao nhất. Thế hệ hiện tại của lãnh đạo Việt Nam, con cháu của thế hệ đấu tranh giành độc lập cho dân tộc mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho người dân của mình, cần phải suy nghĩ tới thế hệ sẽ thay thế họ. Nếu như thế hệ tiếp nối không kiên định, tham nhũng hơn lại không thể bị loại ra khỏi những vị trí quyền lực thì đất nước này sẽ tụt hậu.
Cho tới nay không có mấy dấu hiệu chống lại hình thức cai trị một Đảng. Thế nhưng khi mà người Việt Nam quen dần với sự tự do kinh tế và xã hội, chắc chắn những sự chống đối cuối cùng sẽ diễn ra. Tại sao lại phải đợi tới thời điểm đó? Còn gì hơn cho những người kế nghiệp Hồ Chí Minh đi vào lịch sử bằng việc đã đi đầu trong việc mang lại ổn định, thịnh vượng và, cuối cùng, là tự do thực sự cho người dân Việt Nam.
Nguyễn Thành Huy/Lê Huy (dịch theo The Economist)
Nguồn: http://www.economist.com/opinion/displaystory.cfm?story_id=11089442
Phóng sự đặc biệt về Việt Nam
26.4.2008
Nửa chặng đường từ đói nghèo tới thịnh vượng
Việt Nam đã thoát ra khỏi chiến tranh và đói nghèo nhưng liệu quốc gia này có thể thay đổi để trở thành một nước phát triển?
Dùng đầu gối và khủy tay bò dưới lòng đất, những người khách du lịch cố gắng theo kịp người hướng dẫn viên thoăn thoắt bò trong mê cung địa đạo nằm sâu dưới lòng đất. Địa danh củ chi đi vào huyền thoại mà từ đó Việt Cộng đã mở những đợt tấn công thần tốc chống lại người Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, giờ đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng (xem ảnh). Khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới hàng ngày đổ về Củ Chi gần thành phố trước đây có tên gọi là Sài Gòn và được đổi tên thành Hồ Chí Minh sau khi những người Cộng sản lấy lại miền Nam vào năm 1975.
Đi dọc theo đống đổ nát của chiếc xe tăng M41, một người hướng dẫn viên thân thiện khác giới thiệu các loại bẫy làm bằng những chiếc chông nhọn được đặt quanh khu địa đạo nhằm sát thương biệt kích Mỹ. Người Việt Nam không những hoan nghênh những đồng đô-la mà địa danh Củ Chi đem lại mà họ còn rất tự hào vì địa danh này. Họ cho rằng địa danh này nói lên khả năng khéo léo, tính thích nghi, sự kiên trì và trên hết là quyết tâm chống lại những kẻ xâm lăng đến từ bên ngoài mạnh hơn, giống như nước này đã nhiều lần phải đương đầu trong suốt quá trình lịch sử.
Ngày nay Việt Nam cũng có rất nhiều điều đáng tự hào khác nữa. Những năm 80s của thế kỷ trước, những người kế nhiệm Hồ Chí Minh ở vị trí lãnh đạo Đảng làm tổn hại nền kinh tế vốn đã bị chiến tranh tàn phá nhiều hơn nữa bằng việc cố gắng theo đuổi chủ nghĩa cộng sản, sở hữu đất theo hợp tác xã và chèn ép kinh tế tư nhân. Điều này đã khiến đất nước trượt xuống bờ vực của nạn đói. Sự sụp đổ không bao lâu sau đó của đất nước tài trợ trong chiến tranh lạnh, Liên Xô, làm trầm trọng thêm tình thế bị cô lập sâu sắc của nước này và bị cắt nguồn tài trợ các đồng rúp giúp cho nền kinh tế phát triển. Các quốc gia láng giềng tràn ngập những "thuyền nhân" Việt Nam tuyệt vọng.
