[go: up one dir, main page]

 

Tu Hội Các Linh Mục XUÂN BÍCH Và Các Đại Chủng Viện tại Việt Nam

 

I. Quá Trình Hình Thành Và Tinh Thần Hội Xuân Bích

Quá Trình Hình Thành và Tố Chức 

Hội Các Linh Mục Xuân Bích (Compagnie des Prêtres de Saint-Sulpice) hay (Society of Saint Sulpice) do Linh Mục Jean-Jacques Olier (1608-1657)[1]  sáng lập tại Paris vào năm 1642, nhằm đào tạo các linh mục chính xứ tương lai theo tinh thần Công Ðồng Trente, phục hưng công cuộc truyền giáo.

Hội Linh Mục Xuân Bích là một hội, theo giáo luật, thuộc qui chế “Các Hội Đời Sống Tông Đồ” (Sociétés de Vie Apostolique, Societies of Apostolic Life, Societates Apostolicae Vitae) chứ không phải là “Các Hội Đời Sống Tận Hiến (Dòng)” (Instituts de Vie Consacrée, Institutes of Consecrated Life, Institutum Consecratae Vitae).  

Tinh Thần

Các linh mục Xuân Bích vẫn là linh mục giáo phận, nhập tịch vào giáo phận gốc, nhưng nhận trách nhiệm tại các giáo phận để phục vụ công tác đào tạo linh mục, chứ không phải là linh mục Dòng, vì không có lời khấn dòng.

Ở Pháp, Hồng Y Bérulle[2]  và Linh mục Charles de Condren đã khởi xướng Phong trào "canh tân bậc linh mục". "Chủng viện" theo tinh thần Linh mục J.J. Olier hình thành từ năm 1641 tại giáo xứ Saint-Sulpice[3]

 

 

 

 

Mặt tiền Nhà Thờ Giáo Xứ Thánh Xuân Bích,

có các tháp không hợp nhau

 

Thánh đường Thánh Xuân Bích nói trên là một công trình của Christophe Gamard, Louis Le Vau và Daniel Gittard, nhưng đã được Gilles-Marie Oppenord hoàn thành. Ông là một học viên của François Mansart, 1714-1745. Mặt tiền được Giovanni Niccolo Servandoni thiết kế lúc đầu, nhưng Jean Chalgrin và những người khác đã thay đổi. Các cửa sổ vòm rộng làm cho ánh sáng tự nhiên chiếu đầy vào nội thất rộng lớn bên trong. Ở mỗi bên cửa ra vào phía trước là hai vỏ đạn to tướng do Cộng Hòa Venetia tặng François I. Hai vỏ đạn để trên đế giống như hai hòn đá khối lớn, được Jean-Baptiste Pigalle chạm khắc.

Nhà thờ có truyền thống lâu dài gốm nhiều nhà chơi đàn ống tài ba đã có niên đại từ thế kỷ 18. Năm 1862, chiếc đàn ống hiện nay được Aristide Cavaillé-Coll xây dựng, thêm vào nhà thờ. Đó là một công trình vĩ đại của Cavaillé-Coll, có nét đặc trưng là 101 phím kêu, và có lẽ đấy là nhạc cụ ấn tượng nhất thuộc thời đại khí cầm hòa âm lãng mạng của Pháp.

Những trang trí lại cho nội thất ở thế kỷ XIX, sau các hư haị vì cuộc Cách Mạng gây ra, khi nhà thờ Xuân Bích trở thành một Đền Chiến Thắng (Temple de Victoire). Đấy là bức bích họa của Eugène Delacroix, trang trí vách tường nhà thờ cạnh. Bức nổi tiếng nhất là “Giacóp Đấu Với Thiên Thần” và “Heliodorus Bị Dẫn Ra Khỏi Đền Thờ”. Jules Massenet  sắp đặt luật  Manon ở nhà thờ Xuân Bích thời thượng..

Marquis de Sade và Charles Baudelaire được rửa tội tại Nhà thờ Thánh Xuân Bích (1740 và 1821, tương ứng), và nhà thờ cũng là nơi chứng kiến cuộc hôn nhân của Victor Hugo mãi đến Adèle Foucher (1794)[4]

Từ đó Chủng viện ở khu Nhà Thờ này được gọi là Chủng Viện Xuân Bích.

Ðể điều khiển Chủng viện, một nhóm linh mục cùng chí hướng được qui tụ thành lập: liên kết với nhóm bằng đức ái huynh đệ và tận hiến đời sống linh mục để phục vụ việc đào tạo các linh mục tương lai.

"Họ phải được khơi động bởi một đời sống tâm linh, với tất cả các đặc tính: tinh thần tông đồ, ý thức cầu nguyện và đời sống nội tâm. Ðược tập trung vào sự kết hợp với Ngôi Lời Nhập Thể, sự sống thiêng liêng nầy phải được nuôi dưỡng bằng Kinh Thánh, và phải được đổi mới bằng Thánh Thể và Nguyện gẫm. Lòng sùng kính Ðức Mẹ và các Tông đồ giữ một địa vị quan trọng"[5]

Ngày nay Hội duy trì các quan hệ đặc biệt với các giáo phận của miền truyền giáo Ile de France, các giáo phận miền Thượng Normandie (Rouen – Le Havre), của vùng quê Picardie (vào lúc đầu). Hội còn tiếp nhận các chủng sinh từ nhiều Giáo Phận Pháp và ngoại quốc. Hội cũng đón nhận nhiều đại tu sinh của nhiều dòng tu khác nhau đến chủng viện để được đào tạo về trí thức, với danh nghĩa là sinh viên ngoại trú

Các chủng sinh sống thành cộng đoàn, Đó là một chủng viện có cuộc sống anh em, và thực tập làm linh mục. Đó cũng là nơi có nền giáo dục thống nhất. Các chủng sinh được mời gọi sẵn sàng nhận các trách vụ khác nhau trong nhà và sống có tinh thần trách nhiệm đào tạo toàn diện chính mình.

Chủng viện Xuân Bích là một tập thể có tính định chế, theo hai chu kỳ. Phối hợp theo đối tượng mục tiêu hướng tới, thể hiện trong các chương trình và các phương tiện của chúng, các chu kỳ đầu tiên và thứ hai đều có chức năng riêng biệt và tự trị. Mỗi chu kỳ này được một Hội Đồng do một Bề Trên làm chủ tọa, điều khiển.

Thích hợp với các chiều hướng «Lý Lẽ » của Pháp được các giám mục bầu tuyển tại Lourdes ngày 7/11/1997 và được Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo chuẩn nhận ngày 25/2/1998, chủng viện hướng dẫn trực diện công cuộc đào tạo trí thức, mục vụ và tâm linh. Như thế Chủng viện nhắm, theo các xu hướng của nghị định « Optatam Totius”[6] số 4, đào tạo các mục tử tận hiến cho sứ vụ của Giáo Hội, được Thần Khí Của Đức Kitô linh hoạt trong thừa tác vụ, khi đặt bản thân đặt cơ sở trong niềm tin của Giáo Hội và được chuẩn bị về trí thức và ứng xử nhân bản để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay[7].

 

II. Mở Rộng Địa Bàn Hoạt Động 

Tu Hội Xuân Bích được nhiều địa phận mời đến để hướng dẫn công cuộc đào tạo cho các linh mục ở Pháp. Ðến năm 1651 sang Montréal (Canada). Năm 1791, Giám Mục Caroll, Giám Mục tiên khởi Hoa Kỳ mời sang Mỹ. Số các Chủng viện lên dần dần từ 15 chủng viện ở Pháp, và số thành viên cứ lớn lên từ 70 (1704) đến 140 (1789)... Vào suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Hội đã phát triển tại Pháp, Canada và Hoa Kỳ

Một giai đoạn lịch sử mới của Hội đã được đánh dấu bằng việc trở lại phong trào truyền giáo, khi một số linh mục lên đường  đi ra nước ngoài: hai hội viên người Pháp (1929)đi Việt Nam, hai người Canada đến Nhật Bản (1933) Trung Quốc (1934). Năm 1950, Hội đảm nhiệm thêm nhiều chủng viện tại Châu Mỹ Latinh và Châu Phi. 

Hội Xuân Bích Đến Việt Nam: Chủng Viện Liễu Giai Ở Hà Nội 

Năm 1929, hai Linh mục Léon PaliardPaul Uzureau đến Hà Nội, rồi cha Jean Raison năm 1930. Trước mắt các Linh mục xúc tiến ngay phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể tại Hà Nội và Phát Diệm. Phong trào này phát triển mau chong tại Hà Nội, Phát Diệm và Bùi Chu. Ðịa phận Hà Nội đã mời các Linh mục Xuân Bích đến thành lập và điều khiển chủng viện Liễu Giai, tiếp nhận các chủng sinh của các địa phận Hà Nội và Thanh Hóa.

