[go: up one dir, main page]

Xin chào vị khách thứ
VietCatholic Network
Đồng Công Cứu Chuộc (5)
VietCatholic News (Thứ Hai 12/05/2008 04:11)
Đồng Công Cứu Chuộc (5)

Không thêm ơn ích gì

Phản chứng thứ bẩy cho rằng dù cho việc Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc có là một giáo huấn học lý của Giáo Hội đi chăng nữa, thì tuyên bố điều ấy như một tín điều nào có thêm ơn ích gì, trái lại có thể gây chia rẽ trầm trọng trong Giáo Hội.

Theo Giáo Sư Miravalle, hiện có nhiều hoa trái tích cực nếu học lý này được công bố thành tín điều:

1. Có sự rõ ràng hơn về thần học đối với một phạm vi hiện bị hiểu lầm.

Khi Chân Phúc Giáo Hoàng Piô IX nâng học lý Vô Nhiễm Thai của Giáo Hội lên hàng tín điều vào năm 1854, ngài tuyên bố rằng hoa trái của việc xác định này là “đem lại sự hoàn hảo” cho học lý, bằng cách tăng thêm nhiều sáng sủa và soi sáng gây ích lợi cho mọi người:

Giáo Hội lao nhọc rất nhiều để gọt dũa các giáo huấn trước đây, hòng mang lại sự hoàn hảo cho việc phát biểu chúng ra bằng cách giúp các tín điều cũ xưa về học lý ấy nhận được chứng cớ, soi sáng, phân biệt trong khi vẫn duy trì được tính đầy đủ, hoàn bị, đặc điểm riêng của chúng…(70).

Căn cứ vào sự mơ hồ lẫn lộn có tính căn bản hiện nay liên quan đến vấn đề thực ra Giáo Hội Công Giáo muốn nhắn nhe điều gì trong học lý Đức Maria đồng công cứu chuộc của mình (được chứng minh qua bài báo của tờ New York Times và các phản ứng sau đó), người ta thấy rõ rằng ơn ích sẽ rất lớn nếu ta có được một công bố chính xác, được lên công thức theo Thánh Kinh với sự soi sáng của Thánh Truyền Kitô Giáo, do thẩm quyền tối cao của Giáo Hội, nhằm bảo đảm sự chính xác và đích thực về học lý.

2. Các ơn ích đại kết nếu cuộc đối thoại học lý có được một phát biểu Công Giáo đích thực.

Thay vì bị nhận thức là chống lại các đòi hỏi của cố gắng hiệp nhất Kitô giáo, một phát biểu chính xác điều người Công Giáo tin về tước hiệu Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc, và cả điều họ không tin (tức việc ngang hàng với Chúa Giêsu Kitô, hay thần tính của Đức Mẹ…), sẽ phục vụ rất nhiều cuộc đối thoại đại kết chân chính, dựa trên sự chính trực và chân lý của giáo huấn học lý Công Giáo.

Đức cố hồng y John O’Connor của New York có nhắc đến ích lợi này trong thư ủng hộ, xin Đức Giáo Hoàng xác định việc Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc loài người: “Rõ ràng, một xác định chính thức của Đức Giáo Hoàng được phát biểu bằng một ngôn từ chính xác sẽ giúp các Kitô hữu khác không còn lo âu là chúng ta không biết phân biệt một cách thích đáng giữa sự liên kết độc đáo của Đức Mẹ với Chúa Giêsu và quyền lực cứu chuộc chỉ một mình Chúa Giêsu mới có” (72). Một xác định như thế sẽ giúp tránh được khuynh hướng nguy hiểm hiện nay là trong cuộc đối thoại đại kết, người ta chỉ muốn trình bầy các yếu tố học lý chung cho hết các Kitô hữu, thay vì đúng hơn phải trình bầy các khía cạnh khó nhưng cần thiết trong việc chia sẻ các yếu tố học lý không được mọi Kitô hữu chủ trương giống nhau ấy. Sự toàn vẹn trong các trao đổi đại kết như thế hết sức cần thiết để sau cùng đạt được sự hiệp nhất Kitô giáo đích thực.

3. Có được sự khai triển đích thực về học lý Thánh Mẫu.

Bốn tín điều về Đức Maria hiện nay, tức các tín điều Mẹ Thiên Chúa (năm 431), Trọn Đời Đồng Trinh (năm 649), Vô Nhiễm Thai (năm 1854) và Hồn Xác Lên Trời (năm 1950), đều đề cập đến các thuộc tính hay đặc tính cuộc sống dương thế của Đức Maria, nhưng chưa có tín điều nào nói đến Mẹ Chúa Giêsu trong tương quan với nhân loại.

