[go: up one dir, main page]

Xin chào vị khách thứ
VietCatholic Network
Kinh Lạy Cha (5): Ý Cha Thể Hiện
VietCatholic News (Thứ Sáu 11/04/2008 02:43)
Kinh Lạy Cha (5):

Ý Cha Thể Hiện

Đọc các phúc âm, không ai không nhất trí: thể hiện ý Chúa Cha là trung tâm, là nét chủ yếu và là nguyên tắc điều hướng cuộc đời Chúa Giêsu. Nhưng Phúc Âm Gioan được coi là Phúc Âm nhấn mạnh đến điểm đó nhiều hơn cả. Thực vậy, Phúc Âm thứ bốn đã mô tả Chúa Giêsu như Đấng được sai đến thế gian không vì mục đích nào khác hơn là để thể hiện ý Chúa Cha.

Phúc âm này có đoạn kể rằng: Một ngày kia, các tông đồ để mặc Chúa Giêsu mệt lả bên bờ giếng Sychar miền Samaria để vào làng mua thực phẩm. Khi trở lại, các ông rất ngạc nhiên khi thấy Thầy chẳng muốn ăn chi. Họ cho rằng hẳn có ai đã cho Thầy đầy bụng rồi chăng. Nhưng Người bảo các ông: “thực phẩm của Thầy là thể hiện ý Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công việc của Người” (Gioan 4:31-34). Ở một chỗ khác, Người phán: “Thầy không tìm ý riêng Thầy, mà là ý Đấng đã sai Thầy” (Gioan 5:30). Lại một câu khác nữa: “Thầy từ trời xuống thế gian không phải để thể hiện ý riêng của Thầy, mà là ý Đấng đã sai Thầy” (Gioan 6:38).

Phúc âm Mát-thêu cho ta hay: chiều hướng trên còn lên cao hơn nữa tại vườn Diệt-si-ma-ni, nơi Chúa Giêsu kết thúc buổi cầu nguyện thống hối của mình bằng những lời hoàn toàn tuân phục như sau: “Tuy nhiên, đừng theo ý Con, mà là theo ý Cha” (Mátthêu 26:39).

1. “Phương chi chúng con”

Ý Thiên Chúa luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm thức người Do Thái. Đối với họ, điều vĩ đại nhất ở trên đời là Torah, Sách Luật, Giáo Huấn Thiên Chúa. Họ coi việc vâng theo Luật là nhiệm vụ cao cả nhất và là đặc ân cao qúy nhất của cuộc sống. Điều qúy hơn nữa là người Do Thái không giữ Luật chỉ vì sợ hậu quả, mà là vì lòng qúy mến Luật do Đấng thương yêu mình ban bố. Hãy đọc Thánh Vịnh 119: “Xin cho con hiểu rõ đường lối huấn lệnh Ngài…Con đã chọn đường chân lý; con khao khát đợi trông quyết định của Ngài… Được Chúa thương mở lòng mở trí, con chạy theo đường mệnh lệnh của Ngài. Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng” (các câu 27, 30, 32 & 33). “Con vui thú với mệnh lệnh của Ngài và hết lòng yêu mến…Thánh chỉ Ngài là khúc nhạc của con…” (các câu 47 và 54). “Con nguyện chẳng hề quên huấn lệnh Ngài, vì nhờ đó, Ngài đã cho con được sống…Luật pháp Ngài, lạy Chúa, con yêu chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại” (các câu 93 và 97). “Vì thế, mệnh lệnh Ngài, con yêu qúy, qúy hơn vàng, hơn cả vàng y” (câu 127). Các chữ khao khát, vui thú, yêu mến, khúc nhạc chắc chắn không miêu tả thái độ nô lệ đối với Luật. Vì quả tình, từ Luật, họ có tự do: “Con sẽ tuân giữ luật Ngài liên tục, đến muôn đời muôn kiếp; và con sẽ sóng bước tự do, vì con đã tìm kiếm huấn lệnh Ngài” (các câu 44 & 45). Như thế, đối với người Do Thái, vâng theo ý Thiên Chúa, một thánh ý đã được mạc khải qua Luật, là bổn phận, là đặc ân, là vui thú đầu hết của cuộc đời và là đường duy nhất tiến tới tự do đích thực.

