[go: up one dir, main page]

Xin chào vị khách thứ
VietCatholic Network
Đồng Công Cứu Chuộc (4)
VietCatholic News (Thứ Bảy 10/05/2008 02:19)
Đồng Công Cứu Chuộc (4)

Chỉ Là Lòng Sùng Kính

Phản chứng thứ năm cho rằng ý niệm coi Đức Maria là đấng đồng công cứu chuộc chỉ là niềm tin đạo đức do một số người Công Giáo sùng đạo chủ trương. Tuy có được một số vị giáo hoàng nhắc đến, nhưng chỉ trong những văn bản không quan trọng, và không được trình bầy như một học lý tại Công Đồng Vatican II.

Giáo Sư Miravalle cho rằng đối với một tín hữu Công Giáo, vấn đề liệu một chủ trương thần học nào đó có cấu thành giáo huấn học lý chính hiệu của Giáo Hội hay không chủ yếu được minh chứng qua sự hiện diện của nó (hay vắng bóng của nó) trong các giáo huấn được thẩm quyền của Giáo Hội nhìn nhận. Thẩm quyền giáo huấn chính thức của Giáo Hội Công Giáo, gọi tắt là Huấn Quyền, bao gồm giáo huấn chính thức của đức giáo hoàng và các giám mục hiệp thông với đức giáo hoàng dưới sự hướng dẫn tổng quát của Chúa Thánh Thần (48).

Dù có một phẩm trật giữa các phát biểu của thẩm quyền giáo huấn chính thức Công Giáo, đi từ các tín điều được một công đồng chung hay một công bố vô ngộ “ex cathedra” của một vị giáo hoàng xác định, qua giáo huấn học lý tổng quát của công đồng chung, tới các thông điệp, các bài diễn văn của đức giáo hoàng, thì đồng thời vẫn có chỉ thị tổng quát, do chính Công Đồng Vatican II đưa ra, đòi các tín hữu Công Giáo nhất tâm nhất trí với tâm trí của đức giáo hoàng, ngay cả khi ngài không tuyên bố vô ngộ (4). Dù sao, thì mọi giáo huấn học lý của các công đồng chung, thông điệp của các đức giáo hoàng, hay những lời dạy được lặp đi lặp lại một cách nhất quán của các ngài đều cấu thành giáo huấn học lý chính hiệu của Giáo Hội Công Giáo.

Ta hãy thử áp dụng tiêu chuẩn trên vào vấn đề vị thứ học lý của tước hiệu đồng công cứu chuộc nơi Đức Maria xem sao.

Dựa trên các giáo huấn học lý của Công Đồng Vatican II, ta thấy vị thứ học lý của tư cách đồng công cứu chuộc nơi Đức Mẹ là điều không cần phải đặt ra. Xin xem lại các tuyên bố của Công Đồng đã trích dẫn trên đây.

Nhà thần học của Vatican là Cha Jean Galot, S.J., đã xác nhận vị thứ học lý chính thức của tước hiệu đồng công cứu chuộc nơi Đức Maria, dưới ánh sáng giáo huấn của Vatican II như sau:

Dù không dùng thuật ngữ “đồng công cứu chuộc”, rõ ràng Công Đồng đã xác nhận học lý này: một hợp tác thuộc loại độc đáo, một hiệp tác của người mẹ vào cuộc sống và công việc của Đấng Cứu Thế, một hợp tác lên cao điểm ở việc tham dự vào hy lễ trên đồi Calvary, và điều ấy được quy về sự sống siêu nhiên các linh hồn…(53)

Trên tờ L’Osservatore Romano, Cha Galot còn viết thêm: “Công Đồng Vatican II tuy tránh không dùng tước hiệu gây tranh luận này (đồng công cứu chuộc) nhưng đã mạnh mẽ khẳng định học lý bao hàm trong tước hiệu ấy…” (54)

Ngoài sự hiện diện học lý chắc chắn tại Công Đồng Vatican II ra, việc Đức Maria đồng công cứu chuộc với tước hiệu minh nhiên “đấng nữ đồng công cứu chuộc” đã được giáo huấn các vị giáo hoàng lặp đi lặp lại nhất quán suốt từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 21, đủ để bảo đảm vị thứ học lý chính hiệu của nó trong lòng Giáo Hội (55).