Ngày tựu trường đầu tiên (01.09.1933) có 31 chủng sinh, nhưng thuộc nhiều địa phận khác nhau, như Phát Diệm, Hưng Hóa, Bùi Chu, và Nam Vang cũng gửi chủng sinh đến, ngoài các chủng sinh Hà Nội. Ðến năm 1945, tổng số chủng sinh đã lên đến 145.

Sau thời gian tạm gián đoạn năm 1945 trong biến cố Khởi Nghĩa tháng 8 và 9 năm 1945[8] và từ ngày 19/12/1946[9] trong chiến tranh Ðông Dương, vì các linh mục Hội Xuân Bích người Pháp bị lực lượng kháng chiến Việt Minh bắt giam một thời gian ở Việt Bắc. Khi các linh mục kia trở về, thi chủng viện chỉ được mở lại một thời gian vào năm 1948 tại cơ sở trước kia của Tràng Tập của Địa Phận Hà Nội trong khu nhà đất Tòa Giám Mục. Chủng viện lại được tăng cường thêm với nhiều Linh mục mới đến, như các Linh mục Antoine Carret, Daniel Bouis, Yves Hémon ([10]), Pierre Gastine và Raymond Deville ...  

Sau Hiệp định Genève (1954)[11], một ban giáo sư mới được hình thành gồm có các Linh mục Emile Stutz (Nguyễn Văn Túc, từ Trung Quốc sang), Courtois (Nguyễn Văn Lịch), Adrien Villard (Triệu Bá Vi), Vincent Corpet (Khổng Tiến Xuân), Michel Barnouin (Cao Như Sơn) và François Bouyer (Nguyễn Đắc Bình) đến Vĩnh Long (1954-1956) và Thị Nghè[12] - Saigòn (1956-1962). Còn thêm ba Linh mục đầu tiên người Việt Nam gia nhập Hội Xuân Bích[13] là Trần Thái Ðỉnh (gốc Bùi Chu), Nguyễn Khắc Xuyên (gốc Hà Nội) và Nguyễn Bích Đông[14] (Ðông Anh, gốc Phát Diệm) đến tăng cường thêm. 

Đấy là toàn thể Ban Giảng Huấn cơ hữu của chủng viện, chưa kể một số linh mục tu sĩ hay tín hữu bình thường thỉnh giảng như Lm Nguyễn Huy Lịch, OP và Giáo Sư Nguyễn Huy Bảo, … 

Một kinh nghiệm giáo dục nhân bản cụ thể (1958-60)  

Ở Thị Nghè, Thạnh Mỹ Tây, Gia Định chủng viện tạm trú trên thửa đất viện dưỡng lão do Dòng Thánh Phaolô thành Chartres cho mượn. Trong hai niên khóa 1958-59 và 1959-60, chương trình sinh hoạt chủng viện hằng ngày hằng tuần và tháng diễn ra như sau:

Ban sáng thức dậy, mơi người cũng như các chủng sinh thức dậy, đi rửa mặt, vệ sinh rồi lên nhà nguyện đọc kinh sáng, tham dự thành lễ nguyện ngắm rồi dùng ăn sáng. Mỗi người chuẩn bị dọn dẹp vệ sinh nhà cửa trong khu phòng ngũ, rồi học bài riêng nếu không có lớp chung. Những ai có lớp chung đều phải tham dự lớp học chung.

Hằng tuần vào ngày thứ năm, các chủng sinh thường đi dạo từng toán đến thăm viếng các địa điểm khác nhau như các xứ đạo, các chùa chiền như nhà xứ dành riêng cho người Hoa tại Mũi Tàu Phú Lâm hay ngôi Chùa Phận Giáo ở Phú Thọ Hòa Phú Lâm  

Các giáo sư thương soạn bài riêng chuẩn bị giáo trình cho các chủng sinh. Nhưng có một số linh mục giáo sư là người nước ngoài, thường là người Pháp vừa giảng dậy các chủng sinh vừa học tiếng Việt. Thực tế trong hai năm 1959 và 1960, có hai linh mục giáo sư là Vincent Corpet và François Bouyer vì muốn thông thạo tiếng Việt, kiện toàn nhiệm vụ giảng dậy, nên thường tìm mấy chủng sinh tương đối tỏ ra có năng lực hơn các chủng sinh khác, nhằm cộng tác soạn thảo giáo trình cho chủng sinh với các linh mục này.

Trong Ban Triết, Linh mục Corpet phụ trách giảng dậy về môn triết sử và linh mục Bouyer, về xã hội học tôn giáo. Hai vị linh mục này cộng tác ít nhất với hai chủng sinh xuất thân từ chủng viện Piô XII thuộc gốc giáo phận Hà Nội là Nguyễn Ngọc Trương và Đỗ Hữu Nghiêm. Trước nữa dường như có một số chủng sinh khác, như Mai Đức Vinh ở lớp trên.

Tiến trình làm việc phối hợp diễn ra nhịp nhàng, có lợi cho ít nhất ba phía:

Bản thân linh mục giáo sư hiểu rõ các thuật ngữ Pháp Việt về triết học và xã hội học một cách đầy đủ hơn. Chính các chủng sinh cộng tác nhân cơ hội đó vừa thành thạo tiếng Pháp và các thuật ngữ chuyên môn và tư tưởng mà giáo trình muốn truyền đạt. Nhờ đó, tập thể các chủng sinh có thể dễ dàng hấp thụ các bài giảng của linh mục giáo sư

Theo kinh nghiệm làm việc của chủng sinh Đỗ Hữu Nghiêm cộng tác với linh mục giáo sư Corpet, thì thường trong quá trình biên soạn giáo trình chung cho các chủng sinh ban Triết Học, chính linh mục giáo sư ấn định chương trình giảng dậy về triết sử. Trong hai năm cộng tác với Linh mục giáo sư soạn thảo giáo trình về triết học, chủng sinh Đỗ Hữu Nghiêm cùng làm việc trên một giáo trình sơ thảo mà linh mục giáo sư nháp sơ lược bằng tiếng Pháp. Tài liệu giáo khoa linh mục V. Corpet dùng là cuốn La Pensée de Karl Marx của tác giả Jean Calvez, Dòng Tên do nhà Gallimard ỏ Paris xuất bản, để biên soạn giáo trình “Cuộc Đời và Tư Tưởng của Karl Marx” và nhiều giáo trình khác về Feuerbach, Engels, Kierkegard, Gabriel Marcel

Cứ theo giáo trình với nhiều chi tiết và thuật ngữ đã soạn trước bằng tiếng Pháp, hai người - giáo sư và chủng sinh cộng tác - cùng cố thảo luận để hiểu biết và diễn dịch chính xác tư tưởng Linh mục giáo sư muốn nói. Khi hai người cộng tác cùng đồng ý về thuật ngữ vá cách diễn dịch thích hợp bằng tiếng Việt theo cách nói có thể hiểu được cho giáo trình giảng dậy.

Bằng cách đó, trong thực tế, chủng sinh đã cùng dịch thuật, thảo luận và học thuộc kỹ lưỡng giáo trình. Vì thế thường chủng sinh cộng tác được miễn theo học chung với lớp học của mình. Nhưng đôi khi cũng có ích lợi nếu chủng sinh kia tham dự lớp học chung phản ảnh lại những bàn luận giữa giáo sư và chủng sinh và cách hiểu của chủng sinh về cách diễn tả đó như thế nào để làm rõ thêm cho các chủng sinh khác.

Ngoài lớp học, hằng ngày cứ hết lớp là chủng sinh lên nhà nguyện đọc kinh trưa, rồi xuống ăn cơm trưa. Sau giờ trưa mọi người đi bách bộ một chốc rồi nghỉ trưa khoảng một tiếng.

Mọi người trở lại lớp học buổi chiều hay học riêng. Trước khi đến tham dự buổi đọc kinh tối, mọi người đến phòng hội chung để nghe linh mục Giám Đốc chủ trì chương trình huấn dụ - allocution  - liên quan đến tác phong và kỷ luật đời tu, cách ứng xử, lề lối sống đúng tư cách một người đạo đức có lương tâm theo ý thức đời tu Công giáo và tất cả những kinh nghiệm cụ thể xảy ra trong cuộc sống hằng ngày.

Linh mục Bề Trên Gastine thường diễn tả rất tỉ mỉ cho chủng sinh, như người viết chứng kiến và học tập được những chỉ dẫn sống động:

Một anh tài xế lái xe riêng của ngài, có quá động xe và đông người, nhưng anh muốn chạy nhanh, ngài can gián bằng cách nói:

Anh cứ đi chậm chạp vừa phải, đừng đi vội vườt xe khác. Nếu mình đi dược trước, thì người khác phải trễ, và thế là mất bác ái với người khác. Lái xe cẩn thận và đúng mức cũng là bác ái với người khác!”

Một lần khác, linh mục trao đổi với người viết về vấn đề thư tín. Ngài nói:  

Khi có ai viết thư cho mình thì mình hãy cố gắng viết ngay trả lời tất cả mọi người một cách tận tình. Trả lời kịp thời yêu cầu của người khác là một cách sống lịch thiệp, mà lịch thiệp là hương hoa của đức bác ái theo tinh thần Kitô.”