Về lịch sử, quả là điều lý thú khi người ta biết rằng một tháng sau khi công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào tháng 11 năm 1950, Hội Nghị Thánh Mẫu Học Quốc Tế đã chính thức thỉnh nguyện Đức Giáo Hoàng Piô XII dùng quyền giáo hoàng xác định tư cách trung gian phổ quát của Đức Mẹ, coi như một diễn tiến hợp lý theo sau việc xác định tín điều Hồn Xác Lên Trời (73).

Sau cuộc đời dương thế và sau khi các thuộc tính của Đức Maria đã có được sự “hoàn hảo về học lý” tương ứng qua các xác định tín điều long trọng rồi, thì điều cũng thích đáng xem ra là việc đặc ân trên trời của Người như là mẹ thiêng liêng của mọi người trong trật tự ơn thánh, bao gồm cả và dựa vào việc đồng công cứu chuộc đầy độc đáo của Người, phải nhận được sự hoàn hảo hóa học lý dưới hình thức một xác định tín điều.

4. Khẳng định phẩm giá nhân vị và tự do nhân bản.

Một trong các triết gia nhân vị hiện đại hàng đầu của thế giới (thuộc trường phái triết học chú tâm vào phẩm giá nhân vị), Giáo Sư Tiến Sĩ Josef Seifert (74) cho rằng một tín điều về Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc sẽ củng cố cách tuyệt diệu phẩm giá và tính tự do của nhân vị: Một tín điều dùng để công bố Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc sẽ minh chứng cách độc đáo sự tự do đầy đủ của nhân vị và việc Chúa kính trọng sự tự do của con người. Tín điều này nhìn nhận cách tối hậu rằng chính quyết định đầy tự do của một nhân vị tức Đức Maria, Đấng đến làm Mẹ Thiên Chúa cũng không thể có được nếu không tự do thưa lời xin vâng, một quyết định không hoàn toàn do ơn thánh tạo nên cách độc chiếm nhưng cũng là hoa trái do chính sự chọn lựa bản thân của Người đem lại, là điều cần thiết đối với ơn cứu rỗi của ta, hay đã góp phần một cách cần thiết vào đường lối cứu chuộc cụ thể được Thiên Chúa chọn lựa.

Trong thời đại ta, là thời triết học nhân vị được khai triển cách sâu sắc như chưa bao giờ có trong lịch sử nhân loại, đồng thời cũng là thời các ý thức hệ phản nhân vị đang thống trị, một tín điều như thế chắc chắn sẽ được nhận thức cách đúng đắn như một củng cố tuyệt diệu đối với phẩm giá của nhân vị.

Trong tất cả các điều trên, người ta thấy ra một giá trị và một ý nghĩa chủ yếu khi tín điều này được công bố trong thời đại ta là thời xuất hiện ý thức mới về phẩm giá nhân vị, nhưng cũng là thời con người bị hạ nhục hơn hết bằng hành động và bị từ khước bằng lý thuyết hơn bao giờ hết (75).

5. Tái khẳng định phẩm giá người phụ nữ

Trong cuộc thảo luận hiện đại về phong trào nữ quyền và bản chất người phụ nữ, việc đức giáo hoàng công bố tín điều Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc sẽ tăng cường điều ta có thể gọi một cách chính xác là tình yêu và lòng kính trọng của Thiên Chúa dành cho người đàn bà. Theo Thánh Kinh Kitô giáo, trọn bộ kế hoạch quan phòng của Chúa Cha trong việc sai Con Một Người xuống cứu chuộc thế gian tùy thuộc lời tự do ưng thuận của một người đàn bà (xem Lc 1:38; Gl 4:4). Điều Chúa Cha “tin cậy” nơi người đàn bà trong con người Đức Maria là Người làm cho việc Chúa Cứu Chuộc của toàn thể gia đình nhân loại xuống trần gian lệ thuộc sự thoả thuận tự do của người đàn bà này.

Như lời Tiến Sĩ Seifert một lần nữa nói: “Bởi thế, việc công bố mới một học lý cổ truyền sẽ cho thấy một cách mới mẻ một chân lý trường cửu về Đức Maria và về người phụ nữ, một chân lý tuy luôn được Giáo Hội tin nhưng chưa bao giờ được tuyên bố cách rõ ràng và không nghi ngại: công trình vĩ đại nhất của tình yêu độ lượng của Thiên Chúa, tức sự Cứu Chuộc nhân loại và ơn cứu rỗi của ta, theo một nghĩa thực sự, cũng là hậu quả một hành vi tự do của một người đàn bà và do đó cũng là tặng phẩm người đàn bà đem lại cho nhân loại” (76).

