[go: up one dir, main page]

Thông Tấn Xã Công Giáo Việt Nam Năm thứ 12 - Số 4353 - Thứ Năm 02/10/2008
  
Lòng tin của tuổi trẻ chúng tôi sẽ đặt ở đâu? Nguyễn Khôi
Nhìn lại chặng đường đã qua để thấy rõ con đường trước mặt LM Mai-Thi Dũng-Lạc
Ôn lại: Thư của ĐHY Tomasek, Tổng Giám Mục thành Praha, Tiệp Khắc LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh
Xin hãy phán bảo và chúng con đang lắng nghe'' Bá Duy
Vietnam: Suivis par l’ensemble de la presse officielle, le chef du gouvernement et le chef de la police stigmatisent les catholiques de Hanoi et leur archevêque Eglises d’Asie
Vietnam: Erzbischof von Hanoi de facto unter Hausarrest gestellt Kath Press
Vietnam warns Catholics against mass protests Radio Australia
Hanoi: archbishop under virtual house arrest Catholic World News
Prime minister threatens Vietnamese Church, relations with Vatican Asia-News
Minacce del premier alla Chiesa vietnamita e ai rapporti col Vaticano Asia-News
Meeting between Bishops and Vietnam's Prime Minister was fruitless. Joseph Nguyen
Phù thủy theo Kitô Giáo nhờ danh thánh Maria Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Chúa Nhật Cầu Bầu và nạn phá thai Vũ Văn An
Nhóm SVCG Phát Diệm mừng sinh nhật lần thứ 2 Trần Hà
Sức mạnh giải cứu + GM JB Bùi Tuần
Chị Thánh Têrêxa Hà Đồng Giêsu và ''Con Đường Thơ Ấu'' LM Joseph Trung, O.Carm.
Con sẽ luôn thực hiện thánh ý Chúa Lm Jude Siciliano OP
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và tư tưởng Tin lành LM Fx. Nguyễn Hùng Oánh
Bài học quan trọng của kinh Mân Côi LM Inhaxiô Trần Ngà
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 11:24)
LÒNG TIN CỦA GIỚI TRẺ CHÚNG TÔI SẼ ĐẶT Ở ĐÂU?

Chúng tôi là là thế hệ sinh sau năm 75, được lớn lên và học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa của miền Bắc. Thế hệ của chúng tôi chỉ biết chiến tranh qua sách giáo khoa và tư liệu lịch sử; giáo viên dậy lịch sử là các bác bộ đội phục viên. Với những câu chuyện sống động về chiến tranh: “phe ta” – “phe địch”…, kết thúc luôn là “phe ta” thắng, “phe địch” thua…

Khi lên Đại học, được tiếp xúc với các triết thuyết lớn của nhân loại, như Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Karl Marx và Friedrich Engels; Biện chứng duy tâm của Georg Hegel … khi ôn thi “môn khó nuốt” này, thỉnh thoảng chúng tôi lại tranh luận và bình phẩm một chút về tư tưởng cũng như tầm ảnh hưởng sâu rộng nó trên thế giới hiện tại. Rồi chúng tôi được đọc các tư liệu lịch sử về thời cải cách ruộng đất, những chuyện đấu tố; chính sách của đảng và nhà nước…
Những chuyện này cũng chỉ gợi lên một chút suy tư khi đang ngồi trên ghế đại học, ảnh hưởng của lịch sử không tác động mạnh mạnh đến tư tưởng của chúng tôi, vì sự thật lịch sử trong những câu chuyện quá cường điệu cũng như chủ nghĩa Marx đối với chúng tôi không thật sự hấp dẫn. Chúng tôi học những môn này chủ yếu là đối phó với điểm và kết quả học tập là chủ yếu.

Khi ra trường xin việc, chuyện đút lót, phong bì đô la, rượu ngoại, kể cả đánh đổi bằng thân xác là điều mà chúng tôi xem như là một “quy luật tất yếu” trong xã hội hiện tại. Để học qua 4 năm đại học, mẹ tôi phải bán dần từng mảnh đất, em tôi phải nghỉ học để dành tiền cho tôi đóng học phí. Mỗi lần về quê thấy gương mặt thẩn thờ của mẹ, lời phàn nàn của cha về chuyện thuế má, các khoảng đóng góp được bọc dưới mỹ từ “công ích xã hội” … nếu không đóng kịp thì bị cắt điện, bị lên loa phóng thanh bêu rếu cả ngày.

Qua việc truyền thông đưa lời phát biểu của Đức tổng giám mục Ngô Quang Kiệt lên truyền hình, lên báo đài trong các bản tin thời sự hơn một tuần qua đã sự chú ý trong công ty của tôi. Chúng tôi đã download bài phát biểu của Giám mục Kiệt để đọc và phân tích cũng như đọc một số bài viết trong trang web của VietCatholic. Các cuộc thảo luận mini và diễn đàn nội mạng trong công ty được mọi người thảo luận sôi nổi. Đa phần mọi người đều thở dài ngao ngán cho sự lừa bịp dư luận của truyền thông. Sự thật trong câu nói của Đức tổng Ngô Quang Kiệt đã bị cắt xén và sự thật về tấm hộ chiếu Việt Nam bị soi mói khi đi ra nước ngoài là một sự thật không phủ nhận.

Đọc nguyên văn câu nói của Đức tổng Kiệt: “Do đó, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng“.

Chúng tôi thấy đây là một câu nói của một người có đạo đức, trách nhiệm, trăn trở cho vận mệnh và sự tự hào của người Việt. Sự thật không như truyền hình nhà nước loan tin trong các bản tin thời sự. Qua việc này tôi thấy những người làm công tác truyền thông nhà nước – cấp trung ương chẳng hơn gì mấy chú phát thanh viên làng tôi – những người có trình độ học vấn chưa cấp 2, phát âm còn sai lỗi chính tả…

Thế hệ chúng tôi đã “sống chung với lũ”; đã phải đánh đổi cả nhân phẩm, nhân cách, đạo đức để mưu sinh, nhưng điều chúng tôi lo lắng hơn cả là con cháu của chúng tôi sẽ ra sao khi được đào tạo trong môi trường xã hội Việt Nam hiện tại? Niềm tin của chúng tôi sẽ đặt ở đâu khi cơ quan ngôn luận của nhà nước đã đánh lừa hơn 80 triệu người dân Việt?

Chúng tôi chỉ mong những người còn chút lương tri trong bộ máy cầm quyền nhà nước hãy thắp lên cho chúng tôi một ngọn nến để xua đi bóng đêm của dối trá, bất công, trả lại sự sự thật và công bằng trong xã hội.

Nguyễn Khôi và nhân viên công ty T.A.T
(vì lý do tế nhị với nhà nước, chúng tôi xin giấu tên công ty)
Nguyễn Khôi
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 01:36)
NHÌN LẠI CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA
ĐỂ THẤY RÕ CON ĐƯỜNG TRƯỚC MẶT


Việc đồng loạt tuyên đọc bản “Quan điểm của HĐGMVN” đã hoàn tất một chặng đường và mở ra con đường và chân trời mới. Không còn là chuyện riêng của Thái Hà hay TKS mà là khắp Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Cũng không còn là chuyện đòi đất nhưng là việc đổi mới xã hội theo những giá trị mà Giáo Hội cổ võ.

HĐGMVN đã dấn thân nhập cuộc thì không phải để nói cho qua chuyện nhưng là chấp nhận những giá phải trả, để đạt tới mục đích.

Diễn biến quá nhanh khiến mọi người dường như đang lúng túng tự hỏi: Rồi sao nữa?

Thiết tưởng chỉ cần bình tĩnh một chút để nhìn lại, ta có thể thấy được bàn tay quan phòng của Thiên Chúa và nghe được những điều Ngài đang nói với ta.

1. Thiên Chúa đang can thiệp và giải thích lịch sử bằng Lời Ngài.

Năm nay, do một số Đức Cha bận đi họp ở nước ngoài vào tháng Mười, Hội nghị HĐGMVN được dịch lên cuối tháng 9. Đêm 18 rạng 19-9 người ta bắt đầu thi công ở TKS, ngày 20-9, Đức TGM Hà Nội dự họp tại UBND-TPHN, ngày 21-9 lời phát biểu của ngài bị cắt xén và xuyên tạc ầm ĩ. Thư hiệp thông từ các nơi tới tấp gửi về Tòa TGM Hà Nội. Người Công Giáo cả trong và ngoài nước cầu nguyện để các Đức Giám Mục VN có một tiếng nói chung thật mạnh mẽ. Giữa lúc đó thì theo đúng chương trình, Hội Nghị HĐGMVN khai mạc ngày 22-9, không thể bị ngăn cản. Thế nhưng cuộc Hội Nghị được Chúa dịch lên cuối tháng 9 không chỉ để Nhà Nước không kịp trở tay mà còn để các Giám Mục có thể nghe rõ tiếng Chúa. Vâng, ai có thể khiến toàn thể các Giám Mục chỉ gặp nhau vài ngày mà đúc kết được một tiếng nói hiệp nhất và mạnh mẽ? Chỉ có Thiên Chúa! Nhà Nước không thể nào ngờ trước về cuộc Hội Nghị HĐGMVN nhưng Thiên Chúa thì đã tiên liệu từ đời đời. Chính trong tuần lễ từ ngày 22-9 ấy, nơi các bài đọc giờ Kinh Sách (Tuần 25 Thường Niên), các Giám Mục được nghe Lời Thiên Chúa nói rất thẳng, rất thật và cũng đầy ưu ái qua miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 34,1-31; 36,16-36; 37,1-14; 37,15-28) và Thánh Âu-Tinh về điều Ngài đòi hỏi các mục tử. Chính những lời ấy của Chúa đã khiến cho, ngày 25-9, các văn bản được chung quyết. Ngày 26-9 văn bản bắt đầu phổ biến, thì là ngày mà bài đọc 1 của thánh lễ (Thứ Sáu tuần 25 Thường Niên) nói rõ về ơn hiệp nhất và ơn ngôn sứ: “Có một thời để xé và một thời để khâu, một thời để làm thinh và một thời để lên tiếng” (Gv 3,7).

Thiên Chúa đang nói qua những bài đọc đã sắp xếp từ bao giờ, không chỉ riêng cho tuần lễ có Hội nghị HĐGMVN mà cả sau đó: Cả ngày 26 và 27, Chúa Giêsu đều báo trước về cuộc Thương Khó (Lc 9,18-22; Lc 9,43b-45). Sang Chúa Nhật, ngày 28, bài đọc 1 nói về đường lối của Thiên Chúa (Ed 18,25-28), bài đọc 2 là bài ca về mầu nhiệm tự hủy của Đức Kitô với mời gọi: “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,1-11) – Bài ca này được lặp lại trong giờ Kinh Sách ngày 30-9! Ngày 29, bài đọc 2 của thánh lễ nói về cuộc chiến của Tổng lãnh Thiên Thần Micae đánh bại con rồng để bảo vệ người Phụ Nữ là Giáo Hội (Kh 12,7-12a). Ngày 30, bài đọc 1 đưa ta đi sâu vào câu chuyện ông Gióp (G 3,1-23), còn trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu vừa quả cảm đi lên Giêrusalem chịu khổ hình, vừa khẳng định lại con đường bất bạo động (x. Lc 9,51-55).

Thiên Chúa đang nói, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, có thể kiểm chứng trên giấy trắng mục đen.

Trong bài “Hưởng ứng kháng thư của Đức Cha Kontum”, tác giả NTT nêu câu hỏi: “Ai đã làm cho một cái tàn thuốc bùng lên thành đám cháy liên lục địa nếu không phải là Đấng đã gây ra vụ nổ Big Bang và đang làm chủ lịch sử?” Và đi đến kết luận: “Chi tiết này khiến không thể nhìn vấn đề cách khinh suất.” (VietCatholic 23-9-2008).

Những ghi nhận trên đây về những dấu chỉ của Thiên Chúa Quan Phòng cũng muốn đi tới một kết luận tương tự: Chúng ta cần bình tĩnh để không bắt hụt nguồn ơn lớn lao Thiên Chúa đang ban cho Giáo Hội và Dân Tộc Việt. Thiên Chúa thấu rõ ước mơ của ta và đang thực hiện cho ta theo cách của Ngài và vào lúc của Ngài. Mỗi người, mỗi nhóm, mỗi cộng đoàn cần chú tâm hơn trong sự lắng nghe Lời Chúa hằng ngày. Chúng ta cần biết kiên nhẫn đón lấy những món quà kếch sù Thiên Chúa đang trao tặng thay vì nóng vội làm theo ý riêng.

2. Ơn Chúa

Điều nhìn lại thứ hai là sức mạnh của cầu nguyện. Kinh nguyện từ Thái Hà và từ TKS đã thúc đẩy và gia tăng sự cầu nguyện ở khắp nơi, cá nhân cũng như tập thể. Chỉ có sự cầu nguyện mới giải thích được những ơn vô cùng lớn lao được đúc kết nơi Hội Nghị HĐGMVN.

Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả cũng là uổng công
. (Tv 127,1)

Ai có thể đo lường được những lời nguyện thiết tha và những hy sinh lặng lẽ của đủ mọi thành phần Dân Chúa trong những ngày qua. Kết luận dễ hiểu: Phải tiếp tục cầu nguyện trong hy sinh và từ bỏ.

Không cần thêm những sinh hoạt mới, chỉ cần tham gia đông đảo vào chương trình phụng vụ theo giờ giấc có sẵn tại mỗi giáo xứ, với ý thức cầu nguyện cho công lý và sự thật.

Ơn cần cầu xin là sự thay đổi cõi lòng, trước hết là cõi lòng mỗi chúng ta rồi đến cõi lòng người khác. Bản quan điểm của HĐGMVN được “gửi đến tất cả anh chị em đồng đạo cũng như mọi người thành tâm thiện chí.” Vì thế, trong lời cầu nguyện tha thiết của chúng ta, cần nhấn mạnh thêm ý cầu nguyện cho những người thiện chí, kể cả những người thuộc Đảng CSVN. Cách riêng, cần cầu nguyện nhiều cho các nhà hoạt động dân chủ. Chính họ biết những ngõ ngách để nói thẳng với đám đông những người thiện chí ngoài Giáo Hội.

Đàng khác, cuộc đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp của Dân Tộc không phải là chuyện riêng của người Công Giáo. Mà người Công Giáo lại chỉ là số ít, 7%. Phải làm sao để hơn 90% dân số còn lại cũng thấy vấn đề để cùng nhất tề đòi hỏi sự thật, công lý, dân chủ và nhân quyền. Đây là điều các nhà dân chủ đang theo đuổi và trả giá bằng chính mạng sống mình, cho nên cần cầu nguyện cho họ.

Cần huy động mọi thành phần Dân Chúa tham gia hy sinh cầu nguyện, từ linh mục, tu sĩ, chủng sinh, phụ huynh cho đến bạn trẻ, thiếu nhi, người già và các bệnh nhân. Cần cầu nguyện khắp nơi, mọi lúc và trong mọi việc lớn nhỏ. Không gì ngăn cản được thái độ quyết liệt của cầu nguyện: Vừa bất bạo động vừa liên kết với sức mạnh của Thiên Chúa Toàn Năng.

3. Nói sự thật

Điều nhìn lại thứ ba là sức mạnh giải phóng của sự thật. Từ chuyện đòi đất đai, Thiên Chúa đã thổi bùng lên cho ta cuộc đấu tranh cho sự thật. Sức mạnh của nhà nước toàn trị là những phương tiện truyền thông đầy quyền lực để lừa dối mọi người cách trắng trợn. Không riêng những tình tiết của Thái Hà và TKS, mọi chuyện trên Đất Nước đều đang bị bưng bít và lừa bịp.

HĐGMVN đã thực hiện đúng lời nhắn gửi của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Đừng sợ, hãy hiệp nhất với nhau và hãy nói sự thật”. Sự thật đã được nói lên trong bản tuyên bố quan điểm của HĐGMVN, đã được nhất tề công bố ở khắp mọi nhà thờ trên Đất Nước. Sự thật ấy đang lan rộng và sẽ đập tan sự lừa dối.