Sau bữa ăn tối là cuộc bách bộ ban tối ở sân chủng viện. Mỗi người được khuyến khích là mỗi lần đi bách bộ, các chủng sinh tìm  chọn một bạn chủng sinh khác, càng khác địa phương, tuổi tác, lớp học và giáo phận càng tốt. Nhờ đó mỗi người vừa có dịp quen biết nhau cụ thể, vừa cọ xát tính tình, chia sẻ tình cảm, kinh nghiệm hiểu biết cuộc sống nhân bản hơn về tất cả những gì màhai hay ba người muốn tâm sự với nhau.

Chính nhờ những giờ phút này mà những anh em chủng sinh Xuân Bích từ lớp trên xuống lớp dưới đều có nhiều cơ hội quen biết nhau và giúp đỡ nhau trong rèn luyện tính tình nhân cách và học vấn, kinh nghiệm sống và ứng xử trong mọi tình huống…

Hằng tuần, trong hàng ngũ chủng sinh, linh mục quản lý thường kêu gọi anh em nào xung phong chấp nhận hy sinh thời gian, sức lực đi xúc trấu cho nhà bếp về đun cho chủng viện, dưới xự hướng dẫn của ngài, tại những chành gạo ở Chợ Lớn hay Chọ Cầu vùng Quang Trung Hóc Môn. Tại những nơi đó, các chủ chành gạo thường cho không những ai có thời giờ đến xúc trấu đi!

Đây là một cơ hội tập luyện tính hy sinh của một số ngưới. Nhưng đã có những đàm tiếu tiêu cực của một vài an hem không chấp nhận đi làm như thế.

Hằng tháng, chủng viện cũa tổ chức những buối tính tâm hay những chuyến về thăm gia đình trong các dịp lễ quanh năm hay ngày kỷ niệm đặc biệt của chủng viện

Cuộc huấn luyện đào tạo trong môi trường chủng viện như thế sẽ dễ dàng giúp cho công cuộc tông đồ mục vụ sau này ở tất cả các môi trường làm việc của các linh mục trong các cơ quan giáo xứ, đoàn thể của giáo phận trong giáo hội[15] 

 

III. Chủng Viện Huế Kế Thừa Chủng Viện Liễu Giai Hà Nội 

Năm 1962, do lời mời của Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục, quản trị giáo phận Huế, Chủng viện Liễu Giai đã chính thức được chuyển ra bố trí tại Kim Long, bên cạnh Hoàng thành Ðại Nội Huế trên danh nghĩa là "Chủng viện Huế"[16], để đặc trách việc đào tạo các chủng sinh thuộc Giáo tỉnh Huế gồm nhiều địa phận khác nhau: Huế, Ðà Nẵng, Kontum, Qui Nhơn, Nha Trang, Ban Mê Thut, có thể nói đó là Chủng viện Miền chung cho nhiều giáo phận.

Số chủng sinh ngày càng gia tăng, từ con số 129 (năm 1962) đến con số 150 (năm 1972). Số các Linh mục giáo sư cũng tăng dần lên: B. Nguyễn Sơn Lâm và P. Nguyễn Bình Tĩnh (1964), Trịnh Thiên Thu (1967), Ant. Trần Minh Hiển, Bùi Châu Thi, Jos. Nguyễn Chính Duyên, Dom. Trần Thái Hiệp, Bart. Nguyễn Quang Anh, JB. Trần Ngọc Quỳnh và Mai Ðức Vinh (1969), Hồng Kim Linh (1972).

Năm 1964, cũng từ Huế theo lời mời của Giám Mục Nguyễn Văn Thiện, quản trị địa phận Vĩnh Long, đồng ý với Giám Mục Mỹ Tho Trần Văn Thiện, Linh mục P. Gastine với ba Linh mục Fr. Bouyer, B. Nguyễn Sơn Lâm và B. Nguyễn Quang Anh (mới chịu chức) trở về lại Vĩnh Long để lập thêm một chủng viện mới trên cơ sở trường huấn luyện "Nhân vị cũ". Hai chủng viện Huế và Vĩnh Long hoạt động đồng hành với nhau cho đến mùa Xuân 1975.

Đại Chủng Viện Xuân Bích tại Vĩnh Long (1964-1970)[17]
 

Linh mục Pierre Gastine Bùi Đức Tín từ Đại Chủng viện Xuân Bích Kim long (Huế) vào Vĩnh long tái tục thiết lập Đại Chủng viện Xuân Bích Vĩnh long[18].

Niên khóa đầu tiên năm 1964-1965, gồm có: Lớp Dự bị cho các chủng sinh địa phận Vĩnh long, Cần thơ và Mỹ tho; lớp Thần học ba và bốn cho các chủng sinh từ Huế vào.

Mãn khóa Thần bốn, một số chủng sinh chịu chức linh mục ở Vĩnh long (Mai Đức Vinh, hiện đang là Đức Ông ở Paris, các chủng sinh khác như Tri, Phúc, Thanh, Huân v.v), một số khác thụ phong linh mục ở Vương Cung Thánh đường Sài Gòn (Hoàng Thái Ân, Trương Trọng Tài, Nguyễn Thanh Hoan (nay là Giám Mục Phan thiết) v.v...

Tiếp đến niên khóa năm 1965-1966 gồm: lớp Dự bị; lớp Triết một. Có các chủng sinh Duy, Năng, Sự…Lớp Thần ba học xong năm trước ở Vĩnh long nay trở lại Huế)

Chu kỳ một khóa học 

Tính ra một chu kỳ khóa học kéo dài trọn vẹn tám năm:  Một năm Dự bị, Hai năm Triết học, Một năm đi thử, Bốn năm Thần học.

Thường một tháng đầu mùa trong kỳ nghỉ hè mỗi năm học, các chủng sinh toàn trường được chia làm nhiều nhóm, mỗi nhóm gồm hai hay ba chủng sinh đi tới các họ đạo trong ba địa phận truyền giáo (thực tập). Có một Linh mục giáo sư, kể cả Linh Mục Bề trên đi theo hướng dẫn ba hoặc bốn nhóm.

Nhờ vậy mà chủng sinh Nguyễn Hùng Oánh thuộc địa phận Saigon xuống học biết đựợc Bình thủy, Đại ngãi, Kế sách, Cù lao Dung v.v…ở địa phận Cần Thơ.

ĐCV Xuân Bích Vĩnh long tái lập sau ĐCV Xuân Bích Huế nhiều năm, nhưng ĐCV Xuân Bích Vĩnh long có vinh dự được Linh mục Bề trên Gastine, đang làm Giám Đốc ĐCV Xuân Bich Huế, ở Kim Long, đích thân xuống tài tục thành lập và làm Giám đốc. 

Vài nét sinh hoạt trong chủng viện 

 Giám mục Antôn Nguyễn văn Thiện, địa phận Vĩnh long và Giám mục Giuse Trần Văn Thiện, đia phận Mỹ tho, thường đến Đại Chủng viện Xuân Bich Vĩnh long. Có lần vào dịp Giáng Sinh,chủng sinh Nguyễn Hùng Oánh đang ở trong phòng Linh mục Bề trên, thì Giám Mục Antôn xuất hiện, vào phòng vui vẻ bắt tay Linh mục Bề trên. Ngài Bề trên vừa bắt tay vừa quỳ hôn nhẫn và nói:

Đức Cha đến thăm con”.

Câu chuyện giữa hai ngài thật hồn nhiên, thân mật… 

Giám Mục Giuse Mỹ tho, nói tiếng Pháp thông thạo như Tây, tới cho các chủng sinh sách “SỐNG”, cho biết ngài đầu tư cho chương trình đào tạo từ hai mươi năm, ba mươi năm. Linh mục Bề trên tiết lộ:

Nói chuyện với ngài, có khi quên ngài là người Việt nam”.

Linh mục Bề trên Gastine lên Saigòn, thỉnh thoảng đánh Domino với Linh mục Bề trên Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Đại Chủng viện Saigon. Khi Linh mục Bề trên Mầu làm Giám mục, Linh mục Bề trên Gastine lên mừng, nói đùa:

Bây giờ Cha Bề trên làm Giám mục rồi, không đánh Domino với con nữa”.

Giám Mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ chấp nhận cho Linh mục Nguyễn Trọng Quý, tiến sỹ Thần học ở Đức mới về sang dạy Thần học cho ĐCV Xuân Bích Vĩnh long.

Có lần Giám Mục Nguyễn Khắc Ngữ sang thăm ĐCV Xuân Bích Vĩnh long, các chủng sinh lớp lớn nhất, vây quanh ngài nhanh miệng nói với vẻ đường như nịnh nọt:

Cám ơn Đức Cha đã cho Cha giáo Quý sang dạy cho chúng con... Cha Quý hiền lắm thưa Đức Cha… Cha Quý…”.

Giám mục trả lời:

Thôi, thôi, tôi biết rồi các thầy ăn hiếp Cha Quý “.