Xa hơn chút nữa, ông viết: “Tín điều này sẽ nói lên phẩm giá trong hành động của một người đàn bà, một hành động vượt xa về tính năng động, tính cao siêu và tính hiệu quả mọi việc làm của mọi tạo vật và con người khác: của mọi vua chúa và chính trị gia, mọi tư tưởng gia, khoa học gia, triết gia, mọi nghệ sĩ và hoạ viên từ lúc khởi đầu cho tới lúc tận cùng thế giới…” (77).

Do đó, việc mạc khải và vai trò Đấng Đồng Công Cứu Chuộc của Đức Maria khi được xác định trọn vẹn, sẽ mang lại một nền tảng điển hình để hiểu rõ hơn sự đóng góp độc đáo của phong trào nữ quyền đối với nhân loại, và trong tư cách ấy, tạo nền tảng nhân học vững chãi cho phong trào nữ quyền Kitô giáo đích thực.

6. Tái nhấn mạnh nhu cầu người Kitô hữu cần cộng tác với ơn thánh Chúa cho phần rỗi mình.

Nhà học giả Anh giáo của Oxford, Tiến Sĩ John Macquarrie cho hay vai trò Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc đem lại cho ta biểu thức cụ thể cho thấy sự cần thiết đòi con người nhân bản phải tự do và tích cực hợp tác với ơn thánh Chúa để cứu rỗi mình. Mặt khác, ông còn coi chân lý Kitô giáo trong tước hiệu Maria Đồng Công Cứu Chuộc như một tu chính đối với các nền thần học vốn loại bỏ phẩm giá ấy khỏi con người nhân bản, và do đó, đã đưa ra một hình ảnh Kitô giáo không đáng yêu chút nào. Tiến Sĩ Macquarrie tóm tắt điều này như sau:

“Trong một số hình thức giảng dậy, người ta tin rằng con người nhân bản có thể được cứu rỗi mà không biết đến cả việc cứu rỗi ấy đang xẩy ra. Tất cả đã xẩy ra rồi qua công trình cứu chuộc một lần là xong của Chúa Kitô. Đó là một sự kiện, dù người ta có nhìn nhận hay không… Đối với Barth, việc Cứu Chuộc [chủ quan] cũng chỉ là một hành vi hoàn toàn khách quan, đã được hoàn tất ‘bên ngoài chúng ta, không cần chúng ta, có khi còn chống lại cả chúng ta nữa…’. Theo cái nhìn của ông, không được coi Cứu Chuộc như một diễn trình còn đang diễn ra, trong đó ta có vai trò để đóng, nhưng là một hành vi làm một lần là xong của Thiên Chúa xẩy ra trước cả khi ta sinh ra…

Bây giờ, nếu đồng ý với quan điểm của Barth, tôi sẽ phải nói rằng ông ta coi con người nhân bản như những con cừu hay trâu bò, có khi còn là những con múa rối, chứ không phải là những hữu thể độc đáo như thực sự chúng ta là, những hữu thể có hồn thiêng được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được ủy nhiệm một mức độ tự do và trách nhiệm nào đó…Quả dễ hiểu khi Feuerbach, Marx, Nietzsche và cả một hàng hà các nhà tư tưởng ngày nay đều hiểu rằng Kitô giáo đã làm họ ra xa lạ với tính người chân thực…”

Bây giờ, ta hãy trở lại với việc xem sét tước hiệu Maria Đồng Công Cứu Chuộc. Có lẽ ta ta buộc phải nhìn nhận rằng Barth và nhiều người khác rất có thể có lý khi tin rằng địa vị mà nền thần học Công Giáo dành cho Đức Maria là mối đe doạ đối với học lý “chỉ một mình ơn thánh” (sola gratia), nhưng tôi nghĩ điều đó chỉ đúng khi người ta giải thích học lý “chỉ một mình ơn thánh” một cách cực đoan, khi học lý ấy trở thành mối đe dọa đối với quan điểm thực sự bản thân và có tính thánh kinh về hữu thể nhân bản… một hữu thể có khả năng đáp trả Thiên Chúa trong công trình xây dựng tạo vật. Quan điểm đầy hy vọng này về loài người đã được ngôi vị hóa và được tôn vinh trong Đức Maria.