Việc rao truyền sự thật này cần phải được tiếp tục qua những buổi học tập sâu rộng về bản quan điểm của HĐGMVN. Nơi nào có thể được, nên tổ chức học tập ở cấp Giáo Phận, rồi Giáo Hạt và các Giáo Xứ. Cần tổ chức học tập cho cả các linh mục, tu sĩ và chủng sinh. Bản quan điểm bắt đầu bằng trích văn từ Hiến Chế Mục Vụ, do đó sau khi học tập về bản quan điểm, cần phải học tập về Hiến Chế này nói riêng cũng như về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nói chung, qua quyển “Tóm lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo” mà linh mục nào cũng có trong tủ sách.

Đã nhiều năm qua, việc đề cập tới sự sai trái của xã hội bị coi như chuyện cấm kỵ đối với người Công Giáo, ai cũng sợ vô tình làm cho người ngoài hiểu lầm rằng Giáo Hội chủ trương chống phá cách mạng. Giờ đây, bản quan điểm khẳng định rõ: “Giáo hội không có chức năng làm chính trị, nhưng cũng không đứng bên lề xã hội.”, chúng ta không còn gì để sợ bị hiểu lầm. Cần phải công khai hóa trong câu chuyện thường ngày. Khi chỉ có mỗi một linh mục lên tiếng, người ta có thể bịt miệng ngay trước tòa án và trước ống kính của truyền thông quốc tế, nhưng giờ đây mọi người đều nhất loạt nói lên, thì không ai còn có thể bịt miệng. Cần làm cho mọi người thấy rõ chúng ta không nhắm đòi lại đất đai của Giáo Hội nhưng nhắm làm lan rộng việc phổ biến sự thật, và mời gọi mọi người, Công Giáo cũng như không Công Giáo, tiếp tay vào việc này.

Cũng đã đến lúc cộng đồng Công Giáo Việt Nam trong nước cần lên tiếng bênh vực cho người anh em đơn thương độc mã là cha Tađêô Nguyễn Văn Lý. Cha Lý đã không đòi gì hơn những điều chúng ta đang đòi. Có thể nói chính ngài đã anh dũng khởi xướng cuộc đấu tranh bất bạo động và đã đơn độc hứng chịu những sỉ nhục của truyền thông mà Đức Giám Mục Hà Nội đang hứng chịu hôm nay.

Cần thông tin cho nhau không chỉ riêng những gì liên hệ đến người Công Giáo mà cả tin tức về những nhà hoạt động dân chủ ngoài Giáo Hội. Với đặc tính Công Giáo, tiếp nhận tinh hoa và thiện chí của mọi nơi, mọi thời và mọi phía, chúng ta vượt khỏi não trạng cục bộ quen có của người Việt để hiệp thông với mọi nỗ lực đang phục vụ cho sự thật, công lý và nhân quyền.

4. Thiên Chúa đang giáo dục và đào tạo Dân Ngài

Điều nhìn lại thứ tư là tinh thần kỷ luật của những anh chị em giáo dân tụ tập tại Thái Hà và TKS. Dù bị đàn áp bằng dùi cui, roi điện, hơi cay hay bị kích động bằng những cử chỉ quậy phá, những lời thô tục, bị nhổ nước bọt, anh chị em đã không hề phản kháng. Rất nhiều anh chị em đã đến theo sáng kiến cá nhân, có thể nói là ô hợp, vô tổ chức, thế nhưng tất cả đã mau mắn nghe theo lời kêu gọi xử sự ôn hòa. Bài học bất bạo động của Thánh Gandhi đã được thấu triệt rất nhanh.

Đó là tấm gương cao cả và hết sức quan trọng mà anh chị em khắp nơi trong nước cần quan tâm học tập. Sẽ có nhiều thủ đoạn trả thù ở nhiều nơi, cần tỉnh táo để khỏi mắc bẫy rơi vào phản ứng bạo động.

Cuộc đấu tranh đã lan rộng trong không gian, đã chuyển thể từ việc đòi đất đai tới đòi công lý, và hơn nữa, đã phát xuất từ lòng Dân Chúa và được Hàng Giáo Phẩm nâng đỡ. Bắt đầu bằng những lá thư hiệp thông của các Tòa Giám Mục, rồi các Giám Mục đích thân đến dâng thánh lễ, cho tới bản tuyên bố chung của HĐGMVN. Từng bước, Thiên Chúa đã làm cho Dân Ngài lớn lên và được hiệp nhất an toàn dưới tấm gương hiệp nhất của các Mục Tử. Các Mục Tử có thể tin cậy vào sự trưởng thành của đoàn chiên và chúc lành cho những sáng kiến tự phát của họ, còn Dân Chúa thì thấy an tâm dưới ơn chúc lành của các Chủ Chăn, thấy đầy tin cậy vào Chúa Quan Phòng và cũng hết sức tự hào về các Chủ Chăn của mình.

Sức mạnh đến từ sự hiệp nhất. Ước gì càng ngày mọi người càng hiệp nhất mạnh mẽ với Đức Giám Mục của mình để cùng hiệp nhất sâu xa với toàn thể Dân Chúa. Đây là sự hiệp nhất trong đa dạng. Mỗi Đức Giám Mục và mỗi Tòa Giám Mục có những hoàn cảnh và điều kiện riêng, có cách nhận định, phản ứng và sáng kiến riêng. Ta không nên đòi hỏi Đức Giám Mục hay Tòa Giám Mục của mình phải làm giống như các Đức Giám Mục hoặc các Tòa Giám Mục khác. Chỉ cần biết rằng tự thâm sâu, tất cả các Đức Giám Mục đều đồng tâm nhất trí, thế là quá đủ. Chúng ta cần tin cậy Chúa Thánh Thần và tin vào ơn chức vụ Ngài ban cho các Giám Mục. Chúa Thánh Thần thi thố ơn Ngài cách đa dạng khiến thế gian không thể nào ngờ trước và cũng không thể nào ứng phó kịp.

Trong hành trình làm người, ai chẳng có lúc lỗi lầm. Chúng ta hãy quảng đại tha thứ cho nhau để vun đắp sự hiệp nhất sâu thẳm trong gia đình, trong giáo xứ, giáo phận và nơi cộng đồng Công Giáo VN trong và ngoài nước. Hiệp nhất sẽ đem lại an ủi và sức mạnh.

5. Đào tạo người hành động xã hội

Điều thứ năm cần nhìn lại là nhân sự. Hơn nửa thế kỷ ở miền Bắc và hơn ba mươi năm qua ở miền Nam, Giáo Hội Công Giáo VN bị bóp nghẹt, không được đào tạo người. Các đoàn thể bị dập tắt, trường học bị tước đoạt, các khóa đào tạo không được tổ chức. Giờ đây chúng ta thiếu người về mọi mặt.

Việc phát động đấu tranh cho công lý, sự thật, dân chủ và quyền con người đòi phải đào tạo tốc hành những người có khả năng hành động xã hội. Phải có những giáo dân được chuẩn bị cho công việc. Công Đồng mời gọi giáo dân đi đầu trong các lãnh vực xã hội, nhưng muốn vậy, họ phải được đào tạo chứ không thể bỗng dưng mà có được.

Đã đến lúc phải nói thẳng điều này không úp mở. Mỗi nơi phải tranh thủ đào tạo người trong điều kiện và khả năng của mình.

Nơi nào có được tài liệu đào tạo dễ dùng, cần sớm chia sẻ với những nơi khác. Chia sẻ cả kinh nghiệm đào tạo.

Một số bài trên VietCatholic những ngày qua có hàm chứa hướng đào tạo, như bài “Hưởng ứng kháng thư của Đức Cha Kontum” (NTT), bài “Một suy nghĩ về quan điểm của HĐGMVN” (Nguyễn Hồng Giáo), “Những thủ đoạn tiếp theo mà CSVN sẽ có thể áp dụng với Công giáo Việt Nam” (Đồng Nhân), vv… Những bài như thế cần được biên tập, hệ thống hóa và cho thường trú trên một Website (chẳng hạn www.dcctvn.net) để nơi nào cần có thể dễ dàng tìm thấy ngay. Những chỉ dẫn và những bài học tập về bản quan điểm của HĐGMVN, về vai trò giáo dân, về Hiến Chế Mục Vụ, về Học Thuyết Xã Hội, cả những bài ca sinh hoạt cũng cần được tập trung ở đó…

Một điều hết sức quan trọng là tự đào tạo và giúp anh chị em tự đào tạo. Cách riêng cần ý thức mình phải được đào tạo trong ơn Chúa. Những bạn trẻ và người trung niên thấy mình được mời gọi dấn thân, cần gia tăng cầu nguyện và hy sinh, cần dành thời giờ học hỏi các tài liệu.

Để đào tạo tinh thần bất bạo động, cần can đảm dứt bỏ rượu bia, tránh nói tục, chửi thề và mọi biểu hiện của sự nóng nảy. Điều này đòi phải có một động lực tâm linh: Hy sinh vì lòng yêu mến Chúa.

Cần luôn đọc và suy niệm Lời Chúa để nhận được ánh sáng ở đó. Cần luôn tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần mọi nơi mọi lúc và trong mọi việc, để khỏi lạc vào chủ quan nóng vội nhưng luôn hòa đúng nhịp lịch sử mà Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn.

6. Quay về miệt mài với bổn phận thường ngày

Sau cùng, xin cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng, sau hơn một tuần sôi động chúng ta được cử hành Tháng Mân Côi với lễ Chị Thánh Têrêxa và Thánh Phanxicô Nghèo. Tháng Mân Côi nhắc ta nhớ những lời hứa của Đức Mẹ và ba mệnh lệnh Fatima: ăn năn đền tội, tôn sùng Mẫu Tâm và lần hạt Mân Côi. Chị Thánh Têrêxa nhắc ta rằng tất cả là ân sủng và cần thực hiện mọi bổn phận nho nhỏ thường ngày với một tình yêu lớn lao. Thánh Phanxicô nhắc ta hát mãi Kinh Hòa Bình và vững bước trên đường bất bạo động.

Những cuộc cầu nguyện tại Thái Hà và tại Tòa Khâm Sứ rồi sẽ thưa người dần. Bản tin hằng ngày sẽ bớt dần những chuyện nổi cộm. Chúng ta sẽ có điều kiện để đẩy cuộc đấu tranh vào chiều sâu.

Có thể truyền thông nhà nước vẫn tiếp tục xuyên tạc. Có thể một số trang web cố tình khích động dân chúng chống lại người Công Giáo. Chúng ta sẽ không để bị lạc vào chỗ hao phí năng lực vì đôi co với họ. Hãy tập trung năng lực vào những điều cần làm: Trao đổi thông tin thật nhanh và chính xác, học hỏi các tài liệu để tự đào tạo.

Tiếp đến, nếu nhìn đây là công cuộc của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cần lắng nghe tiếng gọi hoán cải cho chính bản thân: Gia tăng hy sinh, cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, xưng tội, rước lễ, lần chuỗi, hiệp thông với Trái Tim Mẹ Maria và sống bác ái.

Trước sức mạnh các phương tiện truyền thông của Nhà Nước, khả năng loan truyền sự thật của chúng ta chỉ là châu chấu đá voi. Thế nhưng khi các tầng lớp Dân Chúa đều tích cực đổi mới đời sống theo Tin Mừng, thiên hạ sẽ qua đó mà nhận ra sự thật, và Đavít sẽ thắng Goliát.

Sao chư dân lại ồn ào náo động ?
Sao vạn quốc dám bày kế viển vông ?
Vua chúa trần gian cùng nổi dậy,
vương hầu khanh tướng rập mưu đồ
chống lại Đức Chúa,
chống lại Đấng Người đã xức dầu phong vương.
Chúng bảo nhau: “Xiềng xích họ, nào ta bẻ gãy,
gông cùm họ, ta hãy quẳng đi !”
Chúa ngự trời cao thấy thế bật cười,
Người chế nhạo bọn chúng.
(Tv 2,1-4)

Trong tình thương của Thiên Chúa, cái gì phải đến sẽ đến.

Người cầm bút không cần gay gắt, không bút chiến, tránh “mọi hình thức bạo lực trong hành động cũng như trong ngôn từ” (HĐGMVN: bản “quan điểm”). Ngược lại, cần gia tăng thinh lặng và cầu nguyện trước khi viết. Cách riêng, cần tập trung nặng lực viết những bài có sức đào tạo người cho Dân Chúa, hướng dẫn Dân Chúa bước đi trong bình an và dũng cảm. Tránh rơi vào cách viết đối phó hoặc theo cảm tính nhưng cần tập trung đóng góp những gì đem lại ánh sáng và hướng dẫn lối đi.

Trên đường đồng hành với Dân Tộc đã có một sự phân công rõ ràng: Phần của người Công Giáo là cầu nguyện và triệt để thi hành ba mệnh lệnh Fatima. Mỗi người hãy tích cực góp phần cho công cuộc của Thiên Chúa sớm thành tựu, để mọi người trên thế giới nhận biết chỉ có một Thiên Chúa duy nhất chân thật và là Chủ Lịch Sử, nhận biết Hội Thánh chính là dân con của Ngài và nhận biết Đức Maria là Mẹ và là gương mẫu của Hội Thánh. Được như thế, Hội Thánh Việt Nam sẽ bất ngờ đóng trọn vai trò hết sức lớn của mình trong công cuộc phúc âm hóa mới ở thiên niên kỷ thứ ba này dưới ngọn cờ của Đức Mẹ Maria.

Năm nay chúng ta đã kỷ niệm 20 năm ngày tôn phong các hiển thánh Tử Đạo VN. Chị thánh Têrêxa nép mình giữa bốn bức tường đan viện mà được tôn là bổn mạng các nhà truyền giáo. Tích cực hưởng ứng mệnh lệnh Fatima, con cháu các vị Tử Đạo VN sẽ nối gót chị thánh, trở thành những nhà truyền giáo vĩ đại ngay khi sống tại gia đình mình, chỉ bằng sự chu toàn bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến.

Lời kết

Ngày xưa hiệu lệnh trong làng được thông báo bằng trống. Sau ba hồi trống lôi cuốn sự chú ý của mọi người, sẽ tùy việc phải làm (họp làng, cứu vỡ đê, chữa cháy, vv…) mà đánh thêm một, hai, ba hoặc chín dùi trống lẻ. Đánh trống mà thiếu các dùi lẻ, dân chúng sẽ ngơ ngác không biết phải làm gì. Đánh trống hồi mà bỏ các dùi lẻ là thiếu tinh thần trách nhiệm, và từ đó mà có tục ngữ đánh trống bỏ dùi. Việc đồng loạt tuyên đọc bản quan điểm của HĐGMVN là ba hồi trống đã giục lên. Dân chúng đang lắng tai nghe những dùi trống lẻ.

Làn sóng tự phát sẽ bùng lên và lan rộng, không chỉ trong hàng ngũ người Công Giáo. Đàng nào cũng có thêm những người bị khó dễ, bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn, nhưng nếu kịp thời phổ biến rộng những hướng dẫn có tổ chức về đấu tranh bất bạo động, sẽ giảm thiểu được xương máu. Cần tránh để bị kích động và đàn áp dã man như đã xảy ra với anh em dân tộc ít người ở Tây Nguyên.

Mọi chuyện còn quá mới mẻ, chưa ai có kinh nghiệm nhiều. Cần nhiều người cùng đóng góp suy nghĩ, kinh nghiệm và sáng kiến. Đã đến lúc mỗi Tòa Giám Mục cần có nỗ lực về việc này và trao đổi với các Tòa Giám Mục khác để thêm kinh nghiệm.

Phần các tín hữu, trong tâm tình biết ơn trước những điều Thiên Chúa đang làm cho Dân Tộc và Giáo Hội VN, mỗi người nên chân thành thực hiện một cam kết nội tâm với Mẹ Fatima.

Trên đây là một cố gắng nhỏ bé mong được đóng góp vào việc chung và mong sẽ gợi ý cho nhiều đóng góp khác. Những ai có thể được, xin giúp in bài này ra, trao đổi với bạn hữu để cùng suy nghĩ và thêm sáng kiến góp phần.

Ngày đầu tháng Mân Côi và lễ chị thánh Têrêxa, 01-10-2008
LM Mai-Thi Dũng-Lạc
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 01:07)
Thư của ĐHY Tomasek, Tổng Giám Mục thành Praha,

kiêm Giáo Chủ Công Giáo miền Bohêmia, Tiệp Khắc.


(Công bố ngày 21-11-1989, trước 200.000 người biểu tình tại Praha và được đọc tại các nhà thờ Chúa nhật 26-11-1989.)