Cả những người ngoại giáo như phái Khắc Kỷ cũng có những khái niệm khá tích cực về ý Thiên Chúa. Họ không coi Ngài là Vận Mệnh (Eimarmene) mà là Quan Phòng (Pronoia). Họ tin rằng trên đời này, tuyệt đối không có gì xẩy ra ngoài ý Thiên Chúa. Seneca viết: “tôi từng huấn luyện mình không chỉ để vâng theo Thiên Chúa, nhưng để nhất trí với các quyết định của Ngài. Tôi vâng theo Ngài vì linh hồn tôi muốn điều đó, chứ không phải vì tôi bắt buộc phải làm vậy” (Thư 96:2). Epictus thì cầu nguyện rằng: “Ngài hãy dùng tôi làm bất cứ chuyện gì Ngài muốn… Tôi là của Ngài; tôi không mong được miễn chước bất cứ điều gì được Ngài coi là tốt; xin hãy dẫn tôi tới bất cứ nơi nào Ngài muốn; hãy mặc cho tôi bất cứ thứ gì hợp ý Ngài” (Nghị luận 2.16.42). Xa hơn một chút, Epictus phát biểu: “Tôi đã trao phó tự do chọn lựa của tôi cho Thiên Chúa. Nếu Ngài muốn tôi bị nóng sốt, thì đó cũng là ý muốn của tôi. Nếu Ngài muốn tôi được điều gì, thì tôi cũng muốn được điều đó. Nếu Ngài không muốn điều ấy, thì tôi, tôi cũng không muốn nó” (Nghị luận 4.1.89). Người Khắc Kỷ chủ trương rằng: nếu mọi sự ở trên đời đều là hậu quả do ý Thiên Chúa, thì việc chấp nhận ý ấy là con đường dẫn người ta tới hạnh phúc và tự do. Đối với họ, chấp nhận ý Thiên Chúa là tự đặt mình vào hài hòa với toàn bộ vũ trụ; từ khước ý Thiên Chúa là tự đập đầu vào tường đá vũ trụ, nhất thiết sẽ tan nát, bất hạnh.

Đó là tâm tư của những người chưa hay không nhận biết Chúa Giêsu. “Phương chi chúng con, mà lại chẳng thương Cha Cả, vì sao?”

2. Các Tâm Tư

Câu xin “ý Cha thể hiện”này có thể được đọc với nhiều tâm tư tình cảm rất khác nhau. Có người đọc nó trong một tâm tư uất ức đắng cay, cho rằng không có lối thoát, không còn con đường nào khác, xin theo ý Ngài vậy. Họ bảo họ theo gương Beethoven, nhà soạn nhạc thời danh, nhưng lúc chết, bàn tay nắm lại cứng ngắc như muốn “thọi” Thiên Chúa đã để ông điếc khi oái oăm ban cho ông thiên tài âm nhạc! Cũng có người đọc nó không hẳn trong một tâm tư cay đắng, cho bằng vì chẳng còn biết làm gì khác hơn nên đành chấp nhận thất bại. Hoàng Đế Julian muốn vặn ngược đồng hồ bằng cách lật ngược lại quyết định của Constantine thừa nhận Kitô Giáo, và cố gắng tái du nhập việc thờ phượng cúng bái các thần minh xưa. Cuối cùng, ông bị thương nặng ngoài chiến trường. Các sử gia kể lại rằng khi đang nằm chờ chết, ông đã lấy máu mình tung lên không khí mà hét lớn: “Hỡi người Ga-li-lê, ông đã thắng rồi đó!”. Câu ấy không hẳn như một lời tùng phục mà đúng hơn là một chấp nhận thất bại vì không còn gì khác để làm nữa.

Cũng có người chấp nhận ý Thiên Chúa trong một tâm tư như bị Ngài áp đảo: cọ quậy làm chi, cuối cùng rồi cũng phải theo ý Ngài, vì Ngài “to con hơn”, một chấp nhận không hẳn cưỡng ép, tủi hờn, của kẻ thua cuộc, của kẻ bị dồn đến đường cùng, nhưng vẫn là một chấp nhận chẳng hân hoan, vui vẻ chi. Thật khác xa với tâm tư của Thánh Vịnh Gia, một tâm tư nói lên yêu thương, hân hoan và an bình đầy thanh thản và tín thác. Hay tâm tư của những người mệnh danh là Covenanters (Giao Ước) tại Tô Cách Lan thế kỷ 17. Richard Cameron là một trong những người ấy. Họ bị chính phủ dùng đủ mọi thứ cực hình cố gắng dẹp tan. Con trai ông bị bắt, bị chặt tay. Người ta gửi đôi tay ấy cho Richard. Ông nhận ngay ra bàn tay của con: “Đây là bàn tay con trai tôi, đứa con yêu dấu nhất của tôi. Đây là ý Chúa và ý Ngài thật tốt lành thay. Ngài không bao giờ làm hại tôi và người thân yêu của tôi”. Quả là một chấp nhận hoàn toàn tín thác, một quyết tâm không bao giờ nghi ngờ ý Thiên Chúa.