Ai nấy đều cười thoải mái như nắc nẻ ! Đúng là nhất quỷ, nhì ma, thứ ba….

Linh mục Giáo sư Quý có cái đặc biệt “tài” hỏi thăm trong mọi tình huống. Chào ngài, ngài nở nụ cười rồi hỏi:

Đi dạo về? Đi đâu về?

Cả khi đi tắm ở bên dãy nhà cũ đi về nhà mới, ngài cũng vui vẻ trả lời câu chào:

Thầy tắm về đó, sao không lau khô người đi, để ướt dễ cảm …

Năm 1967, vào dịp Tết Nguyên đán Đinh Mùi, Giám mục Brunon sang thăm Xuân Bích, ngài tới Vĩnh long trước. Trong bữa cơm “tết trươc Tết”, Giám Mục Antôn ngồi bàn đối diện với Đức cha Brunon, ngài nói (Cha Bề trên Gastine dịch):

Đức Cha ăn Tết bên Pháp vừa rồi, sang đây không được ăn Tết nữa đâu nhé”.

Cả phòng cơm cười thích thú, nhất là mọi người òa lên cười khi nghe Linh mục Bề trên dịch ra tiếng Pháp.

Năm 1970, Linh mục Faynet, Bề trên Xuân Bích sang thăm. Linh Mục Villard vội mua tác phẩm “L’Église” của Ngài mới xuất bản để trong thư viện trước khi Cha Ngài sang. Nguyễn Hùng Oánh đến phiên phải giúp lễ, tráng chén, thấy Bề trên cứ đứng như “trời trồng” giữa bàn thờ, buộc chủng sinh đang giúp lễ phải vội ứng khẩu:

Mon Supérieur, à votre place”.

May mắn là ngài vui vẻ trở lại ghế.

Cũng năm nầy, Bề trên Gastine xin từ nhiệm chức Bề trên và Linh mục Chính Tự vừa là Tổng Đại diện Vĩnh long, vừa là Giám đốc Tiểu Chủng viện Vĩnh long sang làm Giám đốc Đại Chủng viện (không còn Đại Chủng viện Xuân Bích nữa), nhưng Ban Giáo Sư vẫn giữ nguyên.

Một số linh mục thắc mắc về Đại Chủng viện Vĩnh long, Linh mục Nguyễn Sơn Lâm, Giám đốc Đại Chủng viện Xuân Bích Huế trong khóa các linh mục tu nghiệp ở Nha trang, trả lời:

Xuân Bích đã hoàn thành nhiệm vụ ở Vĩnh long”.

Bề trên Gastine nhận một giáo xứ ở miền thôn nước tỉnh Vĩnh long, tránh tới Chủng viện. Ai trong các cựu chủng sinh đến thăm ngài, cả hai bên đầu giữ ý, không bao giờ nói tới công việc ở Chủng viện.

Một linh mục đồng hương với Nguyễn Hùng Oánh, làm giáo sư Tiểu Chủng viện Vĩnh long, phàn nàn các chủng sinh có thái độ “chống đối” Linh mục Bề trên mới. Nhưng theo cảm nhận của Nguyễn Hùng Oánh, chắc dị ứng thì có, nhưng chống đói thì không. Các chủng sinh năm cuối cùng thấy cần phải “thích ứng” (adaptation) với điều kiện mới, nhưng không thể không có chút tiếc nuối… Họ thực sự đã giúp Bề trên Tự bằng cách trình lên ngài các ý kiến và vâng phục lời ngài dạy. Một vài chủng sinh ở lớp khác “chuyển đường tu” trước khi bỏ ra khỏi chủng viện, cũng có vài lời nói nặng….

Kết quả là Bề trên mới gặt hái kết quả của người cũ đã gieo, khi Khâm sứ Henri Le Maitre về nhà thờ Chính tòa Vĩnh long truyền chức linh mục cho các chủng sinh lớp cuối ngày 28-4-1972. Và lớp các tân linh mục này trở về tham dự lễ Kính Tổ Xuân Bích (21-11-1973) tại Đại Chủng viện Vĩnh long, rất vui vẻ. Bề trên mới dường như có tài duy trì sinh hoạt của Xuân Bích và ngài đã thành công.

Nhân lúc Linh mục Adrien Villard Triệu Bá Vi sang thăm Việt nam lần đầu tiên, linh mục Nguyễn Hùng Oánh lên gặp ngài ở toà nhà khách thuộc giáo xứ Phú hạnh, Phú Nhuận (Tp HCM). Ngài nói:

Cha Gastine rất muốn sang, nhưng thời gian đó ngài sợ liên lụy tới các cha”.

Linh mục Nguyễn Hùng Oánh nói chuyện với ngài vì trước đã giúp ngài đi mua coupon UNESCO, để mua sách bên Pháp cho các chủng sinh, và đề nghị với một số linh mục hiện diện:

Mỗi cha học Xuân Bích góp 100 hoặc 50 USD cho quý cha giáo mỗi nam sang thăm học trò”.

Ngài lắc đầu và hình như các linh mục có mặt cũng đồng tình với ngài.

Nhóm linh mục Xuân Bích lớp đầu tiên 1972 thỉnh thoảng có dịp gặp nhau. Họ gặp nhau hai lần ở Tiểu Chủng viện Saigon, một lần tại giáo xứ Bình thuận Quận 8, một lần ở giáo xứ Lương hòa mừng 10 năm Linh mục, một lần ở giáo xứ Tân định, ở Mỹ tho dự đám tang của Lm Nguyễn Hoàng Đệ cùng lớp; ở Đại Chủng viện Cái Răng dự đám tang của Lm. Ngọc tháng mười năm 2007.

Thập niên cuối thế kỷ 20 và kéo dài dài… do sáng kiến của các Linh mục và riêng Linh mục Trương Kim Hương, làm thủ trưởng tổ chức họp mừng Lễ Kính Tổ (lễ Đức Mẹ Dâng Mình trong Đền Thờ, ngày 21 tháng 11 hàng năm)…. Chủng sinh Nguyễn Hùng Oanh đã từng học ở Viện Đại học Đà lạt, thích cái lạnh ở xứ sương mù, nhưng bây giờ cơ thể không cho phép (sợ lạnh), đành tiếc rẻ vậy.

Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế trước 30/4/1975 

Năm 1966, Ðại chủng viện Huế có một bề trên mới là Linh mục B. Nguyễn Sơn Lâm để tiếp tục công việc giáo dục. Chủng viện phát triển tốt đẹp lắm, số chủng sinh tăng thêm nhiều quá, nên năm 1973 phải mở thêm một phân khoa Triết tại Ðà Nẵng, tức là Ðại Chủng Viện Hòa Bình[19] với các Linh mục Phạm Năng Tĩnh, Trịnh Thiên Thu, FX. Nguyễn Tiến Cát, P. Nguyễn Lân Mẫn, JB. Nguyễn Văn Ðán... Niên khóa 1974-1975, Ðại Chủng viện Hòa Bình có đến 120 chủng sinh. Ðầu năm 1975, Linh mục B. Nguyễn Sơn Lâm được chọn làm Giám Mục Ðàlạt và Linh mục J. Nguyễn Chính Duyên lên thay thế.

Biến cố 75 bắt buộc Chủng viện ngưng hoạt động: các Linh mục Pháp trở về lại xứ sở, các Linh mục Việt Nam dần dần đi làm mục vụ trong các địa phận. Mấy Linh mục lưu lại ở Ðà Nẵng cũng cố gắng thích nghi Chủng viện tại Phú Thượng với hoàn cảnh xã hội mới cho đến năm 1982[20]. 

4. Chủng Viện Huế Được Mở Lại 

Mùa Xuân 1994, Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể được đặt làm Giám Quản Tông Tòa Tổng Giáo Phận Huế. Công việc đầu tiên là chính thức mời các Linh mục Xuân Bích trở lại Huế làm việc. Chủng viện mở cửa vào ngày 22. 11. 1994[21] đón nhận 40 chủng sinh khóa I của ba địa phận Huế, Ðà Nẵng và Kontum. Linh mục P. Nguyễn Bình Tĩnh làm Giám đốc.

Ban giáo sư mới gồm có các Linh mục B. Nguyễn Quang Anh, FX. Nguyễn Tiến Cát, P. Nguyễn Lân Mẫn, JB. Trần Ngọc Quỳnh. Một năm sau, Linh mục JB. Nguyễn Văn Ðán[22]  từ Ðà Nẵng ra tăng cường.

Tiếp đến, các Linh mục Ant. Trần Minh Hiển, D. Trần Thái Hiệp, J. Trịnh Văn Thậm hợp lực thêm, rồi từ Pháp Linh mục L. Nguyễn Văn Bính về năm 1996 và cha Micae-Phaolô Trần Minh Huy năm 1999. Ðến nay (năm 2000), với ba khóa (94-96, 96-98, 98-2000), số chủng sinh được 92 và 15 tu sinh của hai Dòng Thiên An, Thánh Tâm[23].