Đồng bào thân mến,

Tôi ngỏ lời với anh chị em vài giờ sau khi tôi trở về từ Rô-ma, nơi tôi đã tham dự lễ tôn phong hiển thánh cho Chân phước ANÊ miền Bohêmia. Thánh nữ là công chúa, mặc dầu tu trong đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng ngài không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi nhục. Về phần tôi, tôi cũng không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia của tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hiệp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay.

Người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và chối bỏ các quyền lợi và các quyền tự do của nhân dân. Với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn đất nước chúng ta. Tôi muốn soi sáng tình trạng xã hội của chúng ta qua những kinh nghiệm của Giáo Hội Công Giáo của đất nước này: đã bao nhiêu lần Giáo Hội gửi đến Nhà Nước những lời khiếu nại và thỉnh cầu, nhưng Nhà Nước đều không thèm đếm xỉa gì đến. Mãi đến năm 1985, khi hàng trăm ngàn tín hữu lên tiếng tại Trung Tâm Hành Hương Vê-rê-rát, và sau khi thư thỉnh nguyện gồm mấy trăm ngàn chữ ký được gửi đến Nhà Nước Tiệp Khắc hồi năm ngoái, lúc đó mới có một vài bước tiến bộ. Năm ngoái, tôi cũng đề nghị với Nhà Nước sẵn sàng làm trung gian đối thoại giữa Chính Phủ và Giáo Hội. Nhưng mãi đến cách đây nửa năm, ông Chủ Tịch mới trả lời, nhưng rồi cũng chẳng có tiến bộ gì đáng kể. Giáo Hội tiếp tục lệ thuộc Nhà Nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo Hội từ thời Staline. Trong việc cai quản giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc Nhà Nước và lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của các cơ quan mật vụ. Những cuộc hội họp của các giám mục và linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện Nhà Nước trong các buổi họp. Bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ Công Giáo cảm thấy thật khó thở.

Người ta hứa hẹn với chúng tôi rằng: việc điều chỉnh lại tình trạng pháp lý của Giáo Hội sẽ được thực hiện phù hợp với các quy luật quốc tế về những tự do nhân quyền, nhưng người ta lại không nói gì đến việc Đảng cầm quyền phải từ bỏ chương trình dần dần tiêu diệt đức tin.

Đối với những hạng người như thế, chúng ta không thể tin tưởng được.

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực khoa học, văn hoá, thông tin.

Từ Đông sang Tây, chúng ta đang ở giữa những quốc gia trong quá khứ cũng như hiện nay đang đập đổ những hàng rào của những chế độ độc đoán.

Về phần chúng ta, chúng ta không thể nào chờ đợi được nữa.

Bây giờ cần phải ra tay hành động.

Chúng ta cần có một chính phủ dân chủ, nếu không thì chúng ta không thể nào thành công trong việc chận đứng những tai hoạ về môi sinh và những tai ương khác.

Tất cả những người có điều kiện muốn nói với chúng ta, họ phải được phát biểu tự do, để chúng ta chọn lựa từ nơi họ một chính phủ cùng tiến bước với chúng ta chứ không phải chống lại chúng ta.

Chính vì thế tất cả chúng ta bây giờ đều có trách nhiệm đối với thời điểm hiện tại và tương lai của chúng ta và con em chúng ta.

Các bạn thân mến,

chúng tôi hợp sức với các bạn là những người đang kêu gào công bằng cho tất cả mọi người.

Với lòng biết ơn và kính trọng, tôi hướng lòng về các nạn nhân của bạo lực tàn ác. Lời Chúa Ki-tô được áp dụng cho các bạn: “Phúc cho những người đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no thoả”.

Lời kêu gọi trừng trị những kẻ phạm tội ác là điều rất đúng. Tôi chỉ xin các bạn một điều này: đó là tiếp tục theo đuổi con đường bất bạo động. Chúng ta tranh đấu cho sự thiện bằng những phương thế tốt. Qua kinh nghiệm của những kẻ áp bức chúng ta, chúng ta thấy được rằng những chiến thắng trong giận dữ, thù oán, tham lam, ham hố quyền bính, hống hách đều là những chiến thắng ngắn ngủi.

Hỡi các tín hữu Công Giáo và các linh mục,

Tôi cũng muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử chúng ta, không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lại lên tiếng, hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cả với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có tín ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác. Tự do là điều không thể phân chia được.

Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúng ta: “Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta”.

Praha 21-11-1989

ĐỨC HỒNG Y F. TOMASEK, Tổng Giám Mục Praha

Kiêm Giáo Chủ Công Giáo miền Bohêmia
LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 00:54)
"Xin hãy phán bảo và chúng con đang lắng nghe"

Sau bao nhiêu ngày tháng chúng con những người Giáo dân Hải ngoại và đang ở trong nước thường xuyên trao đổi bàn thảo các tin tức liên quan đến Giáo Hội Việt Nam trên mạng VietCatholic mỗi ngày có những ngày hầu như hằng giờ để cùng hiệp thông với Giáo Hội và quê nhà đặc biệt sự việc nơi Tòa Khâm Xứ và Giáo Xứ Thái Hà Dòng Chúa Cứu Thế.

Những này vừa qua, với tin Toà Khâm Xứ bị cướp san bằng làm vườn cây xanh chúng con những người Dân Việt và là người giáo dân ở Việt Nam cũng như xa quê hương thấy nhà nước cộng sản Việt Nam đã dùng bạo lực quyền độc đảng của thể chế công sản cai trị đất nước trong hơn nửa thế kỷ qua,

Toà Khâm Xứ mà Tòa Thánh Vatican đặt tại Hà Nội không chỉ riêng của một Giáo Phận Hà Nội mà là của Giáo Hội Việt Nam, của tất cả Giám Mục Việt Nam. Toà Khâm Xứ bị cưỡng chiếm là một nỗi buồn chung của tất cả các Giáo Phận, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt chỉ là người Quản Lý Tài sản Toà Khâm Xứ, ngài không đòi hỏi cho riêng mình mà cho một Giáo Hội Việt Nam Hiệp Nhất từ hàng Giáo Phẩm đến tất cả Giáo dân con chiên của Chúa

Hôm nay chúng con đồng thanh xin gửi về Giáo Hội Mẹ Việt Nam, Tổng Giáo Phận Hà Nội, đặc biệt Quý Hồng Y, Quý Tổng Giám Mục, Quý Giám Mục Linh Mục Tu Sĩ tâm tình của chúng con là: "Xin các Ngài phán: Chúng con đang lắng nghe."

Lời nói trên là lời khi xưa trẻ thơ Tiên Tri Denel đã thưa cùng Chúa trong đêm tối.

Lời Chúa đã dạy chúng con từ khi có trí khôn là "Mến Chúa và Yêu Người" chúng con tin tưởng tuyệt đối về những lời giảng dạy Lời Chúa của Giáo Hội qua các đấng bậc có thẩm quyền trong Giáo hội -- không những Lời Chúa nuôi linh hồn con chiên bổn đạo mà Giáo Hội còn quan tâm tới đời sống của con người trong xã hội đầy bất công.

Chúng con những con chiên của Chúa luôn lắng nghe tiếng Chủ chăn, vì Chúa nói "chiên ta thì nghe tiếng ta", còn những người khác tự phong hay tự xưng danh là chủ chăn thì chính là những kẻ trèo tường mà không vào cửa chính của Giáo hội thì trước sau gì họ sẽ bị loại ra khỏi đoàn chiên.

Cuối năm 2007 về vụ Toà Khâm Xứ Hà Nội, các Đức Giám Mục của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã mất bao nhiêu thời giờ để can thiệp với cộng sản Việt Nam cho vụ việc Toà Khâm Xứ cùng với Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt, chúng con giáo dân luôn theo dõi từng giờ những diễn biến, mỗi khi nhìn lên màn ảnh thấy tên Giám Mục Fanxico Xavie Nguyễn Văn Sang là chúng con đọc từng câu Ngài viết, rồi gọi điện thoại cho bạn bè và người thân để thông báo những lời của Ngài, với tuổi đời 78 năm từng trải, Ngài đã chia vui sẻ buồn trong những biến cố của miền Bắc, những nỗi nhọc nhằn nghèo đói của người dân sau năm 1954 dưới chế độ cộng sản. Chúng con cũng đọc được tâm tư can trường của các linh mục, như LM Chân Tín, LM Nguyễn văn Khải, Vũ Khời Phụng, v.v... Các Ngài đã dám nói lên sự thật của một chế độ cộng sản gian dối lừa đảo, một xã hội thiếu công lý và pháp luật đảo điên.

Ngày 15 tháng 8 năm 2008 vụ việc Thái Hà lại bắt đầu bị cộng sản chia chác và rồi Giáo Xứ lại đứng lên đòi công lý, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫm ở Miền Nam gửi thư ủng hộ và gửi thư cho Giáo Dân toàn Miền Nam cầu nguyện cho Thái Hà và Toà Giám Mục Hà Nội, (những năm trước đây Đức Hồng Y đã nhìn thấy những sự việc tương tự như Toà Khâm Xứ và Thái Hà hôm nay, nên Ngài đã ra lệnh cho tất cả Giáo Xứ và Dòng Tu phải kê khai tài sản của mình đang xử dụng và tài sản đã bị cộng sản tịch thu gửi về Tổng Giáo Phận Sàigòn để Ngài cất giữ làm tài liện, ôi thật tuyệt vời khi Ngài nhìn xa một tương lai đen tối khi còn bị cộng sản cai trị. Và đúng thế những ngày này đang đặt Giáo hội VN trong tình trạng bị đàn áp và bị nghi kị, bị vu khống). Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội đã xúc phạm đến Giáo Hội đến hàng Giáo Phẩm bằng cách bêu xấu Đức TGM Hà nội, các linh mục và bắt bớ giáo dân, hơn thế, ngày hôm 18 tháng 9 năm 2008, công an và lực lượng quân đội và cả chó nghiệp vụ cũng như xe cơ giới đến bao vây Tòa Khâm Xứ và san bằng làm công viên.

Cộng sản Việt Nam đang dùng bạo lực uy hiếp áp chế được Đức Tổng Giám mục Hà nội và các linh mục và giáo dân giáo xứ Thái Hà để làm gương cho các tôn giáo khác là không được lên tiếng đòi công lý, hay đòi tài sản của các Giáo hội.

Chúng tôi nhớ lời Chúa Giêsu dậy: "Chúng con là ánh sáng thế gian hãy để ánh sáng lên giá cao để soi sáng anh em". Chúa cũng nói: "Anh em là muối để ướp thế gian, nhưng nếu muói lạt rồi thì còn ích chi, nó sẽ bị vất ra đường và bị chà đạp dưới chân".

Chúng tôi nhớ lại ngày tĩnh tâm với đề tài Truyền Giáo, Cha giảng phòng nói: "Hãy đốt đèn lên cho bừng cháy sáng và đem Chúa ra khỏi Nhà Thờ để cho mọi người nhờ ánh sáng Phục Sinh mà nhìn thấy Chúa Kitô".

Vì thế xin được đề nghị với các xứ đạo và cộng đoàn Công giáo tại Việt nam cũng như hải ngoại, xin tiếp tục thắp sáng lên Niềm Tin và tiếp tục càu nguyện cho Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Hà Nội, các linh mục và giáo dân Hà nọi cũng như nhiều nơi taại Việt Nam đang tranh đấu cho Sự Thật và Công Lý. Xin Ánh Sáng Chúa Kitô soi chiếu trên Quê Hương Việt Nam đang bị tối tăm đàn áp.

Chúng ta bắt đầu vào Tháng 10 là tháng Mân Côi kính Đức Maria, xin cùng cầu nguyện và đồng hành với Đức Mẹ, vì chính Mẹ đã tiết lộ cho biết vào năm 1917 là chúng ta cần năng lần hạt Mân Côi cầu cho nước Nga cộng sản vô thần mau quay trở lại. Việc này đã ứng nghiệm. Vậy ngày nay chúng ta cũng cầu nguyện cho nhà cầm quyền và chế độ CSVN mau quay đầu trở về với con đường ngay chính và từ bỏ chế độ vô thần.

Xin Thánh Gía và Ánh Sáng Chúa Kitô bừng sáng lên chiếu rọi Công Lý và Hòa Bình đích thực trên các nẻo đường quê hương Việt Nam. Xin Mẹ Maria phù trợ cho dân Việt đang bị bách hại dưới chế độ cộng sản vô thần.
Bá Duy
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 11:47)
Vietnam: Suivis par l’ensemble de la presse officielle, le chef du gouvernement et le chef de la police stigmatisent les catholiques de Hanoi et leur archevêque

La campagne de dénigrement de l’archevêque et de la communauté catholique de Hanoi vient d’entrer dans une nouvelle étape. Les plus hautes autorités de l’Etat ont, le 1er octobre, lancé des accusations publiques contre les initiateurs des rassemblements de prière de Hanoi et, en particulier, contre l’archevêque, Mgr Joseph Ngô Quang Kiêt, la cible principale. A tour de rôle, le Premier ministre Nguyên Tân Dung, le vice-ministre de la Sûreté publique, les autorités policières, les organes du Parti communiste (Nhân Dân, Ha Nôi Moi) et le reste de la presse officielle ont concentré le feu de leurs critiques contre les « violations de la loi » commises depuis le mois de décembre dernier par la communauté catholique de Hanoi dans les affaires de l’ancienne Délégation apostolique et de la paroisse de Thai Ha.

Le Premier ministre Nguyen Tân Dung, qui, en janvier 2007, était allé à Rome rendre visite au pape et avait promis à l’archevêque de Hanoi, en décembre 2007, de régler à l’amiable l’affaire de la Délégation, a profité de la visite, le 1er octobre, d’une délégation de la Conférence épiscopale pour exprimer son mécontentement et lancer de très sévères accusations contre les catholiques de Hanoi et leurs pasteurs. Les propos adressés par le Premier ministre à la délégation épiscopale, conduite par Mgr Nguyên Van Nhon, dans l’après-midi du 1er octobre, ont été rapportés immédiatement par certains journaux officiels du soir (1) ainsi que par les journaux télévisés (2). Pour le moment, l’épiscopat vietnamien n’a fait connaître aucune version ou commentaire de cette visite au Premier ministre, visite traditionnelle après chaque réunion de la Conférence épiscopale.

Selon le journal Viêt Bao, le Premier ministre « a sévèrement critiqué les activités (des catholiques) menées en violation de la loi: grands rassemblements de prières, introduction de statues et de croix, érection de tentes, sabotage de biens publics, opposition à des fonctionnaires dans l’accomplissement de leurs tâches, autant d’exactions qui ont été commises sur la paroisse de Thai Ha et au 42 de la rue Nha Chung (ancienne Délégation apostolique) ». On ne peut accepter, a dit plus loin le Premier ministre, que le droit à la liberté religieuse soit utilisé pour commettre des actions illégales ou pour mettre en contradiction la législation propre à la religion et celle de l’Etat. Selon le site officiel du gouvernement (3), le chef du gouvernement aurait précisé que « les paroles et les actes de l’archevêque [avaient] grandement porté tort à son renom aussi bien dans la communauté catholique que dans la société, [avaient] influencé de manière fâcheuse les rapports entre l’archevêché et la municipalité de Hanoi ».

Faisant sans doute référence au récent document de la Conférence épiscopale (4), il a également expliqué que le rétablissement du droit de propriété privée était contraire à la Constitution et à la législation en vigueur. Il s’est déclaré partisan du dialogue, un dialogue qui, selon lui, a déjà conduit au règlement de plusieurs conflits de terre entre l’Etat et à l’Eglise catholique.

Le même jour, au cours d’une interview accordée à l’ensemble de la presse officielle vietnamienne (5), le vice-ministre de la Sûreté, le général Nguyên Van Huong, a également jugé avec une grande sévérité le responsable de la communauté catholique de Hanoi. Ce haut responsable de la police a été mêlé de près à l’affaire de la Délégation apostolique. Le 29 ou le 30 janvier 2008, il avait même promis a l’archevêque de Hanoi la restitution de la propriété réclamée. Dans son interview, il a reproché à Mgr Kiêt d’avoir envenimé les relations entre l’Eglise et le pouvoir et d’avoir porté tort aux rapports entre le gouvernement et le Vatican.