Không dễ gì có được một quyết tâm như thế. Lý do tại sao? Tại vì cái tội lớn nhất làm phát sinh ra đủ thứ tội chính là lòng kiêu ngạo. Ta tự hào biết nhiều hơn Chúa. Nhiều người tin rằng nếu được làm theo cách của mình, chắc mình sẽ hài lòng hơn, nếu được tự ý sắp xếp cuộc sống và các biến cố trong đời phù hợp với các ý nghĩ bản thân, hẳn mọi sự sẽ êm đẹp. Bởi thế thay vì cầu cho “ý Cha thể hiện”, họ muốn cầu cho “ý Cha thay đổi”. Bao lâu còn thứ kiêu ngạo này, ta khó mà đọc được lời cầu xin trên.

Bởi thế, điều tiên quyết để đọc lời cầu xin này, là phải nhớ Thiên Chúa là Đấng nào. Trong Ngài, có hai điều khiến ta đọc lời cầu xin này cách dễ dàng hơn, đó là:

i. Ta tin Chúa khôn ngoan. Ta tin rằng trong sự khôn ngoan của Ngài, Ngài biết hay hơn ta điều cuối cùng thực sự tốt cho ta. Ta tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới nhìn ra mọi thời. Với bản tính ta, ta phải sống trong hiện tại. Quá khứ đã thành quá khứ, không thể làm nó sống lại được; còn tương lai, ta đâu biết chắc mảy may. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nhìn thấy toàn bộ khuôn thước cuộc đời và do đó, chỉ một mình Ngài mới biết cái gì cuối cùng tốt nhất cho ta.

ii. Ta tin Chúa yêu ta. Đây là chỗ ta khác với người Khắc Kỷ vừa nhắc ở trên. Họ tin rằng mọi sự đều tuân theo ý Thiên Chúa, đúng hơn, là chính ý Thiên Chúa. Vì thế, con người phải học để đừng quan tâm đến việc xẩy ra cho bản thân cũng như cho người khác. Tất cả đều là ý Thiên Chúa. Epictus, trong Nghị Luận 1.4.111, 112 bảo rằng: bắt đầu với cái chén bể, rồi cái áo rách, rồi cái chết của con ngựa hay con vật qúy; và cuối cùng là cái chết của người gần nhất và thân yêu nhất, bạn hãy nói: “tôi bất cần, tôi bất chấp”. Đấy không phải là thái độ của Kitô hữu.

Áp dụng câu nói “đó là ý Chúa” một cách bất phân biệt, bừa bãi, quả là đi ngược lại đức tin Kitô giáo của mình. Nhưng không thiếu những người bước vào một gia đình có con nhỏ vừa bị tai nạn giao thông cướp đi mạng sống, có con thiếu niên tuổi trẻ chưa kịp nở rộ đã phải lìa đời, có người chồng người vợ mắc chứng nan y, mà cái chết sau đó để lại vợ, chồng, con cái bơ vơ trên đời, mà vẫn thốt ra câu: “Đó là ý Chúa”. Không thiếu những người nghe tin tai nạn khủng khiếp trên bộ, trên biển, trên không, một thiên tai khủng khiếp như sóng thần chẳng hạn, mà vẫn thốt lên: “Đó là ý Chúa”. Những chuyện ấy đâu phải ý Chúa. Ý Chúa có bao giờ mong cho đứa trẻ ngây thơ bị cái người say khướt cán chết trên đường phố hay một ai đó hấp hối vì chứng nan y vốn là kẻ thù của sự sống. Những chuyện ấy chắc chắn là những điều đi ngược lại ý Thiên Chúa. Chúng là hậu quả tội lỗi con người, không hẳn là tội lỗi của nạn nhân, mà là tội lỗi của thân phận phàm nhân mà nạn nhân là một thành phần. Chúa Giêsu đến chính là để đánh bại những thứ đau đớn, sấu khổ, đau thương ấy, như đã được chứng minh qua quyền lực chữa lành đầy lạ lùng của Người.