Trong những hình ảnh thoáng qua về Đức Maria mà ta có được trong các phúc âm, thì hình ảnh Người đứng dưới chân Thánh Giá, cạnh Con thân yêu của mình, và các lời Người cầu nguyện và cầu bầu cùng với các tông đồ, là những hình ảnh rất nổi cho thấy Đức Maria chia sẻ và hỗ trợ việc làm của Chúa Kitô… Chính Đức Maria đã đến để biểu tượng hóa sự hài hòa hoàn hảo giữa ý muốn của Thiên Chúa tối cao và đáp ứng của con người nhân bản, đến độ chính Người đem ý nghĩa lại cho biểu thức Đấng Đồng Công Cứu Chuộc (78). Tước hiệu ấy và việc công bố mới sẽ giúp bảo vệ tự do, phẩm giá con người và đòi hỏi nhân bản trong việc tự do cộng tác với ơn thánh cứu rỗi.

7. “Đau khổ là cứu chuộc” và “văn hóa sự chết”

Một xác định long trọng Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc sẽ là một công bố của Kitô giáo với thế giới rằng “đau khổ là cứu chuộc”. Điển hình Kitô giáo về Đấng Nữ Đồng Công Cứu Chuộc sẽ chứng tỏ cho thế giới biết rằng chấp nhận thánh giá do Đấng Quan Phòng cho phép xẩy tới cho cuộc nhân sinh của ta không phải là một phí phạm vô giá trị cần phải tránh bất cứ giá nào, gồm cả những cái ác tự tại như chết êm ái và phá thai. Nhưng đúng hơn, sự chịu đựng kiên nhẫn mọi khó nhọc đau đớn của đời người đều có giá trị siêu nhiên khi kết hiệp làm một với nỗi thống khổ của Chúa Giêsu Kitô. Đó là tham dự vào việc phân phối các ơn thánh cứu chuộc của Calvary, cả cho chính bản thân ta lẫn cho người khác (xem Cl 1:24).

Ngay cả gương sáng Đức Maria “xin vâng” đối với một sự sống chưa sinh ra, trong những hoàn cảnh rất có thể cổ vũ các phán đoán lệch lạc và đầy châm chọc từ những người sống chung quanh Người, cũng là tấm gương của lời “xin vâng” đồng công cứu chuộc mà mọi người chúng ta nên thưa trước biến cố sự sống chưa sinh ra, bất chấp hoàn cảnh nào.

Đức Gioan Phaolô II đã mô tả nền “văn hoá sự chết’ hiện nay là “bầu khí văn hóa không biết nhận thức bất cứ ý nghĩa hay giá trị nào nơi đau khổ, mà đúng hơn đã coi đau khổ như hình ảnh thu nhỏ của sự ác mà người ta cần loại bỏ bằng bất cứ giá nào. Điều này đặc biệt đúng khi người ta không có một cái nhìn tôn giáo giúp mang lại một cái hiểu tích cực về mầu nhiệm đau khổ” (79).

Gương cụ thể của Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc mang lại cho Giáo Hội và thế giới lời nhắn tích cực của Kitô giáo rằng “đau khổ là cứu chuộc” trong mọi hoàn cảnh có thể: trong cơn bách hại Kitô giáo, trong cơn ung thư đến hồi kết liễu, trong những lần thai nghén “ngoài ý muốn”, trong các thánh giá thông thường của cuộc sống hằng ngày.

8. Hiệp nhất nhờ đặc sủng giáo hoàng trong lòng Giáo Hội Công Giáo

Dưới viễn ảnh Công Giáo, đặc sủng (charism, hay ơn Chúa Thánh Thần) từng được ban cho Thánh Phêrô và các đấng kế vị ngài, nghĩa là các đức giáo hoàng tiếp sau (xem Mt 16:15-20), chính là nguồn hiệp nhất về học lý và sinh hoạt cho mọi chi thể Giáo Hội. Khi sử dụng đặc sủng vô ngộ của đức giáo hoàng nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần trong việc gìn giữ khỏi sai lầm các vấn đề thuộc đức tin và luân lý, việc sử dụng đặc sủng giáo hoàng này quả đã duy trì và tăng cường thích đáng sự hiệp nhất về sinh hoạt đặt căn bản trên sự hiệp nhất về đức tin, về chân lý và học lý. Cùng một ơn ích hiệp nhất do việc sử dụng đặc sủng giáo hoàng ấy cũng sẽ nhận được trong trường hợp đức giáo hoàng long trọng xác định việc Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc.