La presse officielle du 1er et du 2 octobre contient de nombreux articles paraphrasant et commentant le point de vue exposé par les responsables du gouvernement et de la police. Dans le journal de la police de Hanoi, Sécurité de la capitale (An Ninh Thu Dô), on peut trouver une lettre ouverte écrite par un lecteur ayant, selon ses dires, participé à la résistance antifrançaise et antiaméricaine, reprochant à l’archevêque son manque de patriotisme. L’organe principal du Parti communiste vietnamien, le Nhân Dân, publié, lui aussi, jour après jour, des articles ou des lettres ouvertes prenant pour cible l’archevêque et des fidèles de l’archidiocèse de la capitale.

(1) Viet Bao du 1er septembre 2008 (article: http://vietbao.vn/Chinh-Tri/Thu-tuong-tiep-doan-dai-dien-Hoi-dong-Giam-muc-Viet-Nam/20806499/96/)

(2) On trouvera le compte rendu de cette émission dans VietCatholic News.

(3) Trang Tin Diện Tu.

(4) Voir EDA 492.

(5) L’interview a été rapportée, entre autres, par la BBC en vietnamien (1er octobre) et Ha Nôi Moi (1er octobre 2008).

(Source: Eglises d’Asie, 2 octobre 2008)
Eglises d’Asie
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 10:51)
Hanoi, 2.10.08 (KAP) Der seit fast einem Jahr andauernde Konflikt zwischen katholischer Kirche und kommunistischer Regierung in Vietnam erreicht einen neuen Höhepunkt. Wie der katholische Nachrichtendienst "Vietcatholic News" am Donnerstag mitteilte, steht der Erzbischof von Hanoi, Joseph Ngo Quang Kiet, faktisch unter Hausarrest. Seine Residenz werde durch vietnamesische Sicherheitsbehörden regelrecht belagert. Auf Dächern der umliegenden Häuser seien Überwachungskameras installiert, Telefonate würden abgehört. Das Büro des Erzbischofs sei geschlossen, er selbst in seiner Bewegungsfreiheit außerhalb der Residenz eingeschränkt, heißt es.

Auslöser der Auseinandersetzungen sind Forderungen der Kirche nach Rückgabe von enteigneten Grundstücken und Gebäuden in Hanoi. So demonstrieren in der vietnamesischen Hauptstadt seit Wochen Tausende Katholiken gegen den Abriss der ehemaligen Nuntiatur. Die kommunistischen Machthaber ihrerseits fordern den Rücktritt von Hanois Erzbischof Ngo, den sie als Drahtzieher der Proteste bezeichnen.

Unterdessen verlief ein Treffen zwischen einer Bischofsdelegation unter Führung des Erzbischofs von Saigon, Kardinal Jean Baptiste Pham Minh Man, und dem vietnamesischen Ministerpräsidenten Nguyen Tan Dung ohne Ergebnis. Der Regierungschef verurteilte das Verhalten des Erzbischofs von Hanoi Berichten zufolge scharf. Die Proteste in der Hauptstadt hätten negativen Einfluss auf das Verhältnis zwischen Kirche und Staat, so Tan Dung. (ende)
Kath Press
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 10:28)
Vietnam's prime minister has warned Roman Catholic leaders the communist state will not tolerate mass protests by followers demanding the return of seized church land.

Prime minister Nguyen Tan Dung criticised Catholic mass gatherings held in two parishes of the capital Hanoi in recent months, in talks with Vietnam Episcopal Council leader Bishop Nguyen Van Nhon.

He told the bishop if those activities do not come to an end, they will have an adverse impact on the good ties between the state and the church and the relationship between Vietnam and the Vatican.

Catholics started their prayer vigils late last year for the return of several properties seized after the communists took power from the French in North Vietnam in 1954.

Police have in recent weeks cracked down on the vigils, arrested several protesters and locked down the disputed Hanoi properties, where the government is building public parks and a library.

Mr Dung thanked Bishop Nhon for not encouraging the protests, but charged that Hanoi Archbishop Ngo Quang Kiet had instigated the gatherings and shown a "lack of respect and cooperation with the Hanoi administration.
Radio Australia
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 09:59)
Hanoi, Oct. 1, 2008 (CWNews.com) - In an escalating battle with government officials in Hanoi, Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet is now under virtual house arrest.

The archbishop's office is closed. His staff has locked the gate outside the office to prevent sudden attacks by the pro-government mobs that gather regularly outside, yelling slogans in praise of Communism and questioning the prelate's patriotism. Some of his normal activities have also been delayed or cancelled due to security reasons. Archbishop Ngo cannot leave his residence without confronting the mobs, and the faithful dare not call on him for the same reason.

On the rooftop of Hoan Kiem primary school, right across from the archbishop’s office, and on other nearby buildings a panoply of electronic equipment has been set up: spy cameras and listening devices overtly deployed to monitor all activities in the office. The blatant use of this monitoring equipment also served to intimidate those who might wish to contact the archbishop.

Other measures to isolate Msgr. Joseph Ngo have also been employed. The church at Mac Thuong in Ly Nhan, Ha Nam, was raided by thugs on Wednesday. Young toughs went inside the church, shouting obscenities at those who were praying there, threatening that their lives would not be easy until the archbishop was removed. Father Phuong, the pastor of Mac Thuong, reported that his parishioners had no means of defending themselves. Mac Thuong is a small parish with only 300 faithful and most men in the parish have to work far away from home.

Catholic correspondents in Hanoi also reported a number of cases in which elderly people have been hired to go to the archbishop’s office, masquerading as Catholics, to call for his resignation.

On another front, the archbishop’s office has received an order from the People's Committee of the Hoan Kiem district, accusing the archbishop and his staff of illegally placing a statue on a state building. Along with the decision to confiscate the statue, the committee announced the imposition of a fine on the archbishop for the alleged offense.

The statue in question was placed on the grounds of the building that once served as the apostolic nunciature in Hanoi. Church officials have consistently argued that the building rightly belongs to the Church, and produced real-estate documents supporting that argument. Father John Le Trong Cung, vice chancellor of the archdiocese, explains that “the nunciature and its land are not state properties. They are Church’s properties. Hanoi Catholics did nothing wrong when they placed the statue on the ground of the building.”
Catholic World News
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 09:51)
Receiving the leadership of the bishops' conference, the prime minister asserts that if the archbishop of Hanoi does not change his attitude about Church property, it will have "a negative impact" on relations with the episcopate and with the Holy See.

PM Nguyen Tan Dung and bishops
Meeting between PM and bishops
Hanoi (AsiaNews) - Involving the situation of the entire Vietnamese Church, and also the possibility of improved relations with the Vatican. This is the approach that Vietnamese authorities seem to be taking in the controversy opposing the people's committee of Hanoi against the archbishop of the city, Joseph Ngo Quang Kiet, over the ownership of the building of the former apostolic delegation and the land of Thai Ha. The stakes were raised by the Vietnamese prime minister, Nguyen Tan Dung, who yesterday received (in the photo) the leadership of the episcopate: the head of the bishops' conference, Nguyen Van Nhon, Cardinal Pham Minh Man, and Archbishop Nguyen Nhu The.

According to the long account published by the official news agency VNA, the prime minister maintained that Archbishop Kiet "has challenged the state, damaged the nation, and shown disdain toward the position and status of Vietnamese citizens in their relations with the world", in addition to violating "the constitution and the law". Given this, the prime minister "has asked the Vietnamese episcopal conference to review Archbishop Kiet's behavior more thoroughly, and especially his respect for the law, for the sake of the common good". This last statement, in the language typical of the communist party, has threatening overtones. The prime minister himself made this more clear, saying that "if these activities do not end, they could have a negative impact on the good relations between the state and the Church, and in relations between Vietnam and the Vatican, which are progressing in a positive manner".

Before the attack against Archbishop Kiet, according to typical diplomacy, the prime minister, "in an open and cordial atmosphere", expressed his satisfaction with "the solidarity between Catholics and the other members of society", in addition to praising "the contribution of the Catholic community to the achievements of the country in recent years, as also during the first nine months of 2008". After a long commentary on the respect for the law and for the state demonstrated by Catholics, he stated that Vietnam does not acknowledge private property, and that therefore the requests of Archbishop Kiet are unfounded. This was followed by a list of properties that, nonetheless, have been granted to various Churches in the country.

As for the bishops, the agency reports only that "they thanked the prime minister for receiving them, and expressed the aspiration of the Catholic faithful to continue to accompany the country in its development".

Both the account by the VNA and reports on state television left out the fact that the bishops, as Fr Joseph Nguyen comments from Hanoi, "openly rejected the accusations against the archbishop of Hanoi". "The bishops also denounced the growing campaign of defamation against the prelate and other Catholic leaders and the assaults against the parishes of That Ha and Mac Thuong, as well as against the archbishop's residence". They also stressed "the dishonesty of the state media" and "the propensity of the government to use violence to discourage people who cry out against injustice".

Finally, the prime minister made no reference to the efforts by bishops in February to have the complex of the former apostolic delegation given back to the Church, nor to the "gradual restitution to ecclesiastical use of properties nationalized in the past", mentioned in the note released in June at the end of the visit to Vietnam on the part of a delegation from the Holy See.
Asia-News
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 09:50)
Ricevendo il vertice della Conferenza episcopale, il primo ministro afferma che se l’arcivescovo di Hanoi non cambierà atteggiamento sui beni della Chiesa, ciò avrà “un impatto negativo” nelle relazioni con l’episcopato e la Santa Sede.

Hanoi (AsiaNews) – Coinvolgere la situazione dell’intera Chiesa vietnamita ed anche la possibilità di miglioramento dei rapporti con il Vaticano. E’ la strada che appaiono prendere le autorità vietnamite nella controversia che oppone il Comitato popolare (municipio) di Hanoi all’arcivescovo della città, mons. Joseph Ngo Quang Kiet, per il possesso del complesso della ex delegazione apostolica e del terreno di Thai Ha. Ad alzare ulteriormente il tiro è stato il primo ministro vietnamita, Nguyen Tan Dung, che ieri ha ricevuto (nella foto) i vertici dell’episcopato: il presidente della Conferenza episcopale, Nguyen Van Nhon, il cardinale Pham Minh Man e mons. Nguyen Nhu The.

Nel lungo resoconto dato dall’agenzia ufficiale Vietnam News Agency, il premier ha sostenuto che mons. Kiet “ha sfidato lo Stato, danneggiato la nazione e mostrato disprezzo verso la posizione e lo status dei cittadini vietnamiti nei loro rapporti con il mondo”, oltre ad aver violato “la Costituzione e le leggi”. Tutto ciò premesso, il primo ministro “ha chiesto al Consiglio episcopale vietnamita di dare maggiore collaborazione all’arcivescovo Kiet, soprattutto nel rispetto della legge, per il comune interesse”. Parole, queste ultime, che nel linguaggio tipico del Partito comunista, hanno un senso minaccioso. A renderle più chiare, l’affermazione dello stesso primo ministro, che “se queste attività non avranno fine, esse avranno un impatto negativo sui buoni rapporti tra lo Stato e la Chiesa e nelle relazioni tra il Vietnam ed il Vaticano, che stanno progredendo positivamente”.

Prima dell’attacco a mons. Kiet, secondo una scenografia usuale, il premier, “in un’atmosfera aperta e cordiale”, si è compiaciuto per “la solidarietà esistente tra i cattolici e le altre componenti della società”, oltre a lodare “il contributo della comunità cattolica alle conquiste del Paese nei recenti anni, così come durante i primi nove mesi del 2008”. Dopo una lunga tirata sul rispetto dimostrato dai cattolici per le leggi e lo Stato, l’affermazione che il Vietnam non riconosce la proprietà privata e che quindi le richieste di mons. Kiet sono senza fondamento. Segue il particolareggiato elenco dei terreni ugualmente concessi a varie chiese dl Paese.

Quanto ai vescovi, l’agenzia riporta solo che “hanno ringraziato il primo ministro per averli ricevuti e hanno espresso l’aspirazione dei fedeli cattolici di continuare ad essere a fianco della nazione nella costruzione del Paese”.

Sia nel resoconto della VNA che nei servizi della televisione di Stato, è stato omesso che essi, come riferisce da Hanoi padre Joseph Nguyen, “hanno apertamente respinto le accuse contro l’arcivescovo di Hanoi”. “I vescovi inoltre hanno denunciato le crescente campagna di diffamazione contro il prelato ed altri esponenti cattolici, gli assalti alle parrocchie di Thai Ha e Mac Thuong, oltre che contro la residenza dell’arcivescovo”. Essi hanno anche evidenziato “la disonestà dei media statali” e “la propensione del governo ad usare la violenza per scoraggiare gente che grida contro l’ingiustizia”.

Nemmeno un cenno, infine, da parte del premier, all’impegno che egli stesso aveva preso a febbraio sulla restituzione alla Chiesa del complesso della ex delegazione apostolica, né a quella “graduale restituzione all’uso ecclesiastico delle proprietà a suo tempo nazionalizzate” delle quali si parlava nella nota diffusa a giugno, al termine della visita in Vietnam di una delegazione della Santa Sede
Asia-News
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 00:35)
Having issued a statement reflecting their position on the land dispute-turned-conflict between the state and archdiocese of Hanoi, bishops went to meet with Vietnam Prime Minister.

PM Nguyen Tan Dung and bishops
Meeting between PM and bishops
A delegation of bishops met with Prime Minister Nguyen Tan Dung on Wednesday Oct. 1 to discuss issues relating to growing tensions in Church-state relation. Bishop Nguyen Van Nhon of Dalat, president of the Vietnam Conference of Catholic Bishops; Cardinal Pham Minh Man of Saigon; and Archbishop Nguyen Nhu The of Hue archdiocese had arrived at the meeting place with the anticipation that the prime minister would reiterate what he had promised Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet in February of this year, in which the former nunciature of Hanoi would be returned to Hanoi archdiocese, its legal owner. What they were about to hear, however, was a lecture aimed at Hanoi archbishop and a subtle message to the Conference of Bishops from the notorious flip-flopping prime minister.

State television broadcast a long detailed report on Wednesday evening. In his opening statement, the prime minister asserted that the government's stance on the issue would remain the same as that of 54 years ago, that is only the collective ownership of land is recognized. He also gave his support to Hanoi city stating that "the handling of the local government at Thai Ha parish and the nunciature was justified.” He went on to criticize Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi quite harshly accusing the prelate of "having actions and words that had damaged his own reputation among the Vietnamese Catholic Community and the society as a whole, thus affecting the good relation between the archdiocese and Hanoi local government, and to the extent of between the Church and the state." The report stated that the prime minister wanted the prelate “to have a serious review of his behavior in order to make practical corrections to overcome his shortcomings.” He also asked the Conference of Bishops, for "the common good of all, to support and assist the prelate more as he needed to abide the state law."

Dung's statement came as a shock to, or to be more specific, a slap in the face of the bishops and the Catholic Church as a whole since it blatantly contradicted with what he had solemnly promised to Hanoi diocese, and to the Vatican early this year.

Ironically, what had happened at the Thai Ha and at the nunciature during the recent conflicts were still raw in people's mind as a classic example of what a persecution look likes. Events were also recorded by camera and witnessed by the thousands parishioners and others. Yet the prime minister of the government which calls itself "servant of the people" still had the nerve to deny it, and shamelessly put the blame on the honest archbishop whose statement was altered and used as a substance for a widespread propaganda in a negative way.

It should be noted that in the statement released on Sept 25, the Vietnamese Conference of Bishops has concluded that Archbishop Joseph Ngo had done nothing wrong in the said conflict. Bishops have also acknowledged that outdated and inconsistent policy in land law combined with national calamities of bribery and corruption had led to the injustice done on the Hanoi Catholics and many others throughout the country; and the media while serving for the interest of their owner, the state, have purposely distorted the story in order to victimize the victims once again.

State television did not show reactions of bishops. However, “they frankly rejected every accusation against Hanoi archbishop,” said Fr. Joseph Nguyen from Hanoi.

“The bishops also denounced the on-going defamation against the prelate and other Catholic leaders, and the attacks at Thai Ha, and Mac Thuong parishes, as well as at Hanoi archbishop’s residence,” he added.