Trong những hoàn cảnh đau thương như trên, ta nên nói: “Đây không phải là ý Chúa. Mà là hậu quả cách này hay cách khác tội lỗi và sa đoạ của con người. Ông bà chẳng may mắc vào việc này. Chúa không gửi việc này đến ông bà đâu. Nhưng Người sẽ giúp ông bà vượt qua cơn khốn khó này mà vẫn đứng vững, mắt mũi tỉnh táo. Và còn hơn thế nữa, khi đã vượt qua cơn thử thách này, ông bà sẽ mạnh mẽ hơn, thanh trong hơn, gần gũi Chúa hơn, và nhiều khả năng giúp đỡ người khác hơn trước đây nhiều. Vì, đối với những người tín thác và yêu mến Ngài, Chúa có thể làm tốt ngay cả những việc bên ngoài ý muốn của Ngài”.

3. Sức Mạnh Chiến Thắng

Ta cũng có thể nói: “Nếu ông bà chịu để Chúa dùng việc này và dùng ông bà, thì việc này, vâng, chính việc này sẽ trở nên một phần ý Ngài”. Quả tình, một vị giảng thuyết kia từng tâm sự là mẹ ông chết vì bệnh ung thư cột sống sau một cơn đau đớn quá sức đến độ gia đình ông thấy nhẹ nhõm khi cụ ra đi. Việc cụ mãn phần đem lại buồn bã vô cùng cho gia đình. Nhưng ông nhớ thân phụ ông nhủ với ông rằng: “Ba biết lời giảng của con từ nay sẽ có một âm hưởng mới”. Ông thú thực điều nhắn nhủ ấy đúng thật, vì nhờ ơn Chúa, ông đã có được khả năng giúp đỡ người khác vượt qua đau khổ của họ một cách tốt đẹp, chỉ vì chính ông đã kinh qua kinh nghiệm ấy.

Thành thử ra, khi đọc lời cầu xin “ý Cha thể hiện”, ta không ước ao, không mong thoát được cơn khốn khó. Và chính ở đây, ta có bài học Diệt-si-ma-ni (Mátthêu 26: 34-46). Chúa Giêsu quả có cầu xin cho được thóat khỏi cơn khốn khó, nhưng với điều kiện việc ấy là ý Chúa Cha. Ngài không thoát khỏi cơn khốn khó ấy; nhưng được sức mạnh để vượt qua nó. Khi Ngài dạy ta “ý Cha thể hiện”, Ngài không dạy ta xin thoát khỏi nguy khốn; cũng không cầu để chịu đựng; mà là cầu để chiến thắng. Ta không cầu xin để thoát ra một hoàn cảnh, nhưng để có khả năng giáp mặt với nó, khuất phục và đánh bại nó.

Một trong các trình thuật vĩ đại trong Thánh Kinh là câu truyện về Shadrach, Meshach và Abednego. Ba thiếu niên này có nguy cơ chết trong lò lửa. Câu trả lời của họ là: “Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phục và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài” (Đa-ni-en 3:16-18). Nếu Người không cứu, các cậu không mong thoát khỏi, mà mong có sức để đương đầu với hoàn cảnh, bất chấp hậu quả ra sao.

Kết Luận

Sự kiện đời sống khá đơn giản. Khi ý Thiên Chúa muốn ta phải đương đầu với một khó khăn, đau đớn nào đó và cả một hòan cảnh thống khổ nữa, ta vẫn có thể trốn chạy khỏi hoàn cảnh ấy. Chính Chúa Giêsu cũng vẫn có thể quay lưng khỏi Diệt-si-ma-ni. Nhưng nếu ta trốn chạy, chắc chắn đời ta sẽ không có hạnh phúc, vì hạnh phúc không thể có cho người không biết giáp mặt với chính mình và với Thiên Chúa. Trái lại, nếu ta biết giáp mặt với nó, với hết những điều nó đòi hỏi, ta sẽ có bình an, hân hoan, thỏa mãn trong đời mà không một điều gì khác có hể mang lại được. Đó là lý do Pla-tông, nhiều đời trước, đã cho rằng hiền nhân luôn thà chịu điều xấu hơn là làm điều xấu và đó cũng là lý do để Sách Khải Huyền dạy rằng có cả một khác biệt lớn giữa sự sống và hiện sinh. Do đó, rất có thể vì chọn hiện hữu mà một người liều mất sự sống. Đối với chúng ta, lựa chọn không hẳn giữa sống và chết, nhưng là giữa dễ chịu và chiến đấu, giữa thoải mái và hy sinh; rất có thể vì chọn khoái lạc, mà ta đánh mất niềm vui, vì niềm vui là sản phẩm việc vâng theo ý Thiên Chúa.

Viết theo W. Barclay, The Plain Man Looks At The Lord’s Prayer, Fontana Books, 1964

(Còn tiếp)
Vũ Văn An