Đôi khi có người phản đối rằng một xác định như thế về việc Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc chỉ tổ “gây chia rẽ” bên trong Giáo Hội. Ta cần hiểu rõ vấn đề này: tự bản chất, chân lý Kitô giáo bao giờ cũng hiệp nhất; chỉ có chia rẽ khi người ta bác bỏ chân lý Kitô giáo mà thôi. Đối với việc xác định tín điều Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc cũng thế.

Trước nhất, đây đã là một giáo huấn thuộc học lý của Giáo Hội rồi và do đó phải được các tín hữu Công Giáo tiếp nhận với một gắn bó tôn giáo cả của trí lẫn của chí (80). Thứ hai, như vừa nói trên đây, việc sử dụng đặc sủng vô ngộ của đức giáo hoàng để phục vụ chân lý Kitô giáo và được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần tự nó đã mang theo mình ơn thánh hiệp nhất tâm hồn dựa trên sự hiệp nhất chân lý và đức tin. Nhưng cũng giống như Chúa Giêsu Kitô, “dấu hiệu gây mâu thuẫn”, từng bị bác khước ra sao (xem Lc 2:35), thì chân lý liên quan đến Mẹ Đấng là”dấu hiệu gây mâu thuẫn” cũng có thể bị bác khước như thế.

Cho nên, bất cứ sự chia rẽ nào bên trong Giáo Hội do việc đức giáo hoàng dùng đặc ân vô ngộ để xác định Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc sẽ không phải do việc xác định ấy gây ra, mà là do việc bác bỏ sự xác định ấy gây ra mà thôi.

9. Các thánh thời hiện đại và Đấng Nữ Đồng Công Chuộc Tội

Một dấu chỉ sự chín mùi của học lý về Đấng Nữ Đồng Công Cứu Chuộc và tính có thể long trọng công bố của nó là chứng tá và lời dạy hiện đại về chân lý Thánh Mẫu này của một số rất đông các vị thánh và á thánh đã được tôn phong ngày nay. Sự hết lời đánh giá của các vị này cho thấy sự chín mùi thiêng liêng giữa lòng thánh thiện anh hùng của Nhiệm Thể Chúa Kitô ngày nay.

Trong các vị đặc biệt lớn tiếng đánh giá việc Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc, cả như một học lý Thánh Mẫu lẫn như một mẫu mực cho cuộc sống thiêng liêng của Kitô hữu, ta thấy có Thánh Têrêxa thành Lisieux, Thánh Maximilian Kolbe, Thánh Giáo Hoàng Piô X, Thánh Phanxicô Xaviê Cabrini, Thánh Gemina Galgani, Thánh Leopold Mandic, Chân Phúc Elizabeth Chúa Ba Ngôi, Thánh Edith Stein, Chân Phúc Jose Maria Escriva, Chân Phúc Padre Pio và nhiều vị khác nữa (81).

Chân Phúc Têrêxa thành Calcutta cũng đã ủng hộ cuộc vận động xin đức giáo hoàng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc. Theo Chân Phúc, “Việc đức giáo hoàng xác định Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Đấng Trung Gian mọi ơn thánh, và là Đấng Bào Chữa sẽ đem lại nhiều ơn phúc lớn lao cho Giáo Hội. Tất cả vì Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria” (82)

10. Dẫn khởi vào cuộc toàn thắng của Trái Tim Vô Nhiễm được tiên báo tại Fatima

Một số khá nhiều các tác giả và nhà tư tưởng Thánh Mẫu hiện đại trên khắp thế giới (83) cũng coi việc công bố của đức giáo hoàng về việc Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc, cũng như các vai trò thiêng liêng của Người từ đó mà ra như Đấng Trung Gian mọi ơn phúc và Đấng Bào Chữa, như một “dẫn khởi’ dứt khoát hay khởi đầu cuộc Toàn Thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Maria, đã được tiên đoán tại cuộc hiện ra năm 1917 tại Fatima, Bồ Đào Nha.

Ý niệm đặc thù về cuộc “Toàn thắng của Trái Tim Vô Nhiễm”này phát sinh từ chính các lời trong các cuộc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima đã được Giáo Hội công nhận, khi Người nói với ba trẻ em Bồ Đào Nha được diễm phúc thấy Người. Sau khi tiên báo các biến cố sắp xẩy ra như việc chủ nghĩa cộng sản vô thần lên cầm quyền, việc Giáo Hội và Đức Thánh Cha bị bách hại, tiềm năng cuộc thế chiến lần thứ hai, và việc hủy diệt một số quốc gia, Đức Mẹ đã nói như sau: “cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ sẽ toàn hắng…” (84).