Also, “the bishops took this opportunity to reiterated their views in which they blamed the tensions for the murky, outdated land law which trembles the right to own private property as stated in the Universal Declaration of Human Rights; the dishonesty of state media which have been proven to be effective in spreading doubts and mistrust instead of bridging the nation with mutual understanding and unification; and the tendency of the government to use violence to depress people who cry out for justice thus creating more social injustice,” Fr. Joseph Nguyen reported.
Joseph Nguyen
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 09:14)
PHÙ THỦY THEO KITÔ GIÁO NHỜ DANH THÁNH MARIA

Một ngày, Cha Phaolo thuộc dòng Anh Em Hèn Mọn Thánh Phanxicô, rời thành phố San Francisco, bang California Hoa Kỳ, lên đường sang truyền giáo bên Togo, thuộc lục địa Phi Châu. Cùng đi với Cha Phaolo có một Linh Mục cùng dòng.

Nơi miền truyền giáo xa xôi xứ Togo, hai Linh Mục dòng Phanxicô hăng say bắt tay ngay vào việc cứu vớt các linh hồn. Nơi đây có những làng hẻo lánh, đèo heo hút gió. Dân chúng sống dưới sức tác oai tác quái của các ông thầy phù thủy. Họ dùng ma thuật quỷ thuật, bỏ bùa bỏ ngãi, làm hại tất cả những ai họ muốn chống phá để gieo rắc oán thù và gây chết chóc. Người ta chuyền miệng nhau rằng, có những người bị nhóm quỉ ám đông đến độ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu là có bấy nhiêu tên quỷ ám bên trong. Dĩ nhiên đây chỉ là ”tiếng đồn”!

Hai tuần sau khi đến Togo, một ngày Cha Phaolo và vị Linh Mục cùng dòng ra đi làm việc truyền giáo. Đang đi, bỗng trời đổ ập cơn mưa kèm thêm sấm sét, trông thật kinh hoàng. Hai vị Thừa Sai quyết định tìm trú ẩn nơi một cái chòi. Nào ngờ đó là cái chòi của ông phù thủy Hijò!

Dầu biết rõ hiểm nguy, nhưng với trọn lòng tin tưởng nơi sự phù trợ của THIÊN CHÚA và sức bảo vệ quyền năng của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, hai vị Thừa Sai vẫn can đảm bước vào.

- Hijò, hỡi bạn thân mến, có cho phép chúng tôi dừng chân trú ẩn nơi căn chòi của bạn không?

Hai vị Thừa Sai cất tiếng nhỏ nhẹ hỏi ông phù thủy như thế. Nhưng bên trong không có tiếng trả lời. Im lặng như tờ, như thể không có ai. Hai vị lại cất tiếng nói:

- Hijò bạn à, chúng tôi là hai Linh Mục của cứ điểm truyền giáo. Bạn có bằng lòng cho chúng tôi trú nơi căn chòi của bạn không?

Liền lúc đó cả hai Thừa Sai nghe một tiếng gầm gừ, nghe rợn tóc gáy! Hai vị không thấy gì cả, vì căn chòi tối thui và đầy khói.

Cha Phaolo vẫn không thối lui. Cha tiếp tục nài nĩ:

- Hijò à, chúng tôi là người của THIÊN CHÚA. Chúng tôi bất ngờ bị mưa nên nghĩ đến chuyện vào xin bạn cho trú qua cơn mưa. Nếu bạn tiếp rước chúng tôi thì quả thật bạn làm một ân huệ lớn lao và chắc chắn THIÊN CHÚA trả công bội hậu cho bạn!

Một tiếng gầm gừ khác trổi lên như tiếng trả lời duy nhất cho lời xin của Cha Phaolo. Ông phù thủy Hijò vẫn ngồi im trước đống lửa, đôi mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa, trên đầu trùm một tấm lông chiên. Cha Phaolo tiếp tục:

- Đây là dịp tốt để chúng ta trở thành bạn hữu. .

Cha Phaolo nói chưa hết câu thì ông phù thủy Hijò bỗng rống to lên. Toàn thân ông rúng động vì giận dữ. Nước miếng nước bọt trào ra hai bên mép. Chưa hết, ông nhẩy bổ tới túm lấy Cha Phaolo, đôi mắt lộn tròng trừng trừng nhìn Cha như muốn ăn tươi nuốt sống. Trước mặt Cha Phaolo lúc bấy giờ không còn hình tượng ông phù thủy, nhưng đúng thật là tên quỉ hiện hình!

Cha Phaolo không chút nao núng. Cha thầm thĩ đọc lời nguyện dâng lên Đức Nữ Vương Rất Thánh MARIA:

- Lạy Mẹ, toàn câu chuyện giờ đây thuộc về Mẹ. Con không xin Mẹ cứu con thoát chết, nhưng vì tình yêu các linh hồn được Máu Thánh Con Mẹ đổ ra cứu chuộc, xin Mẹ hãy cứu linh hồn ông Hijò này, để ông được sống muôn đời.

Thu hết can đảm và sức lực còn lại, Cha Phaolo nói lần cuối với ông phù thủy:

- Ông Hijò à, tôi không mảy may sợ các thứ bùa ngãi của ông, bởi vì tôi là người của THIÊN CHÚA. Không một quyền lực sự dữ nào có thể làm hại tôi. Chính ông mới phải sợ hãi. Bởi vì, nếu chẳng may bị chết, ông sẽ lãnh án phạt đời đời trong lửa hỏa ngục. Vậy thì, ông Hijò à, hãy khẩn cầu lòng nhân lành của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Thế, qua trung gian Mẹ Ngài là Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.

Nếu vị Linh Mục Thừa Sai đổ ập trên người ông phù thủy một vạc dầu sôi, hẳn không gây kinh hoàng cho bằng khi tai ông phù thủy nghe đến danh thánh Đức MARIA. Ông phù thủy Hijò nằm lăn xuống đất, người cuộn tròn, uốn éo ngoằn ngoèo y như một con rắn. Cha Phaolo kiên nhẫn lập lại:

- Hijò à, bạn hãy kêu cầu danh thánh Đức Mẹ MARIA và chắc chắn bạn sẽ được cứu thoát.

”MARIA”, ông Hijò thầm thì lập lại.

Ôi danh thánh MARIA quả thật nhiệm mầu!

Chỉ bấy nhiêu đó thôi, đủ cho Ơn Thánh có sức tuôn xuống trên người ông phù thủy.

Một thời gian ngắn sau đó, ông phù thủy Hijò xin học đạo và xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội, gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Ông chọn tên thánh rửa tội là Phêrô-Phaolô Maria, để ghi nhớ ơn lành Đức Mẹ MARIA ban qua trung gian vị Thừa Sai Linh Mục Phaolô.

... Có điềm lớn xuất hiện trên Trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên Trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên Trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên THIÊN CHÚA, lên tận ngai của Ngài. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó THIÊN CHÚA đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày (Sách Khải Huyền 12,1-6).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 02:43)
Chúa nhật cầu bầu và nạn phá thai

Đức tổng giám mục Denis Hart của tổng giáo phận Melbourne, Úc, vừa công bố chọn Chúa nhật mồng 5 tháng 10 làm Chúa nhật Cầu bầu để dự luật phá thai không được thượng nghị viện của tiểu bang Victoria thông qua. Ngài khẩn khoản “xin anh chị em tham dự với tôi một giờ cầu nguyện tại Nhà Thờ Chính Tòa Thánh Patrick và lúc 12 giờ 15 trưa hôm đó… Tôi muốn cùng anh chị em liên đới với phụ nữ và các trẻ chưa sinh đang bị dự luật kia đe dọa trực tiếp”.

Dự luật này đã được hạ nghị viện tiểu bang thông qua với đa số 47/35 phiếu. Ngày 7 tháng 10 này, nó sẽ được đem ra biểu quyết tại thượng nghị viện tiểu bang, nơi mà theo thủ hiến John Brumby nhận định, dự luật ấy sẽ được thông qua. Mục đích của dự luật là nới rộng các điều khoản phá thai đã có từ trước, đặc biệt cho phép phụ nữ phá thai hợp pháp những đứa con đã được 24 tuần trong bụng mình. Với ý kiến y khoa, họ cũng được phá những đứa con ở ‘hạn tuổi’ lớn hơn 24 tuần.

Các bệnh viện Công Giáo sẽ bất hợp pháp?

Bác sĩ Brigid Mckenna, chuyên viên chính sách của Trung Tâm Sự Sống, Hôn Nhân và Gia Đình tại tổng giáo phận Sydney cho hay: “Chẳng có gì là thông sáng hay giải phóng trong dự luật này cả. Nó nguyên tuyền chỉ là chết chóc và áp bức. Đây quả là một dự luật chống lại sự sống một cách đầy kinh hoàng. Nó lỏng lẻo hơn thực hành hiện nay và chắc chắn sẽ làm gia tăng tỷ số phá thai… Nếu được thông qua, luật pháp Victoria chắc chắn sẽ bỏ rơi những hữu thể nhân bản yếu ớt chưa sinh ra và các bà mẹ của các em. Đạo luật này cũng chống lại các nhà chuyên nghiệp trong ngành săn sóc y tế vì đã bỏ đi điều khoản cho phép các bác sĩ được quyền phản bác theo lương tâm, ngược lại còn buộc các y tá phải trợ lực trong các vụ phá thai vào giai đoạn cuối, ngược với lương tâm của họ”.

Bác sĩ McKenna nói rằng: “phá thai không phải là ‘một thủ tục y khoa thông thường’. Nó không bao giờ có tính điều trị, chữa chạy hay chăm sóc. Nó nguyên tuyền chỉ là kết liễu một mạng sống nhân bản và gây thương tích cho trái tim con người. Ta phải ra các đạo luật nhằm bảo vệ sự sống, chứ không tạo sự chết”.

Trước khi kêu gọi cầu nguyện vào Chúa nhật mồng 5 tháng 10, Đức tổng giám mục Denis Hart viết thư cho từng vị thượng nghị sĩ của Tiểu Bang khẩn khỏan yêu cầu họ bác bỏ dự luật trên vì nó vi phạm các nhân quyền căn bản nhất của con người. Bởi vì theo Ngài, nếu dự luật này được thông qua, thì không còn sự sống trong bụng mẹ nào được bảo vệ và các bà mẹ bị thai nghén ngoài ý muốn sẽ không được ai nâng đỡ nữa. Ngài cũng tái khẳng định: các bệnh viện Công Giáo sẽ không tiến hành các vụ phá thai và cũng sẽ không cung cấp giấy giới thiệu để đi phá thai. Ngài nói rằng dự luật này, nếu được thông qua, sẽ khiến “các bệnh viện và các bác sĩ Công Giáo, là các cơ quan và viên chức vốn chống đối việc phá thai từ trong lương tâm họ, phải hành động ngược lại luật pháp. Điều này là một đe doạ thực sự đối với sự hiện hữu của các bệnh viện Công Giáo”. Ngài cho các vị thượng nghị sĩ hay: dự luật này ngang ngược tấn công chính dịch vụ y tế mà Giáo Hội Công Giáo đang cung cấp cho công chúng Victoria, nơi Giáo Hội giúp ‘đỡ đẻ’ cho một phần ba các vụ sinh nở của Tiểu Bang. Sự sống còn của các bệnh viện Công Giáo quả tình đang bị đe dọa vậy.

Các chế độ độc trị như Cộng Sản Việt Nam bị toàn dân phản đối vì đã dùng bạo lực hạ cấp để ngăn chặn không cho các tôn giáo, nhất là Công Giáo, thực thi các nguyên tắc thực sự nhân bản, phục vụ con người của mình, qua công tác y tế, giáo dục và xã hội. Sự phản đối của họ không phải chỉ bằng lời bằng chữ, mà còn bằng chân và nhất là bằng máu như đang diễn ra tại Hà Nội, ở tòa Khâm sứ cũ, ở nhà thờ Thái Hà, và rất nhiều địa điểm trên khắp mọi miền đất nước. Còn các chế độ tự nhận là tự do, tôn trọng phẩm giá con người, như Úc thì sao? Hình như sự ngang ngược của họ cũng không thua gì mấy ‘tên’ cực đoan Cộng Sản. Kết cục: họ cũng sẽ từ từ loại chúng ta ra khỏi khu vực công, để tự quanh quẩn với cái thứ lương tâm cá nhân của mình? Trong khi ấy, thái độ chống đối của chúng ta hình như không có cùng một cường độ như đối với các chế độ độc trị.

Công Giáo hay không Công Giáo?

Nhiều người Công Giáo còn ngầm thỏa hiệp với các chiến thuật đánh phá của kim tiền, của tư dục. Như Nancy Pelosi, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện Mỹ, người tự nhận là “Công Giáo nhiệt thành từng nghiên cứu vấn đề [phá thai] từ lâu” nhưng không thấy vị tiến sĩ nào của Giáo Hội lên án nó. Và rồi Thượng Nghị Sĩ Joe Biden của tiểu bang Delaware và hiện đang tranh chức phó tổng thống Mỹ, người không ngớt cho rằng mình là “Công Giáo đạo hạnh”, thậm chí có lần còn nghĩ đến việc đi tu làm linh mục! Nhưng điều ấy không ngăn cản ông ‘phò phá thai’ vì ông nghĩ “quan điểm của tôi hoàn toàn nhất quán với giáo huấn xã hội của Giáo Hội”.

Nhưng một chính trị gia khác, hiện đang nổi như cồn là Thống Đốc Sarah Palin của Alaska, hiện là ứng cử viên phó tổng thống Mỹ của Đảng Cộng Hòa, người ít khi nói đến tôn giáo của mình, nhưng lại hết lòng phò sự sống. Có người cho rằng bà vốn được rửa tội trong Đạo Công Giáo nhưng sau đó đã theo một giáo phái khác. Điều ấy không biết thật hư ra sao, nhưng điều ai cũng biết là bà chẳng cần phải huênh hoang về tôn giáo của mình như các đối thủ kia, mà vẫn có được một đường đi thẳng tắp. Trig, đứa con thứ năm của bà, 5 tháng trước khi sinh ra, bị chẩn đoán mang hội chứng Down. 90% các bà mẹ đang mang thai mà nghe chẩn đoán ấy đều chọn phá thai đứa con ‘tật nguyền’. Sarah không đi vào vết chân của họ. Hai tuần lễ sau khi Trig sinh ra, bà nói với báo chí: “Lúc này nhìn ngắm cháu, tôi thấy cả một sự hoàn hảo. Chúng tôi cảm thấy được đặc ân vì Thiên Chúa đã trao cho chúng tôi quà phúc này và ban cho chúng tôi niềm vui khôn tả được tiếp nhận cháu vào cuộc đời chúng tôi”. Người ta cũng còn nhớ hồi tháng Mười Một năm 2006, khi đang tranh cử chức thống đốc Alaska, Sarah Palin từng tuyên bố rằng bà sẽ không ủng hộ phá thai dù con gái của bà có bị hiếp dâm đi chăng nữa. Con gái lớn của bà lúc đó mới 14 tuổi, và tỷ lệ hiếp dâm tại Alaska vốn cao hơn tỷ lệ toàn nước Mỹ đến 2.2 lần. Cô con gái ấy sau này cặp bồ và đã mang thai lúc chưa kết hôn. Nhưng Palin và gia đình không những ủng hộ cô trong quyết định giữ đứa con mà còn hãnh diện được làm ông bà ngoại!

Những con đường khác

Sarah Palin thuộc loại người con nói thì không nhưng làm thì có trong phúc âm. Nancy Pelosi và Joe Biden thuộc loại người con nói thì có mà làm thì không (theo ý người Cha).Trong số người con đầu, ta cũng thấy có thượng nghị sĩ Guy Barnett của Úc, theo tường thuật của Đức Hồng Y George Pell trên tờ The Catholic Weekly ngày 21 tháng 9 vừa qua.

Thượng nghị sĩ này tìm cách ‘hạn chế’ tác động của các đạo luật giống như dự luật đang được tranh luận tại Victoria. Ông vừa đưa ra một kiến nghị (motion) sẽ được thượng nghị viện bàn cãi nhằm ngăn cản không được dùng ngân qũy của Medicare tài trợ các vụ phá thai ở tam cá nguyệt thứ hai, nghĩa là lúc đứa con được từ 14 tới 26 tuần trong bụng mẹ. Các tiến bộ ý khoa gần đây đã cải thiện khả năng sống sót cho nhiều thai nhi đến độ các thai nhi 21 tuần ‘tuổi’ vẫn có cơ may sống thoát được. Kiến nghị của Thượng Nghị Sĩ Barnett cũng hạn chế không cho các ‘chuyên viên phá thai’ được lỏng lẻo giải thích “các bệnh đe doạ sinh mạng người mẹ” vì họ muốn liệt kê các lý do tâm lý và xã hội như đủ để biện minh cho việc phá thai, thực tế chỉ có nghĩa là ai muốn phá thai cũng được. Theo Đức Hồng Y Pell, hơn một nửa các vụ phá thai sau tuần lễ thứ 20 tại Victoria trong năm 2005 đã được tiến hành vì các lý do tâm lý và xã hội ấy. Kiến nghị của TNS Barnett cũng cấm không được dùng ngân khoản của Medicare để tài trợ những vụ phá thai vì thai nhi bị những điều kiện như thiếu ngón tay hay ngón chân, hay một điều kiện có thể chỉnh hình được như sứt môi chẳng hạn.