Lời Đức Lêô XIII: “Khi Đức Maria dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa cùng với Con mình trong đền thờ, Người đã chia sẻ với Con mình sự đền tội đầy đau đớn cho toàn thể nhân loại. Cho nên, chắc chắn một điều Người đã chịu trong thẩm sâu linh hồn Người nỗi thống khổ cay đắng nhất và nỗi dằn vặt khủng khiếp nhất của Con mình. Cuối cùng, chính ngay trước mắt Đức Maria, hy lễ Thần Thánh mà chính Người đã hạ sinh và nuôi dưỡng, đã được hoàn tất…, ta thấy bên Thánh Giá Chúa Giêsu, là Mẹ Chúa, Đấng, trong một hành động yêu thương lạ lùng, để Chúa vui lòng tiếp nhận chúng ta như con cái Mẹ, đã sẵn sàng dâng Con mình cho đức công bình thần thánh, chết lịm trong tâm hồn cùng Con, tâm hồn bị lưỡi gươm sầu thảm đâm thấu” (56).

Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X viết: “Nhờ kết hiệp đau đớn và mục tiêu giữa Chúa Kitô và Người, Đức Maria xứng đáng trở nên Đấng Đền Tạ (Reparatrix) cho thế giới sa đọa, và vì lẽ ấy, đấng ban phát mọi ơn mà Chúa Giêsu đã thủ đắc cho ta nhờ cái chết và máu thánh Người…, và vì Chúa Kitô đã chọn Đức Maria làm người cùng hành động với Chúa trong công trình cứu rỗi, nên Đức Mẹ đã lập công trạng theo tình nghĩa (de congruo) cho chúng ta như người ta thường nói, trong khi Chúa Kitô lập công trạng tự mình Người (de condigno) cho ta…” (57).

Đức Bênêđíctô XV: “Sự kiện Người ở cùng Con mình, đang chịu đóng đinh và hấp hối, là điều phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa. Căn cứ vào mức độ Người từ bỏ quyền làm mẹ đối với Con mình vì phần rỗi nhân loại, và hiến tế người Con ấy để làm dịu đức công bằng của Thiên Chúa, ta có thể nói cách đúng đắn rằng Người đã cùng với Chúa Kitô cứu chuộc nhân loại vậy” (58).

Đức Piô XI: “Ôi Mẹ yêu thương và nhân từ, Đấng đã đứng bên cạnh khi người Con dịu ngọt nhất của Mẹ đang hoàn tất việc Cứu Chuộc nhân loại trên bàn thờ thánh giá, cùng chịu đau đớn với Con như đấng đồng công cứu chuộc… chúng con khẩn cầu Mẹ gìn giữ chúng con và ngày qua ngày gia tăng hoa trái qúy giá công trình Cứu Chuộc của Người và lòng sót thương của Mẹ thánh Người” (59).

Đức Piô XII: “Chính Người, Đấng luôn luôn mật thiết kết hiệp với Con mình, như Evà Mới, đã dâng Con trên đồi Calvary lên Cha Hằng Hữu, cùng với lễ hy sinh quyền làm mẹ và tình yêu thương của mình, nhân danh mọi con cháu Ađam, từng bị sự sa ngã của tổ phụ ấy làm cho nhơ nhuốc” (60).

Đức Gioan Phaolô II: “Trong Người, rất nhiều đau đớn cùng cực đã được tích tụ một cách liên thuộc đến độ chúng không những chỉ chứng tỏ đức tin không lay chuyển của Người, mà còn là một đóng góp vào công trình cứu chuộc mọi người… Chính trên đồi Calvary, mà cuộc thống khổ của Đức Maria, bên cạnh sự thống khổ của Chúa Giêsu, đã đạt đến cường độ không thể nào tưởng tượng nổi nếu đứng trên quan điềm nhân loại, nhưng lại, một cách mầu nhiệm và siêu nhiên, mang nhiều hoa trái Cứu Chuộc cho thế gian. Sự đồng tâm nhất trí của Người trên đồi Calvary và việc Người đứng dưới chân thánh giá cùng với người môn đệ được Chúa yêu thương quả là một hình thức chia sẻ hết sức đặc biệt vào cái chết cứu chuộc của Con mình” (61).