5. Một Thành Quả Thu Hoặch Đầy Khích Lệ ... Hướng Về Tương Lai

Số các linh mục cựu sinh viên Xuân Bích rải rác từ Bắc chí Nam, từ năm 1933 đến 2000, khá đông. Tờ Liên Lạc "Giỗ Tổ Xuân Bích 1993" ghi lại được 383 linh mục từ sông Gianh trở vào. Số linh mục cựu sinh viên Xuân Bích ở phía Bắc không kiểm kê được.

Nhưng hiện có các nhân vật tiêu biểu như:

Hồng Y Giuse-Phaolô Phạm Ðình Tụng,

Giám Mục Phụ Tá Giuse Nguyễn Ðắc Trọng,

Linh mục Đại Diện địa phận Trần Văn Tông 

Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Oánh, Giám học Ðại Chủng viện Hà Nội,

Giám Mục FX. Nguyễn Văn Sang – Giáo phận Thái Bình,

Giám Mục Bat. Nguyễn Sơn Lâm – Giáo Phận Thanh Hóa,

Linh mục Nguyễn Hân Quynh - Tổng Ðại Diện Ðịa phận Hải Phòng,

Linh mục JB. Lưu Văn Khuất - Tổng Ðại Diện Ðịa phận Thanh Hóa, ... 

Có thể nghiên cứu thêm tài liệu hồ sơ trong chủng viện còn lưu trữ để thiết lập danh sách các th ế h ệ chủng sinh được đào tạo và tốt nghiệp Đại Chủng Viện Xuân Bích ở Hà Nội (1933-1954), Vĩnh Long (1954-1975), Huế (1962-1975) và Đà Nẵng (từ 1994 đến nay), thuộc các giáo phận trong toàn quốc.

6. Một Số Ngày Giỗ Tổ Các Cựu Chủng Sinh Xuân Bích  

1/. Cuộc Họp Mặt Nhân Ngày 23 – 25/11/2004 Tại Toà Giám Mục Đà Lạt

Điểm Hẹn: Tòa Giám Mục Đà Lạt, nhân Lễ Đức Mẹ Dâng Mình

Theo nhật ký ghi nhanh của một cựu chủng sinh, thì ngày 23.11.2004, “Đến hẹn lại lên”. Đây không phải là một sáo ngữ áp dụng tùy tiện cho những trường hợp, những biến cố lặp đi lặp lại trong một không gian hay thời gian nào đó.

Nhưng đối với các anh em Giám Mục, linh mục cựu sinh viên Xuân Bích, thì “đến hẹn lại lên” lại là một “tiết” định kỳ vừa trùng hợp với cái “hẹn” của thời gian, cái hẹn của thời điểm “Đức Mẹ Dâng Mình”; vừa đúng với cái “lên” của không gian, lên miền “Đà Lạt trăng mờ”, lên tòa biệt thự mang tên “Tòa Giám Mục Đà Lạt” cổ kính, thơ mộng bên bờ hồ Xuân Huơng đang chớm lạnh vào đông. 

Chảo Mừng Cộng Đoàn 

Trước hết, mọi người chào mừng Giám mục Phêrô, Vị Chủ Chăn của vùng Cao Nguyên Langbiang, Vị Mục Tử của một cộng đoàn Giáo Phận đa sắc tộc, của Thành Phố du lịch đẹp nhất Việt nam. Xin kính chào ngài và đồng thời kính xin ngài một lần nữa cho phép các cựu chủng sinh Xuân Bích có được những ngày quây quần với nhau bên cạnh Vị Giám Mục trong Tòa Nhà thân thương mà chắc chắn ngài đang chuẩn bị mọi sự tươm tất để đón chờ buổi họp mặt này. Xin kính chào toàn thể cộng đoàn Tòa Giám Mục Đà Lạt và tất cả những anh chi em lại một lần nữa lo lắng giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để cuộc lễ có được một thời điểm thường huấn trọn vẹn, tốt lành…

Bày chim tung cánh bay  về tổ ấm

Và thế là chiều 23 đã có 90 anh em như những cánh chim bay về tổ ấm. Từ Cần Thơ, Long Xuyên, Mỹ tho, đến Xuân Lộc, Sài Gòn…rồi ra tận miền Trung với Nha Trang, Qui Nhơn…anh em lại một lần tay bắt mặt mừng, ánh mắt bờ môi tràn niềm vui tái ngộ.

Cho dù vẫn còn thiếu một vài đơn vị, vì bận bịu với công tác mục vụ chung của Giáo Phận (Vĩnh Long đang thường huấn, Kontum mở lễ phong chức linh mục, Huế mừng giỗ tổ cùng ngày, Phan Thiết huấn luyện hội đồng mục vụ…) thì cuộc họp mặt năm nay hy vọng cứ vẫn đông vui.

Nói lời cám ơn trong ngày đầu tiên e hơi sớm. Tuy nhiên, vẫn phải dành cho Linh mục Trưởng Ban Điều hành hội cựu sinh viên Xuân Bích, Cựu chủng sinh Trương Kim Hương, một tràng pháo tay thật nồng nhiệt. Phải chăng để có được những ngày hội vui huynh đệ và thường huấn “bỏ túi” nầy, phải chăng linh mục đã trăn trở bao ngày bao đêm trước khi bước chân đến xứ sương mù. Rủi thay, “Người Công chính hay gặp bước gian truân”, nghe đâu xe của ngài “bị bắn tốc độ” trên đường "tây tiến”. Nhưng mọi sự rồi sẽ ổn thôi. Vì “Chúa luôn cứu họ qua cầu”.

Trong buổi chiều gặp gỡ đầu tiên, lòng của mọi anh em cựu sinh viên đã ấm lại thêm nồng khi bóng dáng ‘nhỏ nhẹ, hiền lành, thanh thản” của Giám Mục Chủ tịch HĐGMVN Phaolô Nguyễn Văn Hòa xuất hiện giữa anh em như Người Cha đón đợi con về, như Người Mục tử đang gậy cầm tay chăn dắt đàn chiên. Mọi người có mặt cám ơn Vị Giám Mục, cám ơn ngài thật nhiều về sự ưu ái dành cho anh em cựu sinh viên Xuân Bích.

Buổi tối đầu tiên theo ánh trăng lên dần. Và hình như đâu đó vang vang tiếng gì như “tiếng ngáy!”…

Chương Trình Ngày Hôm Sau (24.11.2004)

Đêm đầu tiên ở Đà Lạt hình như ngủ ngon hơn ở nhà ! Có lẽ đuờng xa mõi mệt và cũng có lẽ vì cái se lạnh cuốn hút của vùng cao thông xanh bạt ngàn. Tuy nhiên, tiếng chuông báo thức đã kéo tất cả đi vào một ngày mới.

Thánh Lễ là của lễ hiến dâng đầu tiên

Hôm nay, 24.11, hiệp cùng toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, Giáo Hội Việt nam mừng kính trọng thể lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Ngay từ giờ Kinh Phụng vụ sáng, anh em đã sống lại tâm tình bất khuất, anh hùng của các Chứng Nhân Tử Đạo Việt Nam, qua những điệp ca là những chứng từ sống động còn để lại như những lời di chúc. Chủ tế trong Thánh Lễ đồng tế hôm nay là Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa.

Trong bài chia sẻ Lời Chúa, Ngài đã nêu bật cái độc đáo, tuyệt vời của “cái chết tử đạo”; cái chết không vì mục đích oán hờn, căm hận; cái chết không phải để gieo rắc hận thù, giết chóc, khủng bố và đau thương…Nhưng là cái chết bình an, thanh thản, yêu thương, khoan dung và tha thứ.

Cái chết để mang lại tình thương và tha thứ, gieo rắc an bình và thánh thiện, mang lại ơn cứu độ cho anh em. Đó là cái chết họa theo cái chêt “trên đồi Can-Vê của Thầy Chí Thánh”. Cho tới giây phút cuối cùng vẫn dâng lên Cha lời cầu xin tha thứ: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”; và trước lúc tắt hơi, vẫn đưa mắt vươn tay dắt díu người trộm vào cõi thiên đàng: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

Và Thánh lễ đã kết thúc sốt sắng trong tâm tình tạ ơn cùng với Đức Maria trong lời kinh Magnificat “Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa í a…”….

Nhóm Thảo Luận Chuyên Đề 

Giờ chia sẻ và thảo luận chuyên đề sáng hôm nay do Linh mục Đồng (Cần Thơ) gợi ý qua các chủ đề: TRUYỀN THỐNG XUÂN BÍCH, GIÁO LÝ HÔN NHÂN. 

Nhắc đến TRUYỀN THỐNG XUÂN BÍCH, phải chăng là “đụng” tới cái căn tính linh mục mang “dáng đứng Xuân Bích”; hay nôm na theo ngôn ngữ của Linh mục Đồng là cái “Chất Xuân Bích”. Đó là cái “chất” được tích lũy hình thành không những do sau bao tháng năm cùng có những phút giây lặng thầm chiêm ngưỡng bức tranh “sơn mài” độc đáo, mà nhất là được cảm nhận, được chắt chiu, được trực diện với những hình hài bằng xương bằng thịt của các Linh mục Giáo sư đáng kính đang yêu và rất mực hòa đồng.