Nhận định của Đức Hồng Y Pell là càng hạn chế con số phá thai càng tốt. Thực ra, lý tưởng là không có phá thai. Lý tưởng ấy chỉ có thể đạt được, bao lâu các nhà lãnh đạo và cộng đồng Kitô giáo buộc được các chính khách phải chịu trách nhiệm chính trị trong vấn đề này, như nhận định của Tom King ở Brisbane trên mục ý kiến bạn đọc của tờ The Catholic Weekly số ngày 28 tháng 9 năm 2008.

Lời ân hận của Jane

Cũng trong số báo trên, linh mục Bernard McGravath ở Inglewood, Victoria cho hay: quyết định của Tối Cao Pháp Viện Mỹ hợp pháp hóa phá thai, qua vụ Roe v Wade vào năm 1973, đã đưa lại hậu quả ít nhất 50 triệu vụ phá thai có hồ sơ từ ngày ấy đến nay. Có điều, nguyên đơn vụ án là “Jane Roe”, tên thật là Norma McCorvey, đã xuất hiện trên một chương trình thương mãi, lần đầu tiên, tỏ ý ân hận về vai tuồng của mình. Bà nói rằng: “Năm 1973, tôi là một người đàn bà 21 tuổi hết sức mù mờ với một đứa con và một cái bầu không tính trước. Tôi tranh đấu để được quyền phá thai hợp pháp, nhưng xin thú thực, tôi chưa bao giờ phá thai và thực tế tôi có tới ba con gái. Tôi hiểu ra rằng trường hợp (tranh đấu) của tôi, tức việc hợp pháp hóa phá thai theo yêu cầu, là lỗi lầm lớn nhất trong đời tôi. Qúy vị đọc về tôi trong lịch sử nhưng giờ đây tôi hiến đời mình để truyền bá chân lý về việc duy trì sự sống con người từ lúc thụ thai tự nhiên tới lúc chết cách tự nhiên”. Bà McCorvey hiện nay là một Kitô hữu hoạt động. Ta có thể đọc bà trên trang mạng www.virtuernedia.org/television.htm.

Không riêng McCorney, rất nhiều những người không phải chỉ tranh đấu quyền được phá thai, mà chính những người từng hành nghề phá thai đã lên tiếng tỏ ý ân hận về các hành động “giết người của mình. Số đông thú nhận mình dối trá. “Chúng tôi thường phải nói dối. Một cố gái có thể hỏi xem đứa con của mình hiện nay ra sao: nó đã thành đứa nhỏ chưa? Ngay lúc mới 12 tuần, đứa nhỏ đã thành hình hoàn toàn rồi, đã có dấu tay, đã quay đầu được, đã xòe được ngón chân, đã cảm thấy đau. Nhưng chúng tôi thường nói: ‘chưa, chưa thành đứa nhỏ đâu. Mới chỉ là miếng thịt, giống như cục máu đông’”. Họ cũng thường dấu không cho các phụ nữ thấy màn ảnh trong đó đứa con của họ đang ‘tung tăng’ đó đây.

Có những bác sĩ phá thai cho rằng mình đã trở thành người phân tâm loạn trí (schizophrenic) như trường hợp được tờ Washington Post số ngày 1 tháng Tư năm 1988 thuật lại: “Tại phòng này, bạn khích lệ bệnh nhân rằng tim bào thai hơi bất thường một chút chả có chi quan trọng, bà sẽ có một đứa con tốt đẹp, khỏe mạnh. Rồi tại phòng kế bên, bạn phải làm yên lòng một phụ nữ khác mà bạn có nhiệm vụ phải tiến hành việc phá thai bằng chất muối độc (saline abortion) rằng thì là nhịp tim (đứa nhỏ) bắt đầu bất thường rồi… bà không việc gì phải lo lắng, bà sẽ không có đứa con còn sống nhăn đâu mà sợ… Bỗng nhiên bạn thấy rõ có rất nhiều sinh hoạt diễn ra trong tử cung lúc bạn dẫn chất muối đậc vào. Đó không phải là những chuyển động của dung dịch chất lỏng. Mà bào thai, vì bị dung dịch muối hành hạ, đang húc đạp tứ tung, dấu hiệu tử thần đang ập tới…một ai đó phải làm việc ấy, và bất hạnh thay, trong trường hợp này, chúng tôi lại là người hành quyết”.

Dù đã được huấn luyện hay “nhồi sọ” coi bào thai chỉ là một mớ tế bào, một khối thịt, một của nợ, một gánh nặng, thậm chí còn là một “thứ bệnh”, rất nhiều chuyên viên phá thai vẫn phải thú nhận họ đang giết “một ai đó” (somebody), một bé thơ (a baby), một con người (a person). Ta hãy nghe bác sĩ Dzenes:

"Và rồi phải nhìn, phải hiện diện với một ai đó lúc họ bị chích thuốc, lúc họ đã được 20 hay 24 tuần lễ, và thấy em bé chạy tứ tung, húc đạp khi mũi kim đi vào dạ dầy, thì bạn thấy…”.

Một chuyên viên phá thai khác là Susan Lindstrom, M.S.W thuật lại:

"Tôi nhìn vào chiếc chậu trước mặt tôi. Ở đấy là một con người bé nhỏ trần truồng, đang giật giờ trong vũng máu – nguyên tuyền là một nạn nhân khốn khổ của một tai nạn chết đuối. Có điều đây không hẳn là một tai nạn, vì cơ thể em bầm tím và khuôn mặt thì hốc hác như khuôn mặt một ai đó bị cưỡng bức phải chết. Tôi đã thấy khuôn mặt như thế trước đây, của một người lính Nga đang nằm trên một đỉnh đồi phủ tuyết, chết cứng khô lạnh”

Điều ấy khiến bác sĩ Neville Sender, một chuyên viên phá thai, tâm sự: “Cả bây giờ tôi cũng cảm thấy hơi kỳ, vì trong tư cách y sĩ, tôi vốn được huấn luyện để bảo vệ sự sống, ấy thế mà mình lại đang đi hủy diệt sự sống ấy”. Một chuyên viên phá thai khác thú thực: “Không một bác sĩ [phá thai] nào lại không có lúc phải thú nhận rằng đây qủa là việc sát nhân”.

Magda Denes, một bác sĩ và là một tác giả phò phá thai, trong hai năm tìm tòi để viết cuốn “ In Necessity and Sorrow; Life and Death Inside an Abortion Clinic”, cũng phải thú thực: “Tôi nghĩ phá thai là giết người, tuy là một thứ giết người hết sức đặc biệt và cần thiết. Và không một y sĩ nào can dự vào thủ tục này lại dám đùa dỡn về việc này. Vì bạn quả đang giết một sự sống”. Một chuyên viên phá thai khác, được Denes phỏng vấn, cho hay: “các nhân viên bệnh viện trong khi ủng hộ quyền lựa chọn (phá thai) của một người đàn bà nhưng vẫn cho hay họ không muốn nhìn thấy những bàn tay, những bàn chân tí hon…Có cả một dị biệt lớn giữa việc ủng hộ trí thức đối với quyền chọn lựa của người đàn bà và việc thực sự tham dự và việc tàn sát của phá thai”.

John Pekkanen, trong “M.D. Doctors Talk About Themselves” trang 93, nói về một chuyên viên phá thai:

"Trước đây tôi ủng hộ phá thai, tôi nghĩ người đàn bà có quyền kết liễu cái thai họ không muốn có. Bây giờ, tôi không chắc chắn như thế nữa. Hiện tôi đang là một sinh viên gần kết thúc thời kỳ học luận phiên về OB-GYN tại một bệnh viện và trung tâm giảng dạy lớn của thành phố. Đến mãi lúc tôi tận mắt thấy thế nào là phá thai, tôi mới thay đổi ý kiến. Sau tuần lễ đầu tiên tại một bệnh viện phá thai, nhiều người trong nhóm sinh viên của tôi bắt đầu mất hết các cảm nhận tích cực trước đây về phá thai. Thái độ mới này là kết quả việc chúng tôi được tận mắt thấy thủ tục phá thai “Prostaglandin” đại khái giống như thủ tục phá thai bằng dung dịch muối độc…phương pháp này dùng để phá những bào thai từ 16 tuần trở lên. Tôi hay đi tìm lý lẽ bào chữa như bào thai không sống thực, bụng dưới không có sưng lên…Nhưng nay thì hết bào chữa nổi. Tôi và cả lớp tôi hiện nay khá hoài nghi về phá thai. Nay tôi đã hiểu biết nhiều về nó. Phụ nữ cần hiểu biết đầy đủ hơn về phá thai, về các tác hại thực sự của nó đối với chính họ và đứa con chưa sinh ra của họ. Bất kể người ta đưa ra cơ chế tâm lý nào để khích lệ, chỉ cần nhìn thấy bào thai trong chiếc chậu nhà thương cũng đủ là lời cuối cùng”

Cuốn “ M.D. Doctors Talk About Themselves” đã nói ở trên cũng trích dẫn lời một bác sĩ phá thai viết trên tờ AAANews của Hiệp Hội Y Khoa Mỹ ngày 12 tháng 7 năm 1993 như sau: “Tôi cảm thấy giận mình hết sức… vì đã thấy an ổn khi thực hành một thủ tục kỹ thuật mà mình cho là tốt để hủy hoại một bào thai, một bé thơ

Một chuyên viên phá thai khác ước ao: “Tôi không thể chối cãi đó là việc hủy diệt… Tôi mong được sống trong một thế giới không có phá thai”.

Một thế giới như thế chỉ có khi người ta biết nhìn nhận công trình sáng tạo của Thiên Chúa nơi những chủ thể tí hon mà hiện họ đang coi là trở ngại, một miếng thịt dư, một thứ ô nhục cần loại bỏ. Chúa nhật này, không biết nhà thờ chính tòa Thánh Patrick ở Melbourne có đông người đến cầu nguyện vào lúc 12 giờ 15 trưa hay không?
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 11:12)
HÀ NỘI - Ngày 28/09/2008 Nhóm Sinh viên Công giáo Phát Diệm (SVCG PD) tổ chức Thánh lễ mừng Sinh nhật lần thứ 2 và Khai giảng năm học mới 2008-2009 tại Nguyện Đường giáo xứ Thái Hà – Gp. Hà Nội, Do Cha Mát-thêu Vũ Khởi Phụng - chủ tế, cùng đồng tế có quý Cha gốc Phát Diệm tại Hà Nội.

Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 19/09/2006 Nhóm SVCG Phát Diệm đến nay đã trưởng thành và lớn mạnh đồng thời đạt được những thành tựu hết sức khả quan như: giải nhất hội trại lễ truyền thống của Hội SVCG TGPHN năm 2007, tích cực tham gia các hoạt động: tiếp sức mùa thi, các hoạt động từ thiện…. Nhắc đến SVCG PD không thể không nhắc đến cha Phêrô Nguyễn Văn Khải - Người đã luôn cùng đồng hành và dìu dắt Nhóm từ ngày khởi đầu cho đến thời điểm này. Bên cạnh đó Nhóm SVCG PD còn nhận được sự quan tâm một cách đặc biệt của quý Thầy, quý Sơ, đã dành thời gian đến để cùng chia sẻ những tâm tư nguyện vọng của sinh viên Công giáo trong các buổi sinh hoạt hàng tuần, hàng tháng. Và sự giúp đỡ trong nhiều mặt của các quý ân nhân gần xa … Tất cả đã trở thành nền tảng vững chắc để Nhóm SVCG PD ngày một lớn mạnh và trở thành một tổ chức ổn định.

Cùng đến chúc mừng ngày Sinh Nhật của Nhóm, có sự hiện diện của quý Cha, quý Thầy đến từ ĐCV Thánh Giuse HN, Anh Giuse Nguyễn Tiến Đạt - Trưởng Hội SVCG TGPHN cùng Ban đại các Nhóm SVCG Hải Hà, Nông Nghiệp, Bắc Ninh, Bùi Chu, Hà Nam, Thái Bình,…….các quý Ân nhân và đặc biệt là đông đảo các bạn sinh viên và tân sinh viên Công giáo.

Ngày kỉ niệm SVCG Phát Diệm tròn 2 tuổi được sự quan tâm đặc biệt của Cha Mát-thêu Vũ Khởi Phụng - Bề trên Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, cùng quý Cha đồng hương Phát Diệm. Sự hiện diện của quý Cha trong thời điểm này có một ý nghĩa hết sức đặc biệt đối với SVCG Phát Diệm nói riêng và đối với các bạn sinh viên có mặt trong buổi lễ này nói chung – đó là một quyết tâm sống để làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh dù là trong gia đình, nơi học đường hay ngoài xã hội…..

Có mặt ở nơi đây, tôi cảm nhận được ánh mắt trong những người bạn trẻ một nhiệt huyết một sức sống tràn trề. Mặc dù trong giai đoạn hết sức nhạy cảm, nhưng tề tựu trong buổi sinh nhật này lại là một số lượng lớn các bạn sinh viên đến từ nhiều nơi, từ nhiều trường ĐH, CĐ khác nhau. Điều này thể hiện sự qủa cảm và lòng khát khao đi tìm “Công lý và Sự thật” của sinh viên Công giáo. Cùng ngồi với nhau chung lời ca tiếng hát, những tiếng hát vút cao của tuổi trẻ như xua tan bầu không khí u ám phía bên ngoài. Xin có đôi lời cảm nhận về SVCG PD. Lần đầu tiên được tiếp xúc với các bạn, tôi cảm nhận thấy một sức trẻ vui tươi, năng động, thật xúc động và cảm phục khi nghe các bạn đã hoàn thành xuất sắc công tác tiếp sức mùa thi hè 2008 vừa qua, ấn tượng về một Nội San SVCG PD độc đáo. Chính sự nhiệt tình của các bạn đã cho các bạn sinh viên Tôn giáo bạn nhìn vào với con mắt đầy thiện cảm và ngưỡng mộ, để rồi hiện diện trong ngày sinh nhật hôm nay có rất nhiều các bạn sinh viên không cùng Công giáo cảm mến và cũng muốn tham gia cùng gia đình SVCG chúng ta. Có lẽ, đây sẽ là động lực để chúng ta phấn đấu và nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện chính mình, để cho thế giới bên ngoài biết rằng: Chúng ta là Sinh viên Công giáo, giỏi về tri thức, hiểu biết tốt về xã hội, luôn sống chân chính, ngay thẳng, tôn trọng sự thật, không có gì là khó khăn mà SVCG không thể vượt qua!

Sự thay đổi cơ cấu trong Ban đại diện của Nhóm mang đầy sức trẻ trung và năng động, hi vọng đây sẽ là một chặng đường đầy khí thế trong tương lai. Con đường hoa hồng luôn ở trước mắt chúng ta, tuy nhiên sẽ có nhiều cam go và bụi gai nhưng chỉ cần chúng ta luôn đồng hành, sát cánh cùng nhau thì không có gì có thể bẻ gẫy hay phá rời gia đình SVCG chúng ta. Dù là SVCG thuộc Phát Diệm, Nam Định, Nội Thành, Hà Nam hay Bắc Ninh, Bùi Chu, Vinh, Thái Bình, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Thanh Hoá, Nông Nghiệp, Công Nghiệp,...... thì tất cả chúng ta là anh em một nhà. Các Cha bề trên đã luôn đặt niềm hi vọng vào chúng ta, không có lí do gì mà chúng ta phụ lòng tin của các Ngài.