Do đó, cuộc Toàn Thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ đã được thấy trước như việc đổ tràn ơn thánh xuống thế gian, do sự trung gian cho thế giới của Đấng Nữ Đồng Công Cứu Chuộc, Đấng Nữ Trung Gian, và Đấng Bào Chữa, và dẫn tới một thời kỳ bình an thiêng liêng cho nhân loại.

Một số tác giả Thánh Mẫu học ngày nay coi việc Đức Giáo Hoàng công bố Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc trong cuộc Toàn Thắng của Trái Tim Vô Nhiễm, như một nhìn nhận chính thức của Đức Giáo Hoàng, trong tư cách thẩm quyền tối cao của Giáo Hội, sử dụng tự do cần thiết về phía nhân loại để quyền năng trung gian và chuyển cầu trọn vẹn của Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Đấng Trung Gian và Bào Chữa có cơ hội tuôn trào trong việc phân phối các ơn phúc cứu chuộc của Calvary cho thế giới hiện đại.

Thiên Chúa không áp đặt ơn phúc của Người lên chúng ta, nhưng chờ nhân loại tự do thỏa thuận. Với việc xác nhận chính thức của đức giáo hoàng về sự đồng công cứu chuộc của Đức Mẹ, tức việc sử dụng ý chí tự do của thẩm quyền cao nhất nhân danh nhân loại, hành vi tự do này sẽ làm Đấng Nữ Đồng Công Cứu Chuộc được mở “khóa”, rộng tay hết mình phân phối các ơn của Calvary bằng cách tuôn trào một lần nữa các ơn dồi dào của Chúa Thánh Thần xuống cho thế gian. Như lời giải thích của Đại sứ Phi-luật-tân, Howard Dee, bên cạnh Tòa Thánh:

Hai ngàn năm trước đây, trong Mùa Vọng đầu tiên, Chúa Thánh Thần đã xuống trên Đức Mẹ, và khi quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ Người, Người đã thụ thai Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Giờ đây, trong mùa Vọng Mới này, chính là Mẹ Mọi Dân Tộc, Đấng Nữ Đồng Công Chuộc Tội, Đấng Nữ Trung Gian mọi ơn phúc, và là Đấng Bào Chữa, đã tháp tùng Hiền Phu mình mà ngự xuống tâm hồn chúng ta và tái tạo trong mỗi chúng ta, nếu ta chịu vâng theo, hình ảnh Chúa Giêsu… Việc công bố tín điều thứ năm không còn là đặc quyền của chúng ta nữa; mà là bổn phận của chúng ta (85). Như thế, việc đức giáo hoàng công bố tín điều này sẽ tạo nên một tuôn trào có tính lịch sử các ơn phúc thiêng liêng cho thế giới qua việc Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại sử dụng trọn vẹn các vai trò Đồng Công Cứu Chuộc, Đấng Trung Gian mọi ơn phúc và Đấng Bào Chữa của mình một cách hào phóng nhất xưa nay (86)

Kết luận

Người ta hy vọng rằng một chút ánh sáng nào đó đã chiếu rọi được các vấn nạn chính liên quan đến chính cuộc thảo luận hiện nay về vấn đề Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc và ít nhất như một dẫn nhập để thảo luận khía cạnh đặc thù trong việc đức giáo hoàng có thể xác định học lý Đồng Công Cứu chuộc.

Về tiềm năng có thể có việc xác định học lý này trong tương lai theo quan điểm Công Giáo, bình an và tin cậy vào sự hướng dẫn của Giáo Hội qua đức giáo hoàng trong các vấn đề đức tin và luân lý sau cùng phải thống trị tâm trí tín hữu Công Giáo, bất kể ý kiến cá nhân hiện nay có khác nhau một cách hợp pháp đến bao nhiêu.

Dưới cái nhìn tổng quát của Kitô giáo liên quan đến học lý này và các học lý khác hiện đang phân rẽ chúng ta, ta hãy duy trì đức tin vào việc ứng nghiệm cuối cùng lời Chúa Giêsu Kitô cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo ở buổi Tiệc Ly rằng: “…Xin cho chúng nên một, như Cha, Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha, để chúng cũng ở trong chúng ta, ngõ hầu thế gian tin Cha đã sai con” (Ga 17:21). Bên cạnh các bước tiến hay các bước lùi có tính lịch sử hiện nay, các Kitô hữu nên tin vào sự hiệp nhất một lòng giữa họ với nhau, một sự hiệp nhất sẽ đâm bông thành sự hiệp nhất trí khôn, chân lý, và niềm tin dựa vào một Chúa Giêsu Kitô duy nhất, Đấng là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6)

Chú Thích

1. Mother Teresa of Calcutta, Personal Interview, Calcutta, August 14th 1993

2. John Paul II, Papal Address, Jan. 31, 1985, Guayaquil, Ecuador, (O.R., March

13, 1985).