Đức Gioan Phaolô II viết tiếp: “Cùng chịu đóng đinh thiêng liêng với người Con chịu đóng đinh của mình (xem Gl 2:20), Người đã chiêm ngắm, với một tấm tình yêu thương anh hùng, cái chết của Đấng Thiên Chúa của mình, Người đã ‘nhất trí một cách đầy yêu thương với sự hiến tế hiến sinh này, một hiến sinh chính Người đem vào đời’ (Lumen Gentium, số 58)… Thực vậy, trên đồi Calvary, Người đã kết hiệp nên một với lễ hy sinh của Con mình, lễ hy sinh đã dẫn đến việc lập ra Giáo Hội…Quả thực, vai trò của Đức Maria như là đấng đồng công cứu chuộc không chấm dứt với việc con Mình được tôn vinh” (62).

Như thế, ta thấy rõ ràng cả hai tiêu chuẩn về giáo huấn công đồng chung và các giáo huấn được lặp đi lặp lại cách nhất quán của các vị Giáo Hoàng, qua các thông điệp và lời dạy tổng quát, đủ để hỗ trợ thích đáng cho vị thứ giáo huấn học lý chính hiệu của tước hiệu đồng công cứu chuộc của Đức Mẹ.

Nhưng phe phản chứng cho rằng, các tuyên bố trên đây của các vị giáo hoàng ít có giá trị, vì chúng chỉ được phát biểu bằng những văn kiện không đáng giá. Và do đó, không đại biểu cho giáo huấn học lý chính thức của Giáo Hội. Phản ứng như thế là giả tạo tách tước hiệu đấng nữ đồng công cứu chuộc ra khỏi học lý thần học về việc đồng công cứu chuộc, mà tước hiệu kia vốn liên kết một cách yếu tính và từ đó mà có. Tước hiệu này có ý nói tới chức năng thiêng liêng được Đức Mẹ thủ diễn trong việc cộng tác cách độc đáo vào công trình Cứu Chuộc, và do đó, tách tước hiệu này ra khỏi học lý là phá vỡ một cách không thích đáng và đầy nguy hiểm mối liên kết của nó với nền tảng học lý đã được mạc khải và được giảng dạy một cách có thẩm quyền. Tóm lại, sự chắc chắn học lý về sự đồng công cứu chuộc của Đức Maria bảo đảm sự chắc chắn học lý của tước hiệu Maria Đồng Công Cứu Chuộc.

Đàng khác, việc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II liên tục, một cách nhất quán, dùng tước hiệu đồng công cứu chuộc (ít nhất 5 lần, xem phần trên), tự nó cũng cất bỏ khỏi tâm trí tín hữu Công Giáo bất cứ vấn nạn nào về tính chính đáng học lý của tước hiệu đồng công cứu chuộc. Có người cho rất có thể Đức Gioan Phaolô lầm lẫn trong phạm vi này. Tuy nhiên, ý nghĩ này xem ra không có cơ sở khi người ta thấy sự đồng thuận lớn lao đối với tâm và trí vị Giáo Hoàng này ngay trong các vấn đề không có tính vô ngộ (64).

Tóm lại, dưới ánh sáng các giáo huấn của cả công đồng chung lẫn của các vị giáo hoàng, việc Đức Maria đồng công cứu chuộc và tước hiệu nữ đồng công cứu chuộc của Người cấu thành giáo huấn học lý chính thức của Giáo Hội Công Giáo.