Một năm học mới hứa hẹn nhiều thành công mới, chúng ta hãy cùng quyết tâm học tập và trau dồi kiến thức để góp phần trong quá trình phát triển Giáo Hội. Hãy dấn thân và đừng sợ hãi vì có Chúa luôn ở cùng chúng ta.
Trần Hà
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 09:00)
SỨC MẠNH GIẢI CỨU

Nhân dịp lễ Đức Tổng lãnh thiên thần Micae (29/9), cũng là Bổn mạng Đức Cha Cố Nguy?n Khắc Ngữ, vị cha già trăm tuổi của giáo phận Long Xuyên, tôi xin chia sẻ đôi chút suy niệm của tôi về sức mạnh giải cứu lịch sử.

1. Từ xa xưa, lịch sử được mô tả như một cuộc chiến đấu giữa thiện và ác.

Theo sách Khải Huy?n, thì đứng đầu phía thiện là Đức Tổng Lãnh thiên thần Micae. Ngài chỉ huy một số thần lành. Còn đứng đầu phía ác là Luxiphe. Nó nắm giữ một số thần dữ.

Hai bên giao chiến ác liệt. Sau cùng, phía Đức Micae toàn thắng, phía Luxiphe thảm bại. Chúng bị xua đuổi xuống hoả ngục.

Sau này, cuộc chiến đó đã được trình bày bằng ảnh tượng, Đức Tổng Micae dùng gươm giáo đâm đầu Luxiphe, đạp nó dưới chân Ngài.

Hình ảnh đó đề cao sức mạnh của quyền lực. Như thể quyền lực là dấu chỉ của Thiên Chúa, Đấng giải cứu muôn dân.

Hình ảnh quyền lực đó đã một thời ám chỉ quyền lực của Hội Thánh.

2. Nhưng, trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã phác hoạ hình ảnh lịch sử một cách khác.

Lịch sử vẫn là cuộc chiến đấu giữa thiện và ác. Nay đứng đầu phía thiện là Chúa Giêsu. Đứng đầu phía ác vẫn là ma quỷ.

Chúa Giêsu đã thắng ma quỷ, giải cứu con người bằng một khí cụ khác gươm giáo. Khí cụ đó là cây thánh giá.

Thánh giá của Chúa Giêsu là khiêm nhường, khó nghèo, yêu thương và hy sinh.

Từ đó, Hội Thánh ca ngợi thánh giá Đức Kitô bằng lời sau đây: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta".

3. Nhờ niềm tin vào sức mạnh của thánh giá Đức Kitô, Hội Thánh xây dựng sức mạnh tu đức, mục vụ và truyền giáo trên nền tảng khiêm nhường, khó nghèo, yêu thương và hy sinh từ bỏ mình.

Đường lối đó đã và đang được thực hiện ở khắp nơi. Nơi nào thực hiện tốt, thì kết quả tốt.

Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, những người theo Chúa vẫn bị cám dỗ bỏ con đường thánh giá Chúa, hoặc nếu còn theo, thì lại kết hợp sức mạnh thánh giá với sức mạnh gươm giáo.

Thực tế cho thấy, nhiều người chúng ta coi nhẹ sức mạnh của nội tâm, để đặt nặng sức mạnh của quyền lực bên ngoài và những phương tiện trần thế.

Đó là một nguy hiểm lớn cho Hội Thánh. Nguy hiểm lớn nhất là sự suy sụp đời sống đức tin, như đang xảy ra tại một số nước chối từ thánh giá.

4. Khi bị cám dỗ coi thường sức mạnh của nội tâm nơi thánh giá cứu độ, tôi nhớ về Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.

Đời Ngài là con đường thánh giá.

Con người của Ngài là khí cụ hoà bình của Chúa Giêsu.

Hình ảnh Ngài là can đảm của hy sinh, khiêm nhường, yêu thương, khó nghèo.

Sức mạnh thuyết phục của Ngài là đời sống nội tâm dạt dào đức ái.

Cái máng Ngài dùng để chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn là thánh giá của Ngài kết hợp với thánh giá Đức Kitô.

Được ở bên Ngài, tôi thấy rõ điều này: Ngài biết buông ra những gì không cần thiết, và biết nắm vững những gì là cần phải nắm, nhất là trong những hoàn cảnh phức tạp khó khăn.

Ngài phân biệt rõ: Không phải đau khổ nào cũng là thánh giá Chúa.

Chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam một vị mục tử tốt lành là Đức Cha Cố Micae.

Nguyện xin Chúa nhân lành ban cho chúng ta luôn được ơn khôn ngoan và can đảm, biết con đường nào là đúng con đường thánh ý Chúa, để làm chứng hữu hiệu cho Chúa trong thời điểm rất phức tạp mà Chúa đang sai chúng ta đi vào.
+ GM JB Bùi Tuần
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 08:58)
Chị Thánh Têrêxa Hà Đồng Giêsu và "Con Đường Thơ Ấu"

Từ xưa đến nay, Giáo Hội chúng ta đã có rất nhiều những vị thánh; những con người đã anh dũng sống một cuộc đời lý tưởng bằng đời sống hy sinh nhiệm nhặt phi thường, ăn chay, hãm mình, đánh tội phạt xác… và còn rất nhiều phương thế khác để nên thánh. Nhưng trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, chắc có lẽ chỉ có chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã chọn một phương thức nên thánh bình thường; đó là chị đã chọn sống “con đường thơ ấu”. Quả vậy, “con đường thơ ấu” của chị tuy bình thường đã trở nên rất khác thường.

“Đường thơ ấu” theo lẽ thường của cuộc đời nghe cứ nghịch tai sao ấy. Ấy vậy mà lại là con đường được chính Chúa Giêsu phổ biến đấy; Ngài nói: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” Mà theo cách nói bình dân, “đường thơ ấu” cũng đồng nghĩa với con đường của “trẻ con”, mà trẻ thơ thì có gì đặc biệt để mà nói đến cơ chứ. Có chăng cũng chỉ là dựa dẫm, là cần đến sự nâng đỡ, dìu dắt của người lớn, thế thì có gì hay chăng để mà bàn, mà kể. Thế đấy, chân lý của Nước Thiên Chúa lại nằm ngay trong chính những điều bé mọn, những điều tưởng chừng như “điên dại so với sự khôn ngoan của loài người”.

“Đường thơ ấu”, hay nói khác đi là trở nên như trẻ nhỏ thật không phải chuyện dễ dàng, nhất là khi chúng ta đã lỡ thành người lớn mất rồi. Vì khi làm người lớn, người trưởng thành, chúng ta phải đương đầu với nhiều chuyện, mà khi đương đầu với những toan tính mưu sinh như thế, có mấy ai còn giữ được một tinh thần trẻ thơ thật sự. Tuy người lớn có lắm điều hay mà cũng thật nhiều điều giở, nếu không muốn nói là tệ hại. Người lớn thường lập ra thế giới của riêng mình, biến họ thành những nhà lập luật và đôi khi thành những quan tòa độc đoán…chẳng thế mà con người ta lắm lúc nhìn đứa trẻ chơi đùa vui vẻ mà cứ ước ao về một thế giới hòa bình của trẻ thơ. Trong thế giới của người lớn, Thiên Chúa cũng khó lòng mà có thể chen chân vào được huống chi là trẻ nhỏ. Vì nếu Ngài chen chân vào, họ bảo mất tự do; nếu Ngài dùng điều răn mà giáo huấn họ, họ bảo không dân chủ. Chả thế mà Nước Thiên Chúa khó mà ngự trị được nơi thế giới của những người lớn lắm toan tính và nhiều mưu mô. Mà hỡi ôi, cái chân lý đơn giản để Nước Thiên Chúa có thể ngự trị lại là trở nên như trẻ thơ, yêu thương như trẻ thơ, và phó thác như trẻ thơ.

“Trở nên như trẻ thơ” là một điều mà khi lỡ làm người lớn rồi ta mới ước ao. Vì trẻ con thì không phức tạp như người lớn; chúng cũng có những suy nghĩ, những toan tính đấy, nhưng cứ nhìn cách chúng diễn tả tình yêu là người lớn chúng ta có mơ cũng chẳng thể nào đạt được. Chúng cứ gọi “cha ơi” hay “mẹ ơi” một tiếng rối cứ thế mà buông mình vào lòng cha mẹ, giao phó hết mọi sự vào tay cha mẹ. Trẻ nhỏ càng không tranh đấu, chẳng đòi thiệt hơn với cha mẹ mình. Lắm khi sự vòi vĩnh của chúng cũng chỉ là trong chốc lát, nhưng ý cha mẹ vẫn là tốt nhất.

Vì thế mà chị nhỏ Têrêsa của chúng ta đã đi ngược lại với dòng đời, đã chọn “con đường trẻ thơ”. Nói thế không có nghĩa là chị thánh lúc nào cũng như trẻ nít, trái lại chị rất người lớn và rất có trách nhiệm trong đời sống. Điều duy nhất chị đã làm là bắt chước Chúa, trở nên tình yêu, mém mình vào vòng tay yêu thương từ ái của Cha Trên Trời. Chị đã chọn diễn tả “ơn gọi tình yêu” của mình bằng cách sống “con đường thơ ấu,” chọn yêu thương như trẻ thơ, và tập gọi tiếng “cha ơi” bằng tinh thần trẻ thơ. Vì khi yêu hết mình và đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa, điều đó cũng đồng nghĩa với việc từ bỏ ý riêng, không toan tính thiệt hơn trong tình yêu, chẳng đòi điều kiện nào ngoài điều kiện xây đắp tình yêu bằng lòng tin tưởng và phó thác.

Chúng ta được sinh vào cuộc đời bằng tác động của tình yêu và ân sủng. Để rồi đến lượt mình, chúng ta cũng được mời gọi để sống ơn gọi yêu thương đó trong tương quan với tha nhân, gia đình, bè bạn. Nhưng làm sao có thể diễn tả tương quan tình yêu như trẻ thơ, một khi chúng ta đã lỡ làm người lớn mất rồi? Thiết nghĩ, cách duy nhất để chúng ta có thể sống ơn gọi tình yêu như chị Thánh Têrêsa là yêu như trẻ thơ và sống tình yêu một cách phong phú, đơn sơ như trẻ thơ – tin tưởng tất cả, phó thác tất cả, và nhường nhịn tất cả.

Nhất là những ai đang sống “ơn gọi hôn nhân”, chính họ được mời gọi để nói với mọi người rằng “ơn gọi của tôi là tình yêu”. Chính họ đang được mời gọi để “cải lão hoàn đồng” tình yêu hôn nhân của họ, bằng cách yêu thương hết mình, không tranh đấu, không toan tính thiệt hơn, nhẫn nhịn, và hòa giải bằng một tình yêu tin tưởng và phó thác cho nhau. Vì nếu như mỗi gia đình biết lấy câu châm ngôn của Thánh Têrêsa, “ơn gọi của tôi là tình yêu”, mà áp dụng cho tình yêu của họ; và nếu mỗi người trong gia đình mà biết sống tinh thần trẻ thơ như Tin Mừng mời gọi, chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng vào một tương lai hạnh phúc.

Nói như thế không có nghĩa loại trừ những người sống ơn gọi thánh hiến. Hơn ai hết, nếu muốn nên nghĩa thiết với Chúa Kitô, họ cũng đang được mời gọi “cải lão hoàn đồng” ơn gọi của mình mỗi ngày; bằng cách sống yêu thương, đơn sơ và phó thác trong mỗi phút giây của cuộc sống. Có như thế chúng ta mới có quyền hy vọng vào một ngày mai tương sáng, khi “nước Cha trị đến”.

“Nên như trẻ nhỏ” vì thế đòi hỏi phải hoán cải. Hoán cải là bỏ đi con người cũ và mặc lấy con người mới, sống tinh thần trẻ thơ trong đơn sơ, phó thác, và nguyện cầu. Dĩ nhiên điều này đòi hỏi một nổ lực không ngừng của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta nghe lời của Thánh Phaolô: “anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài món nợ tương thân tương ái”, thì chúng ta sẽ thấy được rằng ơn gọi tình yêu của chúng ta cũng dễ dàng và khả thi lắm. Bởi lẽ, ai trong cuộc đời mà không mắc cái “món nợ ân tình” đấy cơ chứ. Cứ nhìn tóc bạc trên đầu mẹ, mồ hôi trên trán cha, nét nhăn trên mặt vợ, vẻ tưu tư lo lắng trên mặt chồng, là chúng ta biết được chúng ta mắc nợ nhau nhiều lắm. Những món nợ ấy cứ bồi đắp bằng ngày tháng yêu thương và lo lắng cho nhau. Nhưng những món nợ ân tình này lại chỉ có thể được trả cách thỏa đáng bằng chính ân tình mà thôi. Mà còn cách nào tốt đẹp hơn để trả nếu không phải là “cải lão hoàn đồng” tình yêu của mình mỗi ngày, bằng yêu thương hết mình, hết tình, và không toan tính thiệt hơn.

Nhân dịp lễ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ước mong mỗi người chúng ta biết sống ơn gọi tình yêu của mình với tất cả tâm hồn đơn sơ và phó thác như chị, để rồi chúng ta cũng có quyền tin tưởng rằng phần thưởng Nước Trời đang nở rộ ngay trong lòng cuộc sống yêu thương của mình.

Cầu chúc mỗi người chúng ta sẽ là “tình yêu trong cung lòng hội thánh tình yêu”, và trở nên nhân chứng cho Nước Thiên Chúa giữa dòng đời. Chúc mừng bổn mạng đến quý vị có tên thánh Têrêsa!
LM Joseph Trung, O.Carm.
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 08:05)
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN A

Isaia 5: 1-7; Tv: 80; Philiphê 4: 6-9; Matthêu 21: 33-43

Anh chị em thân mến,

Một nữ tổng biên tập của một công ty phát hành sách có nói: Một người viết sách giỏi cũng cần phải có một tổng biên tập giỏi; đó là người sẽ đọc lại những trang sách mới viết, nêu lên những gợi ý cho tác giả trong trường hợp cần sửa chữa. Nhiệm vụ chính yếu của tổng biên tập là đọc bản thảo và ghi chú lại như công việc đòi hỏi, sau đó gặp tác giả để đề nghị những chỗ cần sửa lại. Người đó hy vọng là những đề nghị này sẽ giúp văn của tác giả hay hơn. Người tổng biên tập thường đề nghị những điều như sau: Bỏ một đoạn văn, phần này hơi dài quá, nên cắt chổ này, nên thêm vào chổ kia, hay giải thích từ ngữ này v.v....

Kinh Thánh là một tác phẩm tuyệt vời, và là sách bán chạy nhất. Tôi nghĩ ngay cả sách: “Harry Potter" cũng không bán chạy bằng Kinh Thánh. Hãy tưởng tượng bạn được thuê làm tổng biên tập trước khi những sách Kinh Thánh được ghép lại thành bộ để sản xuất, và công việc của bạn là đọc lại lời văn và đề nghị những chỗ cần sửa chữa.

Thường mỗi người trong chúng ta hay để ý một câu chuyện hoặc một đoạn văn trong Kinh Thánh mà chúng ta nghĩ không thực tế, không diễn tả được sự thật, hay hơi cao kỳ hoặc viễn vông. Như những câu văn nói về yêu thương kẻ nghịch của chúng ta thì sao? Hay đưa má bên kia cho người ta vả thì sao? Hay tha thứ đến bảy mươi lần 7 thì sao? Những câu văn ấy thật cứng cỏi mà tổng biên tập có thể xóa đi, hay đề nghị sửa cho lời văn dịu dàng hơn.

Tôi còn nhớ mẹ tôi, lúc mới lập gia đình, không có đủ những máy gia cụ tối tân như chúng ta có hiện nay. Cha mẹ tôi có 3 người con, và mẹ tôi phải làm tất cả việc nhà, nào là phải giặt quần áo bằng tay, rồi bưng lên tầng gác mái nhà để phơi. Nếu ngày nào trời mưa thì thật là cực. Khi mẹ tôi nghe chuyện trong Phúc âm thánh Luca nói về bà Maria và bà Mác-ta: Bà Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy trong lúc bà Mác-ta phải tất bật làm đủ mọi thứ để tiếp khách. Mẹ tôi nói rằng "Cắt bỏ câu chuyện đó ra ngoài Kinh Thánh cho rồi". Đó, mẹ tôi nói như là tổng biên tập sách Kinh Thánh. Chắc mẹ tôi sẽ đưa trả lại trang sách đó cho tác giả với chú thích bên lề là "nên bỏ câu chuyện này đi. Vì câu chuyện này sẽ làm những người làm việc cực nhọc bực bội."