3. St. Irenaeus of Lyons, Adversus haeresus, III, 22, emphasis author's.

4. St. Jerome. Epist. 22, 21.

5. Modestus of Jerusalem, Migne PG 86; 3287.

6 St. John Damascene, PG 86; 658.

7. St. Bernard of Clairvaux, Ser. III, super Salve.

8. St. Bonaventure, de don. Sp. 6; 14., emphasis author's.

9. Cf. Calkins, "Pope John Paul II's Teaching on Marian Coredemption" as found in Miravalle, ed., Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations II, p.113.

10. Cf. John Paul II, Ut Unum Sint, 21, 28.

11. Second Vatican Council, Unitatis Redintegratio, n. 11.

12. John Paul II, Ut Unum Sint, n. 36.

13. John Paul II, Ut Unum Sint, 18.

14. Second Vatican Council, Lumen Gentium, n. 56.

15. Lumen Gentium, n. 58.

16. Lumen Gentium, n. 61.

17. John Paul II, Ut Unum Sint, 18.

18.. John Cardinal O'Connor, Endorsement Letter For Papal Definition of Mary, Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, February 14, 1994.

19. Martin Luther, Commentary on the Magnificat, 1521, as quoted in Dr. Charles Dickson, A Protestant Pastor Looks at Mary, 1996, Our Sunday Visitor Press, p.41,42.

20. Ibid.

21. Dickson, A Protestant Pastor Looks at Mary, p. 48-49.

22 John Paul II, Redemptoris Mater, 21, 39.

23 John Paul II, Papal Address, Rome, October 1, 1997, L'Osservatore Romano,

1997, 41.

24. J. Macquarrie, "Mary Co-redemptrix and Disputes over Justification and Grace"

in Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations II, p.246.

Copyright © 2001 Queenship Publishing - All Rights Reserved.

25. St. Irenaeus of Lyons, Adversus haeresus, III, 22, emphasis author's.

26. Modestus of Jerusalem, Migne PG 86; 3287.

27. St. John Damascene, PG 86; 658.

28. St. Bernard of Clairvaux, Ser. III, super Salve.

29. St. Bonaventure, de don. Sp. 6; 14., emphasis author's.

30. St. Bonaventure, Sermo III de Assumptione, Opera Omnia, v.9.

31. St. Bonaventure, Sent. III.

32. St. Bonaventure, Collatio de donis Spiritus Sancti 6, n.16

33. St. Albert the Great (or Pseudo-Albert) Mariale, Q. 150.

34. John Tauler, Sermo pro festo Purificationis Beate Mariae Virginis.

35. Oratione, St. Peter's in Salzburg, in Analecta hymnica medii aevi, v. 46, p. 126.

36. For a more comprehensive treatment of Co-redemptrix throughout Christian

Tradition, cf. J.B. Carol, De Corredemptione Beatae Virginis Mariae, Typis

Polyglottis Vaticanis, 1950, p. 125.; G. Roschini, O.S.M., Maria Santissima

Nella Storia Della Salvezza, 1969, v. II, p.171.

37. Fr. Fredrick Faber, At the Foot of the Cross (Sorrows of Mary), Reilly Co, 370.

38. Pope Leo XIII, Parta huinano generi.

39. Pope Benedict XV, Inter Sodalicia, 1918.

40. Pope Pius XI, Allocution to Pilgrims of Vicenza, Nov. 30, 1933.

41. Second Vatican Council, Lumen Gentium, n. 58.

42. John Paul II. Papal Address at Guayaquil, January 31, 1985. (ORE, 876).

43. John Paul II, General Audience, April 9, 1997.

44. John Paul II, General Audience, March 21, 2001.

45. For example, cf. Pius XI, Papal Allocution at Vicenza, Nov. 30, 1933.

46. John Paul II, General Audience, April 9,1997.

47. Galot, S.J., "Maria Corredentrice" in L'Osservatore Romano, September 15, 1997, Daily Italian Ed.

48. Cf. Second Vatican Council, Dei Verbum, II, nn. 9-10.

49. Cf. Second Vatican Council, Lumen Gentium, n. 25.

50. Second Vatican Council, Lumen Gentium, n. 56.

51. Lumen Gentium, n. 58.

52. Lumen Gentium, n. 61.

53. Jean Galot, S.J., "Maria Corredentrice. Controversie e problemi dottrinali", Civilta Cattolica, 1994, III, 213-225.

54. "Maria Corredentrice", L'Osservatore Romano, September 15, 1995, p. 4, author's emphasis.