Đức Maria cũng cần cứu chuộc

Phản chứng thứ sáu cho rằng Đức Maria cũng cần được cứu chuộc, thì làm sao Người đồng cứu chuộc theo nghĩa khách quan được. Nếu Người quả có hợp tác trong việc cứu chuộc khách quan, chả hóa ra không có sự hợp tác của Người, thì việc cứu chuộc khách quan không hoàn tất? Mà nếu thế, thì chính Người cũng không được cứu chuộc. Có cái gì mâu thuẫn ở đây!

Theo giáo sư Miravalle, mâu thuẫn biểu kiến trên sẽ được loại bỏ nếu ta hiểu thế nào là sự “cứu chuộc gìn giữ” (preservative redemption) dưới ánh sáng các công phúc thấy trước của Chúa Giêsu trên thánh giá.

Quả thực Đức Maria cũng cần được “cứu chuộc” để có thể tham dự tích cực vào diễn trình Cứu Chuộc trong tư cách một cộng tác viên vô tội, tức Evà Mới, với Chúa Giêsu Kitô, tức Ađam Mới, và dưới quyền Chúa Kitô. Nếu mắc tội nguyên tổ hay hiệu quả của tội ấy, Đức Maria không thể nào hoàn toàn kết hiệp với Đấng Cứu Chuộc và ở thế “thù nghịch” hay hoàn toàn chống đối Satan và giống dòng tội lỗi và các hiệu quả của nó được (xem St 3:15), trong diễn trình “mua lại” gia đình nhân loại khỏi Satan và tái lập gia đình này trong ơn thánh. Bất cứ tội lỗi nào trong Đức Maria cũng biến Người thành một thứ “nhị trùng” (double agency) kết hiệp cả với Đấng Cứu Chuộc lẫn Satan. Thành thử, trong tư cách con cái Ađam và Evà theo huyết thống nhân loại, Đức Maria cần được cứu chuộc dưới hình thức được gìn giữ khỏi tội và các hiệu quả của tội để có thể thủ diễn nhiệm vụ làm đấng đồng công cứu chuộc với Đấng Cứu Chuộc trong diễn trình cứu chuộc khách quan phổ quát.

Khi xác định tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Thai năm 1854, Chân Phúc Giáo Hoàng Piô IX công bố rằng từ giây phút tượng thai đầu tiên, Đức Maria đã không mắc tội tổ tông và các hiệu quả của tội này “nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô” (65). Điều ấy cho thấy cung cách cao hơn hay tuyệt diệu hơn trong đó Đức Maria được cứu chuộc, hơn hẳn mọi con cháu Ađam và Evà. Trong ơn cứu chuộc của Đức Maria, Người không phải kinh qua tội nguyên tổ và các hiệu quả của nó, trái lại nhờ các công phúc thấy trước của Chúa Giêsu Kitô trên đồi Calvary, Người đã được gìn giữ khỏi bất cứ cảm nghiệm tội nguyên tổ nào hay bất cứ hiệu quả nào của nó, và do đó được cứu chuộc một cách cao siêu hơn nhiều.

Cách cao siêu hơn nhiều này vốn được hiểu như sau: theo kế hoạch quan phòng của Chúa Cha, ý định đầu tiên của Chúa Kitô là dành công phúc của hy lễ cứu chuộc trên đồi Calvary cho chính người Mẹ của mình (66). Cái ơn phúc do ý định đầu tiên của Đấng Cứu Chuộc ấy đã được áp dụng cho Đức Maria ngay lúc Người được tượng thai, giúp Người trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc không tì vết, Evà Mới của lịch sử, tham dự vào diễn trình cứu chuộc lịch sử khách quan của Chúa Giêsu Kitô trên đồi Calvary.