Giám Mục Phaolô Hòa đã “chú giải thêm” về cái chất đó khi ngài nhận định rằng: Nhìn từ bên ngoài, người ta sẽ dễ nhận ra cái độc đáo, cái tuyệt vời của anh em Xuân Bích. Đó chính là tình huynh đề, nghĩa đại đồng và luôn biết “đem quá khứ vào hiện tại, nối dài kỷ niệm để thăng hoa cuộc sống hôm nay”. Trong khi đó Cha Đỗ Xuân Quế lại cẩn trọng lưu ý anh em : điều quan trọng là giữ sao cho cái “chất’ ấy được bền, được thắm, được phát triển.

Và muốn như thế, phải cố gắng từng ngày học hành, đọc sách, gặp gỡ, sống tình huynh đệ và luôn giữ được nét thanh cao của “cái nghèo Tám Mối”…Cha Thứ (Nha Trang) lại muốn vươn xa hơn nữa : Phải luôn có cõi lòng khoan dung và luôn “mở đường” cho những anh em, nếu có lỡ lầm, còn có nẽo quay về…Trong khi đó Linh Mục Ninh lại nhấn mạnh khía cạnh “mục vụ hiệu năng” của Xuân Bích; Linh Mục Bình (BMT) tâm đắc về cái phong cách cởi mở, nhân bản, tự do của nền giáo dục Xuân Bích… 

Riêng về GIÁO LÝ HÔN NHÂN, Linh Mục Đồng muốn nhấn mạnh một số trọng điểm của tài liệu Giáo Lý Hôn Nhân do Toà Giám Mục Cần Thơ phát hành và đã được triển khai trong lần họp mặt năm vừa qua. Đó là các nội dung ý nghĩa về TÌNH YÊU, GIỚI TÍNH VÀ NGÔI VỊ, những ý nghĩa mới nghe qua cứ tưởng rằng trừu tượng, lý thuyết, khó chấp nhận...Nhưng nếu biêt vận dụng một nghệ thuật sư phạm đứng cách sẽ dễ dàng giúp các học viên đón nhận tiếp thu. Linh mục Thứ mách nhỏ các an hem linh mục về bí quyêt “mẹ chữa mắt lé cho con” hay cách giáo dục làm sao cho con cái phát triển quân bình mà vai trò của người mẹ là quan trọng hơn hết.

Còn nhiều ý kiến khác nữa, nhưng thư ký không chuyên nên ghi không kịp.

Đón Tiếp Thầy Cũ Adrien Villard TRIỆU BÁ VI

Giờ cơm trưa hôm nay hình như ngon hơn, và cũng vui hơn. Vì ở giữa anh em, chợt về một gương mặt thân thương của một Vị Tôn Sư mà đã bao năm trời cách biệt: Linh Mục Triệu Bá Vi mới vừa từ trời Tây sang thăm Việt Nam. Mặc dù tuổi đã 87, tay đã chống gậy, nét mặt vẫn hồn nhiên tươi vui thân ái như ngày nào. Cùng lên Đà Lạt với ngài, có Linh mục Trần Thanh Lộc, một Cựu Sinh Viên Xuân Bích đang còn ở Pháp, và Linh mục Huỳnh Công Minh Tổng Đại diện TP.HCM cũng là học trò Xuân Bích.

Hằng năm ngày 21.11 lễ Ðức Mẹ Dâng Mình vào Ðền Thánh, các cựu sinh viên Xuân Bích tụ họp nhau về Ðại Chủng Viện nào đó, như Hà Nội, Vĩnh Long, Huế để gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm mục vụ, gặp gỡ các linh mục giáo cũ và các em chủng sinh để tạ ơn Chúa và nhắc lại lời hứa Linh mục, hầu tiến thêm một bước mới trong đời sống tông đồ.

2/. Nối Tiếp Truyền Thống Giỗ Tổ Xuân Bích Hằng Năm: Lễ Bổn Mạng “Đức Mẹ Dâng Mình Vào Đền Thờ (21.11)”.

Cho đến năm 1975, các giáo phận Huế, Đà nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Kontum, Ban Mê Thuột đều có chủng sinh theo học Đại Chủng Viện Xuân Bích

Như đã nói, từ năm 1994, hội Xuân Bích lại được Đức Tổng Giám Mục Huế giao việc điều hành chủng viện của giáo phận. Hai giáo phận Đà nẵng và Kontum cũng gửi chủng sinh theo học.

Hội Xuân Bích nhận lễ Đức Mẹ dâng mình vào Đền thờ (21.11) làm lễ bổn mạng. Trong ngày lễ này, các cha cựu sinh viên cùng họp mặt nhau để mừng lễ tại mái trường chủng viện, vừa là dịp để gặp lại trường cũ thày xưa, vừa để chia xẻ kinh nghiệm cuộc sống mục vụ với đàn em đi sau. Ngày này trở thành ngày Giỗ Tổ Xuân Bích.

Lễ Giỗ Tổ vừa được tổ chức tại chủng viện Huế, nhưng đồng thời cũng được tổ chức tại Tòa Giám Mục Đà lạt đều đặn từ 15 năm nay, qui tụ những anh em cựu sinh viên Xuân Bích ở miền Nam, do tấm lòng quý hóa của Đức Giám Mục Đà lạt, và sự tận tụy tổ chức của cha Trương kim Hương. 

Về họp mặt Giỗ Tổ, các cha cựu sinh viên không quên tưởng nhớ và cầu nguyện cho các linh mục giáo sư và những anh em đã qua đời, được cụ thể qua nghi thức tưởng niệm đầu thánh lễ. Sau Phụng vụ Lời Chúa, các linh mục lặp lại việc Đức Mẹ đã làm xưa, là hân hoan tiến lên trong lời ca “Quam pulchre graditur” quì trước bàn thờ, lập lại lời tuyên nhận “Chúa là phần gia nghiệp và là phần chén của con”.

Kết thúc thánh lễ, mọi người quây quần trước đài Đức Mẹ ở khuôn viên chủng viện để dâng mình cho Mẹ. Dáng thanh cao thánh thiện của Mẹ đang trìu mến nâng Chúa Giêsu trên đôi vai khiến cho các linh mục cảm thấy vững tâm trên bước đường phụng sự, vì họ đã cùng Mẹ tiến dâng, thì Mẹ sẽ cùng họ sống lý tưởng dâng hiến.

Lễ Giỗ Tổ năm 2007 này, chủng viện hân hạnh đón Linh mục Bề trên Cả hội Xuân Bích Lawrence B. Terrien đến thăm. Ngài cũng hiện diện trong cuộc họp mặt của anh em cựu sinh viên ở Đà Lạt từ ngày 13-15.11.

Cũng trong dịp lễ này, Linh mục GB. Nguyễn văn Đán đã được bổ nhiệm làm Giám Đốc Đại chủng viện Huế, kiêm Đại Diện Giám Tỉnh Xuân Bích Pháp tại Việt Nam.

Đại chủng viện Xuân Bích Huế cũng tạm thời là môi trường hoạt động tông đồ cho sinh viên Huế. Chẳng hạn, Ngày Chúa Nhật 28 tháng 5 năm 2006, mặc dầu đang trong giai đoạn ôn thi Học kỳ cuối năm, nhưng đã có trên 600 Sinh viên Công Giáo thuộc các trường Ðại học, Cao Ðẳng Huế tựu về Ðại Chủng Viện Xuân Bích, toạ lạc tại 30 Kim Long, Huế, bên bờ Sông Hương để tham dự Ngày Bế Giảng Niên Khóa 2005-2006. Chủ đề sống Tin mừng của Ngày gặp gỡ Bế Giảng "Hãy Ði Loan Báo Tin Mừng" (Lc 24, 46-53) được ghi nỗi bật trên bức màn lớn, màu xanh lá cây làm phông cho bục kê Bàn Thờ đặt trước Tiền Ðường Nhà Nguyện. [http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/06news/6news156.htm]

 

Tài Liệu Tham Khảo 

- Nguyễn Quang Anh: Hội Xuân Bích Và Công Cuộc Đào Tạo Linh Mục. Huế, 2000

http://gpnt.net/diendan/showthread.php?t=4809

- Wikipedia, the free encyclopedia: Église Saint-Sulpice, Paris

en.wikipedia.org/wiki/Saint-Sulpice_

- The Society of St. Sulpice. Map of 5408 Roland Ave, Baltimore, MD 21210

www.sulpicians.org/

- U.S. Province of the Society of St. Sulpice Archives www.stmarys.edu/archives/arc_coll_sulpice

- Tân Yên Nguyễn Hùng Oánh: Xuân Bích Vĩnh Long (1964-1970). VietCatholic News (Chúa Nhật 30/12/2007 08:14)

- Nguyễn Vinh Gioang: Nói lại cho rõ: Những điều cần biết đích xác về Hội Linh Mục Xuân Bích. VietCatholic News (Thứ Hai 17/12/2007 22:10)

[Tài Liệu I. Bức thư của linh mục Nguyễn Hữu Long, giáo sư Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế gởi linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang ngày 15.12.2007  

Tài Liệu II. Lễ Giỗ Tổ Xuân Bích

Tài liệu III: Bài cám ơn của cha Tân Giám Đốc Đại Chủng Viện Huế kiêm Tân Đại Diện Giám Tỉnh hội Xuân Bích tại Việt Nam. Lễ Mẹ Dâng Mình - Huế, 21. 11. 2007

Tài liệu IV: BÀI NÓI CHUYỆN CỦA CHA BỀ TRÊN TỔNG QUYỀN VỀ CHA J.J. OLIER, ĐẤNG SÁNG LẬP HỘI XUÂN BÍCH. (tại Đại Chủng Viện Huế, ngày 21.11.2007,  bản dịch của Lm Nguyễn Hữu Đức) http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=50004]

- Nguyễn Vinh Gioan: LM Gioan Baotixita Nguyễn Văn Đán được bổ nhiệm làm Giám Đốc ĐCV Xuân Bích Huế. VietCatholic News (Chúa Nhật 25/11/2007 14:34).