Kể từ đó tới nay đất nước đã biến đổi sau gần hai thập kỷ tăng trưởng nhanh và công bằng trong đó Việt Nam đã mở toang cánh cửa với thế giới bên ngoài và tự do hóa nền kinh tế. Trong suốt thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức trung bình 7.5%. Người Việt Nam trẻ trung, giàu có và tự tin đi chật đường Đồng Khởi của Thành Phố Hồ Chí Minh có rất nhiều cửa hàng thiết kế. Chất lượng cuộc sống là rất cao đối với một quốc gia mà gần đây vẫn là một nước nghèo và các thành phố lớn của đất nước này vẫn giữ được một số nét quyến rũ còn lại từ thời thuộc địa của mình cho dù giao thông tắc nghẽn và việc xây dựng ở khắp nơi đang bắt đầu làm mất đi phần lớn sự quyến rũ này.
Điều kỳ diệu trong lĩnh vực nông nghiệp đã biến đổi một đất nước 85 triệu dân đã có lúc gần như không nuôi nổi người dân của mình trở thành một trong những nước cung cấp chính các loại nông sản cho toàn thế giới. Việt Nam cũng trở thành nước xuất khẩu lớn quần áo, giày dép và đồ gỗ và chẳng bao lâu nữa cũng sẽ xuất khẩu chíp điện tử do tập đoàn Intel đã mở một nhà máy trị giá 1 tỷ đô-la gần thủ đô Hà Nội (TPHCM: ND). Nhập khẩu máy móc tăng nhanh. Tổng xuất khẩu và nhập khẩu bằng 160% GDP biến nền kinh tế này trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới.
Tất cả những điều này giữ cho nguồn thu của chính phủ tăng nhanh bất chấp những cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc gần đây đưa vào áp dụng thuế công ty cũng giúp làm tăng nguồn thu của nhà nước. Chi tiêu cho dịch vụ công đã tăng cao, nhưng nợ công, đang ở mức độ chấp nhận được 43% của GDP, vẫn giữ ở mức khá ổn định.
Quan hệ với những kẻ thù cũ đã được hòa giải, Việt Nam đón tiếp Tổng thống Bush, Tổng thống Putin và Chủ tịch Hồ (Cẩm Đào) tại Hội nghị Thượng đỉnh Apec năm 2006 và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007. Năm nay, Việt Nam giữ ghế luân phiên trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Những nhà cộng sản Việt Nam thừa nhận thất bại kinh tế cách đây 22 năm, đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng và áp dụng những cải cách kinh tế thị trường dưới tên gọi Đổi Mới giống như những cải cách Đặng Tiểu Bình áp dụng ở Trung Quốc trước đó vài năm. Cũng giống như ở Trung Quốc, phải mất một vài năm khi những tác động của cải cách hiện hữu, thế nhưng trong vài năm gần đây tự do hóa kinh tế đã tạo ra tốc độ tăng trưởng cao và xóa đói giảm nghèo nhanh chóng.
Đại diện Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Ajay Chhibber, gọi Việt Nam là "đứa con cưng" của những lợi ích cải cách theo hướng thị trường. Không phải là vì Việt Nam tuân thủ tinh thần của "Đồng thuận Washington" - doanh nghiệp tự do, thương mại tự do và tài chính nhà nước ổn định,v.v... - mà Việt Nam còn hoàn thành tất cả những mục tiêu Thiên niên kỷ, chương trình xóa đói giảm nghèo của Liên hợp quốc. Tỷ lệ hộ gia đình có điện tăng gấp đôi kể từ đầu những năm 90s, tăng lên mức 94%. Hầu như mọi trẻ em hiện nay đều học tiểu học và ít nhất học xong chương trình giáo dục cơ bản.
Việt Nam không còn cần tới sự hỗ trợ của các tổ chức đa phương nữa. Các nhà tài trợ song phương và đa phương đã cam kết tổng số 5.4 tỷ đô-la vốn vay trong năm nay và với quá nhiều các khoản đầu tư trực tiếp đổ vào Việt Nam, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam tăng gần gấp đôi con số năm ngoái. Ít nhất thì các nhà tài trợ đã có được bài học từ những năm 90s: khi khen ngợi quá mức sẽ không khích lệ Việt Nam tiếp tục đổi mới và khiến những nhà đầu tư bỏ chạy. Giờ thì không khí trong các cuộc gặp riêng với các quan chức đã thẳng thắn hơn nhiều, một nhà ngoại giao dự các cuộc gặp này đã nhận xét như vậy.