Thành ra, vai trò lịch sử của Đấng Đồng Công Cứu Chuộc không gây mâu thuẫn chi giữa công trình cứu chuộc khách quan trên đồi Calvary và nhu cầu bản thân của Đức Maria cần đến ơn cứu chuộc. Nhờ việc Vô Nhiễm Thai (ơn cứu chuộc được ban cho Người lúc được tượng thai nhờ công phúc tương lai của Chúa Giêsu Kitô trên đồi Calvary), Đức Maria mới có khả năng tham dự cách độc đáo vào công trình cứu chuộc có tính lịch sử mọi con người khác trong nhân loại cùng với Con Cứu Chuộc của Người. Như lời Cha Galot đã tóm tắt rất hay: “Theo kế hoạch Thiên Chúa, ý định đầu tiên của hy lễ cứu chuộc liên quan đến việc chuộc Đức Maria, với viễn tượng để chuộc tất cả chúng ta… Như thế, khi kết hiệp với hy lễ Calvary, Đức Maria đã được hưởng trước hoa trái của hy lễ này và đã hành động trong tư cách một tạo vật đã được chuộc lại. Nhưng quả thực Người có hợp tác vào việc cứu chuộc khách quan, tức vào việc thủ đắc ơn cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Ơn cứu chuộc của Người đã được mua trước ơn cứu chuộc của các hữu thể nhân bản khác. Đức Maria được Chúa Kitô chuộc chỉ là để nhân loại được chuộc lại với sự cộng tác của Mẹ Người…

Bởi thế, không mâu thuẫn chi hết: việc Đức Maria đồng công cứu chuộc bao hàm việc cứu chuộc thấy trước của Đức Maria… Nó cho thấy vị trí độc đáo của bà mẹ sau khi nhận được ơn thánh đặc biệt của Con mình, đã cộng tác với Người để đạt được ơn cứu rỗi cho mọi người (67).

Nhiều trường phái thần học khác thích phân biệt ý niệm tổng quát về cứu chuộc thành hai loại “gìn giữ” và “chuộc lại” (preservation & ransoming). Vì Đức Maria, xét theo khía cạnh kỹ thuật, không bao giờ ở dưới ách nô lệ của Satan, vì Người không bao giờ cảm nghiệm tội lỗi, nên hạn từ “chuộc” ít chính xác đối với Người, vì hạn từ này chỉ việc lấy lại một ai đó khỏi ách nô lệ trước đó. Do đó, hạn từ “gìn giữ” hay “cứu chuộc gìn giữ” chính xác hơn, vì nó phân biệt được tính độc đáo trong nhu cầu Đức Maria cần được Chúa Kitô cứu chuộc đầu tiên trong tư cách con cháu Ađam và Evà, nhưng lại không có nghĩa là Người từng chịu ách nô lệ tội lỗi của Satan, cho thấy rõ hình thức cứu chuộc cao siêu hơn dành cho Người và việc Người tham dự sau đó vào việc “chuộc lại” mọi người khác trong gia đình nhân loại (68).

Liệu ý định đầu hết của Chúa Giêsu Kitô muốn cứu chuộc mẹ mình để rồi, với ý định kế tiếp, muốn cứu chuộc mọi người khác trong nhân loại có ngược với “lễ hy sinh duy nhất” của Chúa Giêsu Kitô dâng lên cho hết thẩy như đã được đề cập trong Thư Do Thái (Dt 10:10) không? Không hẳn thế, vì sự cứu chuộc vẫn chỉ là một mặc dù ý định và áp dụng có hiệu quả của nó là hai. Lễ hy sinh cứu chuộc duy nhất của Chúa Giêsu Kitô tại Calvary không cấu thành “hai việc cứu chuộc” mà chỉ là một việc cứu chuộc với hai áp dụng cứu rỗi: áp dụng đầu tiên đem lại hiệu quả là ơn Vô Nhiễm Thai cho Đức Maria và nhờ đó chuẩn bị Người trở thành đấng đồng công cứu chuộc qua việc hợp tác của Người vào công trình cứu chuộc khách quan; áp dụng thứ hai đem lại hiệu quả là ơn cứu chuộc cho gia đình nhân loại được thực hiện với đấng đồng công cứu chuộc (69).

Trong bài giảng ngày Lễ Vô Nhiễm Thai tại nhà thờ chánh toà Krakow, Đức Hồng Y Karol Wojtyla (Đức Gioan Phaolô II sau này) đã tóm tắt chân lý về Đức Maria này như sau: “Để trở thành đấng đồng công cứu chuộc, trước hết Người là Đấng Vô Nhiễm Thai” (70).
Vũ Văn An