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=49287

- Nguyễn Vinh Gioang: Hình ảnh Lễ Giổ Tổ Xuân Bích tại Huế http://vietcatholic.net/Albums/71124XuanBich25112007/index.htm

- Trương Đình Hiền: Cuộc họp mặt cựu sinh viên Xuân Bích tại tòa Giám Mục Đà Lạt. VietCatholic News (Thứ Hai 29/11/2004 08:23)

- Trương Đình Hiền: Hình ảnh cuộc họp mặt cựu sinh viên Xuân Bích tại tòa Giám Mục Đà Lạt

- Tân Yên Nguyễn Hùng Oánh: Cuộc họp Xuân Bích Vĩnh Long

http://tinhthan.tripod.com/joseph/thanhgiusetuyetdieu.html

www.conggiaovietnam.net/tacgia/ChaHuy/Dao%20Tao%20Thieng%20Lieng/

sachthamkhao.htm - 41k

www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=50508 - 26k

http://www.vietmedia.com/news/?L=grabstory.html&ID=30745&start=750&Cat

=Vietnam

http://www.saigonforsaigon.org/staticpages/index.php?page

=20051101014003719

http://www.gpnt.net/diendan/showthread.php?t=2030

http://tamtusaobien.net/kyuc1.shtml

http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/06news/6news156.htm

http://blog.360.yahoo.com/blog-PS9MEyAgbqcD7BX_MGWxZX7m?p=49

ldcg.de/index.php?option=com_content&task=view&id=157

http://z6.invisionfree.com/thanhduc/index.php?

http://www.thanhlinh.net/thuvientailieu/viewtopic.php?p=646&sid

=8262a25e81d1bedffb0a660db875cf83

http://www.hdgmvietnam.org/demo/Hien-Tinh-Giao-Hoi-VN-Ban-In/Hue/null.aspx

Cha Trần Xuân Long: Từ năm 1950 – 1957 : học tại Đại Chủng Viện  Xuân Bích

Hà Nội – Vĩnh Long – Thị Nghè

http://www.chuacuuthe.org/9-3-07-damtangchaLong-n-h-an.html

Hoài Đức Cao Cung Lên: http://www.mautam.net/forum/viewtopic.php?p

=1857&sid=89b766035eedfddf05f719ee5aab8e34

http://www.tgmtb.net/Ki_yeu_ve_Giao_phan/Tu_lieu/Cac_vi_chu_chan.htm

http://www.giaoxuvnparis.org/htm/congdoanvn/cdtoulouse.htm

Chu Quang Minh: http://tthngdva.net/tieusu.html

Cộng Đoàn Marseille: http://www.saintdefendent.org/Tieu-Su.php

www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id

=139&Itemid=87 - 41k - Cached - Similar pages - Note this

Ngày 26-4-2003, Đức Thánh cha đã chính thức bổ nhiệm Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, giám mục giáo phận Lạng Sơn, làm giám quản tông toà tổng giáo phận Hà Nội  và chấp nhận đơn xin nghỉ hưu của Đức Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng. 

http://www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id

=139&Itemid=87

http://memaria.org/cam_nghiem_nguoi_kito_huu/phong_van_duc_dan_vien_phu_

huynh_quang_sanh_dan_vien_thien_an_hue/

http://tinhthan.tripod.com/cgvn/hdgmvn/gmvn2/dc-tinh_tp.html

http://www.giaoxuvnparis.org/htm/loichua/lathumucvu/tinhyeudk.htm

http://www.tiengnoigiaodan.net/dacbiet/db_gpthb.html

 

Oakland, CA 19/3/2008.4

Holy Week ĐHN ngày 15-22/3/2008


[1] Ngài là một giáo sĩ, sinh tại Paris, Pháp ngày 20/9/1608 và chết ngày 2/4/ 1657. Được thánh François de Sales khuyên nên làm lịnh mục, cậu Olier theo học với các tu sĩ Dòng Tên (1617-25) và thụ phong linh mục năm 1633. Tân linh mục làm linh mục chính Xứ Thánh Xuân Bích ở Paris (1642-1655). Tại đó ngài thực hiện những cuộc canh tân về xã hội và giáo dục và về sau được Thánh Jean-Baptiste de la Salle tiếp tục. Ngài sáng lập Tu Hội Xuân Bích và chủng viện Xuân Bích, gây một ảnh hưởng quan trọng lên Thánh Vincent de Paul.

http://encyclopedia.jrank.org/Cambridge/entries/002/Jean-Jacques-Olier.html

[2] Hồng Ý Pierre de Bérulle sinh ngày 4/2/1575 , mất ngày 2/10/1629

[3] Saint-Sulpice (Thánh Xuân Bích) là một nhà thờ danh tiếng ở Paris nằm về phía Đông của Quảng Trường Saint-Sulpice, trong Khu Luxemburg thuộc Quận VI  Với độ cao 113 thước , chiều rộng 58 thước, nhà thờ này chỉ nhỏ hơn Nhà thờ Đức Bà (Notre Dam) và như thế đây là nhà thờ lớn thứ hai ở Paris. Nhà Thờ đó được dâng kính Đấng Nhân Đức Sulpitius. Vào thập niên 1700, một cột đo giờ được xây dựng ở nhà thờ  

Về lịch sử, ngôi nhà thờ hiện nay là toà kiến trúc thứ hai được dựng nên theo kiểu nhà thờ Roma cổ đại được xây cất lúc đầu ở thế kỷ thứ 13. Những được thực hiện xây dựng thêm qua nhiều thế kỷ cho mãi đến năm 1633. Tòa kiến trúc mới được thiết lập năm 1646 do linh mục chính xứ Jean-Jacques Olier (1608-1657). Ngài đã sáng lập Hội Thánh Xuân Bích, qui tụ các linh mục, thành lập một chủng viện gắn bó với ngôi nhà thờ này

Công trình được tiếp tục trong khoảng 140 năm. Nhà thờ được hầu như hoàn tất năm 1732, nhưng mặt tiền ở phía Tây đã không được bắt đầu trước năm 1776.

Kết quả là một mặt tiền phía Tây gồm hai tầng có ba tầng của các cột đẹp đẽ. Vẻ hài hòa toàn diện của tòa nhà, theo một số người, chỉ được níu lại do hai ngọn tháp không hợp nhau; một tháp được thêm vào theo thiết kế của Jean Francois Chalgrin, chỉ một thời gian ngắn trước Cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, nhưng tháp thứ hai đã không bao giờ được bắt đầu. http://en.wikipedia.org/wiki/Saint-Sulpice_(Paris) 

[4] http://en.wikipedia.org/wiki/Saint-Sulpice_(Paris)

 

[5] Dẫn theo Linh mục Nguyễn Quang Anh: Lịch sử Hội Xuân Bích, tr. 117.

[6] Nghị  Định Về  Đào Tạo Linh Mục [Decree on Priestly Training (October 28, 1965)]

[7] http://www.compagnie-de-saint-sulpice.org/

[8] Thời chủng sinh Hoài Ðức (Lm. H.Ð.), năm 1945, đại chủng viện Xuân Bích tạm đóng cửa, vì quân đội Trung Hoa trưng dụng cơ sở chủng viện để đóng quân, các chủng ...ldcg.de/index.php?option=com_content&task=view&id=157

[9] Đại chủng viện Xuân Bích đóng cửa sau biến cố ngày 19-12-1946, được mở lại vào năm 1948. www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=139&Itemid=87

[10] Trong một cuộc đi tắm biển nhân kỳ nghỉ hè năm 1950 ở Bãi Cháy Vịnh Hạ long, Linh mục bị chết đuối.