55. For a more comprehensive treatment, cf. Schug and Miravalle, "Mary Co¬redemptrix in the Documents of the Papal Magisterium" in Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations I, Queenship Pub. 1995; Calkins, "Pope John Paul's Teaching on Marian Co-redemption" in Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations II, pp.113-148.

56. Pope Leo XIII, Encyclical Jucunda Semper, 1884

57. Pope St. Pius X, Encyclical Ad diem ilium, 1904..

58. Pope Benedict XV, Apostolic Letter, Inter Sodalicia, 1918.

59. Pope Pius XI, Prayer of the Solemn Closing of the Redemption Jubilee, April 28, 1933.

60. Pope Pius XII, Encyclical Mystici Corporis, 1943.

61. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Salvifici Doloris, n.25.

62. John Paul II, Papal Address at Guayaquil, Ecuador, Jan. 31, 1985.

63. Cf. For five citations and commentary, cf. Calkins, "Pope John Paul II's Teaching on Marian Co-redemption", Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations II, Queenship, 1997.

64. Again, cf. Lumen Gentium, n. 25.

65. Bl. Pope Pius IX, Dogmatic Bull, Ineffabilis Deus, December 8, 1854.

66. For an extended treatment, cf. J. B. Carol, "Our Lady's Co-redemption," in

Mariology, Vol. II, Bruce, 1958; Friethoff, A Complete Mariology, Blackfriars

Pub., London, 1985, p.182; Galot, S.J., "Maria: Mediatrice o Madre

Universale?", Civilta Cattolica, 1996, I, 232-244.

67. Galot, S.J., "Maria Corredentrice: Controversie e problemi dottrinali," Civilta Cattolica, 1994, III, p. 218.

68. Cf. Friethoff, op. cit.

69. Cf. J.B. Carol, op. cit.

70. Karol Cardinal Wojtyla, Homily on the Feast of the Immaculate Conception, December 8, 1973.

71. Bl. Pius IX, Ineffabilis Deus, December 8, 1854, DS 2802.

72. John Cardinal O'Connor, Endorsement Letter For Papal Definition of Mary, Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, February 14, 1994.

73. Alma Socia Christi, Proceedings of the Rome International Mariological Congress, 1950. p. 234.

74. Dr. Josef Seifert is Rector of the International Academy of Philosophy in Liechtenstein and member of the Pontifical Council For Life.

75. Seifert, "Mary as Co-redemptrix and Mediatrix of all Graces - Philosophical and Personalist Foundations of a Marian Doctrine", in Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations II, p. 166.

76. Seifert, op. cit., p.168.

77. Ibid.

78. J. Macquarrie, "Mary Co-redemptrix and Disputes over Justification and Grace" in Mary Co-redemptrix, Mediatrix, Advocate, Theological Foundations II, p. 248, 255.

79. John Paul II, 1995 Encyclical, Evangelium Vitae, n. l5

80. Again cf. Lumen Gentium, n. 25.

81. For a more comprehensive treatment of modern hagiography on Marian co-redemption, cf. Stefano Manelli, FFI, "Twentieth Century Hagiography on Marian Co-redemption" in Mary at the Foot of the Cross, Acts of the England Symposium on Marian Co-redemption, 1999.

82. Mother Teresa of Calcutta, Endorsement Letter for the Fifth Marian Dogma, August 14, 1993.

83. For a sample of such thought, cf. In Miravalle, ed., Contemporary Insights on a Fifth Marian Dogma, Theological Foundations III, Queenship, 2000, the following essays: Ambassador Howard Dee, "Our Lady's Ambassador, John Paul II, Fatima, and the Fifth Marian Dogma"; Dr. Bartholomew, "A Scientist Explores Mary, Co-redemptrix"; Calkins, "The Messages of the Lady of All Nations".

84. Memoirs of Sr. Lucia of Fatima, July 13, 1917.

85. Ambassador Howard Dee, "Our Lady's Ambassador, John Paul II, Fatima, and the Fifth Marian Dogma," in Contemporary Insights on a Filth Marian Dogma, Queenship, 2000, p. 12-13.


86. For an extended treatment, cf. Miravalle, The Dogma and the Triumph, Queenship, 1998.
Vũ Văn An