Bây giờ, nếu tôi là một tổng biên tập đọc bài Phúc âm hôm nay, và phải làm cho bài Phúc âm đó dể nghe hơn, tôi sẽ đề nghị cắt đọan giữa của dụ ngôn, ngay sau phần nói về người đầy tớ thứ nhất được gởi đi để thâu hoa lợi, và người đó bị bắt giết. Tôi sẽ tiếp ngay vào phần Chúa Giêsu đặt câu hỏi: "Vậy khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?" Chắc tôi sẽ giữ lại đoạn trả lời của các người Kỳ Mục "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông."

Là tổng biên tập, tôi sẽ đề nghị tác giả cắt đoạn nói "Ông lại sai một số đầy tớ khác" Và tôi nhất định sẽ đề nghị cắt bỏ đoạn "Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng". Tôi sẽ đề nghị với tác giả là "những đoạn văn như thế làm người nghe bực bội, Và câu chuyện không thực tế. Ai lại ngu đến nỗi đã sai thêm một sổ đầy tớ khác, lại còn sai cả người con trai của mình đến một chổ đầy rủi ro và nguy hiểm như vậy? Nếu cắt những đoạn văn đó thì câu chuyện có thể dễ nghe hơn chăng."

Nếu chúng ta cắt những chi tiết vừa nói trên, chúng ta sẽ có một câu chuyện thực tế, dễ nghe, và có lẽ sẽ hợp với thế giới hiện nay hơn. Nhưng chúng ta lại mất đi phần Chúa Giêsu muốn nói về Thiên Chúa. Mặc dù Ngài bị người ta chối từ, nhưng Ngài vẫn trở lại mời gọi chúng ta. Một Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta sống đời sống trung kiên với đức tin trong việc làm vườn nho nghĩa là sống trung kiên với Phúc âm.

Anh chị em có để ý đến những dụ ngôn trong Phúc âm thường nói về đời sống trong gia đình, ngoài xã hội và nơi công sở không? Dụ ngôn hôm nay nói về vườn nho. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ nói về nghề nông, trồng nho hay làm ruộng đâu? Mà Ngài muốn nói đến đời sống hàng ngày của chúng ta, nơi chúng ta làm việc, và cả những nơi chúng ta thường sinh hoạt như ở trong gia đình, trường học, siêu thị, sân vận động và nơi máy vi tính?

Có phải Chúa Giêsu nói với chúng ta là Thiên Chúa đang ở giữa những người sống với chúng ta hàng ngày, ở những nơi chúng ta để hết tâm trí vào công việc phải không? Cảnh quan của dụ ngôn hôm nay là vườn nho, là nơi chúng ta làm việc, và Chúa Giêsu muốn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Nước Trời ở đây. Dù sao đi nữa khi mà công việc chiếm hết thời gian trong ngày của chúng ta thì Chúa Giêsu vẫn nhắc đến sự hiện diện của Thiên Chúa ở những nơi chúng ta buôn bán, hoặc làm công việc nhà là những nơi mà chúng ta ít nghĩ đến Ngài nhất. Ngay cả ở những nơi đó, Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta hãy mở mắt ra, hãy lắng nghe sự hiện diện của Thiên Chúa toàn năng.

Chúng ta cần được đức tin hướng dẫn trong những hoạt động hàng ngày: Chúng ta cần được nhìn thấy giá trị của mỗi người và tôn trọng mọi người, tôn trọng công việc. Chúng ta hãy sẵn sàng sống đức tin qua những hành vi của chúng ta, và nếu có dịp hãy dùng mọi cách để diễn tả đức tin thực sống động trong mỗi hành vi và lời nói của chúng ta.

Chúng ta đều chưa đạt đến sự hoàn hảo mà chúng ta tuyên xưng mổi ngày Chúa nhật. Ai trong chúng ta dám tuyên xưng là "tôi có thể làm theo thánh ý Chúa" hoặc nói "Hành vi của tôi luôn xứng hợp với đức tin mà tôi tuyên xưng ở nhà thờ"? Có lẽ vì vậy mà trước khi dâng thánh lễ, chúng ta khẩn cầu xin Chúa thương xót và tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Vậy nếu chúng ta là tổng biên tập cho bài Phúc âm hôm nay thì tốt hơn hết, chúng ta nên giữ lại câu chuyện mà tác giả đã trình bày.

Mỗi người trong chúng ta đều cần đoạn giữa của câu chuyện, phần nói về ông chủ vườn nho gởi thêm đầy tớ đến gặp những tá điền gian ác. Và chúng ta cần nhất phần nói về người con được gởi đi, vì những đoạn văn này diển tả Thiên Chúa không buông tay mặc dù có nhiều khi chúng ta bỏ Người. Thiên Chúa luôn sẵn sàng đến với chúng ta. Tình thương của Ngài không hề nguội, mặc dù có những lúc chúng ta bỏ Người hay sống thờ ơ với Người trong đức tin.

Có phải vì vậy mà chúng ta đến nhà thờ hết Chúa nhật này đến Chúa nhật khác không? và chúng ta muốn có đời sống thể hiện rõ được những điều mà chúng ta nghe trong Phúc âm không? Vậy chúng ta có thành thật biết ơn là chúng ta đã được dịp thứ hai, thứ ba và nhiều dịp khác để đền bù, để dâng lên lời hứa là thánh hóa cuộc sống qua đó trở nên thành viên của gia đình Thiên Chúa chưa? Và trên hết mọi sự là chúng ta tạ ơn Chúa vì Ngài đã nhìn thấu suốt mọi ước vọng sống thánh thiện của chúng ta để trở nên hoa trái tiến dâng nơi Bàn Tiệc thánh chưa?

Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Lm Jude Siciliano OP
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 01:18)
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và tư tưởng Tin lành

(Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chắc chắn là chưa đọc những tác phẩm của Tin lành, cụ Jean Guitton viết rõ ra là thệ phản. Nhưng thánh nhân đã có những suy nghĩ về Đức Maria mà người Tin lành chấp nhận được trong khi đó bao Đấng khác nói về Đức Mẹ gây khó chịu cho anh em Tin lành).

Tư tưởng của Đức Maria chiếm một địa vị trong tư tưởng Kitô giáo phải được kính trọng với một lưu tâm lớn. Đức Maria không phải là trung tâm vì chỉ có Chúa Giêsu là trung tâm duy nhất, nhưng Đức Maria có sáng kiến, có đời sống đứng ở một vị thế lớn lao.

Trong phạm vi cứu độ, tâm hồn người Công giáo vui mừng vì mức hiểu biết Mẹ của Đấng Cứu Thế tăng thêm và vinh quang Mẹ dần dần càng rạng rỡ, nếu đồng thời người Công giáo để ý tới tính phổ biến và tính tông truyền thì hay biết mấy. Nhưng có những tâm tình lại không để ý tới tiến triển hiểu biết về Đức Maria làm cho đạo Công giáo xa những giáo phái đã tách khỏi Công giáo mà họ còn giữ được di sản Kitô giáo về lòng tôn kính Đức Maria và những tín điều liên can tới Đức Trinh Nữ Maria y nguyên lúc chia rẽ, sự chia rẽ này như là một sự suy sụp kho tàng Đức Tin.

Tâm trí người Công giáo không thống nhất với nhau khi đối diện với một mệnh đề phát triển tầm hiểu biết về Đức Trinh Nữ Maria. Có vui nhưng mà cũng có lo lắng vì thấy rằng phát triển hiểu biết này như đưa ra ánh sáng từ tối tăm làm tăng thêm chiều kích của vực thẳm. Thí dụ: Đức Giáo Hoàng Pio XII khi âm thầm suy nghĩ việc định tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời đã có sự do dự vì một bên muốn tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria và bên kia là sợ đặt một chướng ngại vật trên đường hiệp nhất Kitô giáo.

“Xuyên qua các mặt, bỏ đi những điều phụ tùy, linh đạo của thánh Têrêxa Lisieux ít gây hoang mang đối với Tin lành hơn là các linh đạo khác. Việc phụng thờ Ngôi Cha Thiên Chúa, cách hiểu Tin Mừng, khoa thần bí bất vụ lợi của thánh nữ, ơn sủng thuần túy, sự từ bỏ công nghiệp cá nhân, vượt qua hàng rào ngôn ngữ để giữ lấy tinh thần bản văn, phê bình rất táo bạo những gì có thể lệch đường tu đức Công giáo, lời kêu gọi của thánh nữ kêu gọi các tâm hồn ở bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào kể cả sống ngoài bậc tu trì và lời khấn, đó là những điều chứng minh được biết bao những giá trị tinh thần ám ảnh những nhà cải cách bậc nhất còn sống tu đức Công giáo. Cách thức thánh nữ đề cập tới mầu nhiệm Đức Maria, hình ảnh mà thánh nữ tạo ra mẹ Đức Giêsu và tâm hồn của Ngài hình như rất được những người Tin lành chấp nhận hơn là những công trình thần học hoàn chỉnh và lớn lao do những suy tư sâu xa và khoa học về những luận đề rất đơn giản. Các điều người Tin lành vất vả theo Têrêxa chính là lòng sùng kính của thánh nữ tạo ra những tương quan trong tâm hồn thánh nữ với con người Đức Maria cụ thể trong khi những tương quan này các nhà tần học đặt ra học thuyết suy nghĩ về Đức Maria, vai trò hiện tại trong việc phân phát các ơn của Đức Maria và trong đời sống nội tâm, những điều này người Tin lành không hiểu được.

Có thể phân tích lòng sùng kính Đức Maria trong đời sống nội tâm của thánh Têrêxa Lisieux sẽ hiểu rõ thánh nữ hoặc ít ra nhận ra được nơi thánh nữ còn nguyên vẹn vì thánh nữ dành một chỗ lớn và sâu kín, tương quan rất trong sáng, rất trực tiếp và rất đơn giản của tâm hồn mình cho Thiên Chúa, chính Thiên Chúa là đối tượng chân thật duy nhất đời sống tu trì của linh hồn người Công giáo” (Tạp chí Thomiste, 1952, III).

Chính ở điểm này, linh đạo của thánh Têrêxa liên quan tới Đức Nữ Đồng Trinh Maria có thể giúp ích cho chúng ta suy nghĩ và phổ biến. Vì tinh thần của Dòng Cát Minh trong đó Chị thánh tươi nở làm tiêu tan từ gốc rễ tất cả những cảm tình quá đáng, tất cả những hình thức thái quá. Người ta có thể nói một cách tổng quát (điều này thấy rõ trong Grignion de Montfort) cố gắng thuộc tính tinh thần là một cố gắng của sự đơn sơ, cũng như cố gắng của thi thơ là một cố gắng, một sự trong sáng lớn, cố gắng của khoa học đạt tới một sự điều hợp lớn hơn. Một nhà đạo đức phát minh ra một cách mà thế kỷ 17 gọi là một “phương tiện ngắn gọn”, một “quyển sách giản yếu”. Sách Gương Phúc của Thomas a Kempis là một quyển sách được đơn giản hóa liên quan tới lòng sùng kính quá nặng nề của giới nhà tu. Quyển sách Nhập môn vào đời sống đạo đức cũng đơn giản như thế. Thần học hoặc luân lý, hoặc luật học nhất thiết là trở nên rắc rối, trở nên phức tạp. Việc làm của tinh thần lại có khuynh hướng đơn giản hóa. Chính khuynh hướng này cho phép các tâm hồn tìm gặp sự đơn giản của Nguồn suối, của Tin Mừng, mặc dầu sự tiến bộ đòi thay đổi và chồng chất lên theo thời gian.

Nói tóm lại (dầu không phải duy nhất thế), người ta yêu cầu đơn sơ nầy nơi lòng sùng kính riêng tư và trong tất cả lòng sùng kính Đức Mẹ. Đức Trinh Nữ Maria xuất hiện như không có phức tạp, vậy là đơn sơ và dễ dàng ngay cả trong trường hợp khó khăn, phải giải thoát khỏi huyền thoại như những người duy tân nói.

Ở đây, kẻ viết tập này xin phép được trích ra đây những câu nói ngắn gọn về Đức Mẹ của Chị thánh nhưng đượm những suy nghĩ sâu xa mà đơn giản:

Ôi ! Con yêu mến Đức Mẹ lắm ! Giả như con là linh mục, con sẽ giảng về Mẹ dịu dàng lắm. Người ta cứ nói Đức Mẹ rất cao sang không thể lui tới được. Phải chi cứ giảng rằng: Đức Mẹ bình dân rất dễ bắt chước. Người là Mẹ hơn là Nữ Vương. Đã có lần tôi nghe nói sự sáng láng của Đức Mẹ che lấp các thánh như mặt trời mọc lên át hết các vì sao trên trời. Lạy Chúa ! Sao lại kỳ dị thế được ? Người Mẹ lại nhẫn tâm lấn át sự vẻ vang của con cái mình ư ? Tôi không thể nghĩ thể ấy, tôi tin thật rằng Đức Mẹ sẽ ban thêm sự sáng láng cho những con cái được về thiên đàng. Lạy Mẹ đồng trinh ! Cuộc đời của Mẹ giản dị, đơn sơ biết bao (Truyện Một tâm hồn, chương 12, Kim Thiều dịch).

“Ôi Mẹ Maria, nếu con là Nữ Vương thiên quốc và nếu mẹ là Têrêxa thì con muốn con là Têrêxa để Mẹ là Nữ Vương Thiên quốc” (Pri 21).

Đời sống của thánh Têrêxa cũng như đời sống của Đức Mẹ diễn ra trong những điều kiện bình thường, trong những hình thức dễ dàng và không sáng chói. Chị thánh, đúng như phần chúng tôi ước đoán, tính tình Chị thánh giống như Đức Trinh Nữ Maria, tức là tính chất và bản tính riêng của Chị thánh giống Đức Trinh Nữ Maria hơn là giống tính chất và bản tính riêng của thánh Têrêxa Avila. Đạt đến mức độ hiếm có trong hàng ngũ các thánh, thánh Têrêxa có tính tình giống Đức Maria như chúng ta đã biết tính tình Đức Maria nhờ thánh sử Luca. Hai đấng này có một cái gì gọi là trực tiếp, rõ ràng, vui tươi, không quanh co ngoắt ngoéo, không phức tạp rối rắm: đó là khôn ngoan do tập trung ở mức độ cao nhất đôi khi mừng quýnh lên rồi được thu lại rất nhanh trong sự yên lặng, yêu mến nghe theo những dấu hiệu mà không phải tìm kiếm.

Tôi tóm lại cảm nghĩ của tôi thế này: nếu người ta tìm nơi thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu một con đường của Đức Mẹ đã đi thì người ta không tìm thấy được ít hoặc ít ra phải vất vả quá nhưng nếu người ta tìm nơi nữ tu Têrêxa đời sống của Đức Maria thì người ta tìm ra không khó khăn gì.

Chúng tôi trở lại điểm này. Nếu thánh Têrêxa không thuộc về Đức Maria bằng những tư tưởng trong học thuyết của mình thì thánh Têrêxa cũng thuộc Đức Maria bằng sự hiện hữu sâu xa của mình. Thánh nữ có thể cho chúng ta một ý tưởng rất gần gũi con người Đức Maria lịch sử. Không muốn bắt chước Đức Trinh Nữ bằng một cố gắng riêng biệt, thánh Têrêxa giống Đức Trinh Nữ, như được thêm vào, sự tăng thêm này là một đặc ân của tình yêu trong sáng thuần túy.

(Xin xem nguyên bài trong Jean Guitton, Le génie de Thérèse de Lisieux, Edt Emmanuel, Paris 1995, Thérèse et la pensée protestante, trang 121-126).
LM Fx. Nguyễn Hùng Oánh
VietCatholic News (Thứ Năm 02/10/2008 00:22)
Bài học quan trọng của kinh Mân Côi

(Suy niệm Tin Mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi. Tin Mừng Luca 1, 26-38)

Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.

Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân... " (Rôma 5, 19)

Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giê-su chính là "đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)

Tràng chuổi mân côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giê-su và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giê-su và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.

* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria

Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.

Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.

Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.

Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).

* Theo gương vâng phục của Chúa Giê-su

Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giê-su trong mầu nhiệm thương.

Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất...(Luca 22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)

Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".

Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".

Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giê-su vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".

Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)

Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)

Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)

Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giê-su và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giê-su và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giê-su dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21)
LM Inhaxiô Trần Ngà