[11] Tháng 10 năm 1954, toàn khối Giáo sư và sinh viên của Đại chủng viện Xuân Bích đã di cư vào Nam. Khi thầy trò của Đại chủng viện này đã tập kết tại Vĩnh Long, thì nhận được lời kêu gọi “trở về” của Đức Giám mục Hà Nội là Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê. Nhưng chỉ mình thầy Phanxicô đáp lời kêu gọi của Đức Giám mục, trở về giáo phận vào cuối tháng 10 năm đó. Trở về giáo phận, Thầy vừa đi làm công nhân tại xưởng in Têrêsa, vừa theo các lớp Thần học, cho đến ngày 18-4-1958, tại nhà thờ lớn Hà Nội, Thầy Phanxicô đã lãnh chức Linh mục, do Đức Giám mục Hà Nội chủ phong.

http://www.tiengnoigiaodan.net/dacbiet/db_gpthb.html

[12] Trong”Tôi Phải Sống” của Lm Nguyễn Hữu Lễ: “Trong lúc ngồi xe, thầy Quý chỉ tôi Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, sở thú Sài Gòn, cầu Thị Nghè, đó là 4 nơi tôi biết đầu tiên khi vừa đặt chân tới thủ đô Sài Gòn mà người ta gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông này. Chừng qua tới cầu Sơn bên kia Thị Nghè, xe rẽ trái vào chủng viện Xuân Bích, thầy trò xuống xe. Thầy móc bóp trả tiền và xe chạy, tôi hỏi, thầy cho biết đó là Taxi. Tôi biết Sài Gòn có xe Taxi từ lúc đó” http://www.saigonforsaigon.org/staticpages/index.php?page=20051101014003719

[13] Nhưng cả ba vị về sau ra khỏi tu hội này. Người đầu tiên là LM Nguyễn Bích Đông (Đông Anh). LM này có dậy Kinh Thánh một thời gian ở chính Đại Chủng Viện Xuân Bích ở Thị Nghè, và Đại Chủng Viện Giuse, Địa Phận Sàigòn, trước khi về quàn nhiệm một giáo xứ gốc địa phận Phát Diệm ở Gia Kiệm.

Người thứ hai là linh mục Nguyễn Khắc Xuyên đã xin ra đời bỏ thi hành chức vụ linh mục và lập gia đình với một người phụ nữ có gia đình người anh ruột ở Tân Định Sàigòn. Ông ra đời từ bên Paris và làm nghề giáo viên. Sau năm 1975, khi về hưu ông trở về Việt Nam, nghiên cứu dịch thuật có lần ở Tòa Giám Mục Hà Nội. Sauk hi vơ qua đời, ông về hẳn Việt Nam cư ngụ tại Nha Trang gần một người cháu và thỉnh thoảng vào Sàigòn cộng tác với Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo tại Tp HCM.

Người thứ ba là Linh mục Trần Thái Đỉnh. Ông ra đời từ những ngày tháng năm làm Giám Đốc ở Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế. Việc dại chủng viện từ Vĩnh Long chuyển ra Huế chắc hẳn làm cho ông có nhiều suy nghĩ và khủng hoảng về những tâm tư và cách ứng xử  dường như  “có màu sắc kỳ thị Bắc Nam” trong một số cá nhân trong Giáo Hội có thể từ Vĩnh Long, dù vẫn tiếp tục nhận giảng dậy triết học ở Viện Đại Học Đà Lạt và thường tạm ngụ tại Cư Xá Đắc Lộ ở Nga Tư Bảy Hiền Tân Bình.

Người viết đã từng sống gần gũi và tâm sự  nhiều với Giáo Sư TTĐỉnh ở Gia Định, khi Giáo sư TTĐỉnh còn dậy triết ở Trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn, sau 30/4/1975. Ông lập gia đình với một nhân viên cũ làm việc ở Vũng Tàu với một đơn vị quân đội Úc..Hai ông bà  có ba con trai. Người viết đã làm chủ hôn trong đám cưới của hai người con đầu. Người thứ ba xin đi tu Dòng Thánh Thể. Hiện đang thụ huấn và tập tu tại một tu viện Dòng Thánh Thể ở Phi Luật Tân.

Ông vẫn sinh hoạt bình thường, giữ đạo chân thành và còn giúp đánh đàn tại Nhà Thờ Bình Hòa và dạy kèm Pháp Văn và Giáo lý cùng dịch thuật nhiều tài liệu Công Giáo. Trong các linh mục tu sĩ Dòng Don Bosco có nhiều người là học trò của ông. Nhưng đó cũng là một cách các linh mục Don Bosco giúp giao sư  trong những ngày đơn dộc về tâm hồn và thiếu thốn về vật chất. Sau những ngày thọ bệnh ung thư cổ họng, GS TTĐ đã qua đời năm 2003 tại nhà ở số 144 Nơ Trang Lơn, Bình Thạnh, Tp HCM, sau khi được chăm sóc chữa trị tại bệnh viện Nguyễn Văn Học gần nhà.

[14] Bởi vì nhờ những khái niệm khai tâm, những cắt nghĩa đơn sơ đó [của linh mục Đông Anh], tôi [một cựu chủng sinh] đã được dẫn vào Mầu Nhiệm Giáng Sinh: Mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa đối với loài người. Tôi nhớ một câu nói khá mạnh của linh mục Đông Anh, giáo sư Thánh Kinh Đại Chủng Viện Xuân Bích. Ngài bảo ‘Đó là tình yêu điên khùng mà chỉ mìnhThiên Chúa là người yêu mới hiểu hết được’. Tôi cũng cảm nghiệm được phần nào Mầu Nhiệm Giáng Sinh qua lời Thánh Gioan: «Thiên Chúa là tình yêu… Tình yêu của Thiên Chúa thật rõ ràng ở chỗ, không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước và đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu sinh xuống trần gian cứu chuộc chúng ta»  (1Ga 4,8-9).

http://www.giaoxuvnparis.org/htm/loichua/lathumucvu/tinhyeudk.htm 

[15] Viết theo kinh nghiệm hồi ức của bản thân người viết

[16] Đại Chủng viện Huế trước 1975 nhận chủng sinh của giáo tỉnh miền Trung gồm Huế, Đà nẵng, Qui Nhơn, Kontum, Ban mê Thuột và Nha Trang, giao cho các cha Xuân Bích điều hành, và người ta thường gọi là Đại Chủng Viện Xuân Bích. Nhưng kể từ 1994, khi được hoạt động trở lại, thì là chủng viện của giáo phận Huế, không còn của cả giáo tỉnh nữa, và danh xưng chính thức là ĐẠI CHỦNG VIỆN HUẾ, tuy cũng do các linh mục hội Xuân Bích đảm trách.

Đại chủng viện Kim Long, thường được gọi là chủng viện Xuân Bích, do các tu sĩ dòng Sulpice (phiên âm là Xuân Bích) giảng dạy, chuyên đào tạo các linh mục.

http://www.vietmedia.com/news/?L=grabstory.html&ID=30745&start

=750&Cat=Vietnam

[Nguyễn Hữu Long Nói lại cho rõ: Những điều cần biết đích xác về Hội Linh Mục Xuân Bích VietCatholic News (Thứ Hai 17/12/2007 22:10)]

[17]  Nguyễn Hùng Oánh:VietCatholic News (Chúa Nhật 30/12/2007 08:14).

Với tính cách một giáo sư trung học Hồ Ngọc Cẩn đi coi thi tại Vĩnh Long, vừa là một cựu chủng sinh ĐCV Xuân Bích Thị Nghè (1958-60), năm 1966 (?), người viết được phép tạm ngụ mấy ngày tại một phòng trong tòa nhà dùng làm Đại Chủng Viện Xuân Bích Vĩnh Long. Có lẽ tòa nhà này trước kia là Trung Tâm Nhân Vị dưới chế độ Việt Nam Công Hòa I

[18] Xin bổ túc cho đầy đủ loạt bài nói về đại Chủng Viện Xuân Bích tại Việt Nam ... Cha Pierre Gastine Bùi Đức Tín từ Đại Chủng viện Xuân Bích Kim long (Huế) ...
www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=50508 - 26k -

[19] Các chủng sinh hoàn tất chương trình trung học ở các Chủng Viện trên sẽ tiếp tục chương trình Triết Học và Thần Học tại Đại Chủng Viện Xuân Bích (Saint Sulpice) Huế. Về sau, phân khoa Triết được mở tại Đà Nẵng (1972): ĐCV Hòa Bình, trong khi khoa Thần vẫn tiếp tục ở Huế, đều do các Linh Mục Saint Sulpice phụ trách.

http://tamtusaobien.net/kyuc1.shtml

[20] Khoảng đầu tháng 5/1975 Đức Giám Mục đã cho triệu tập các Thầy Đại Chủng Sinh Nha Trang trước đây được gởi tu học ở các nơi: Đại Chủng Viện Xuân Bích, Huế, Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, Chủng viện Chúa Chiên Lành Nha Trang tại Đà Lạt, Chủng viện Lâm Bích về Tiểu Chủng Viện Sao Biển và nâng Chủng viện này thành Đại Chủng Viện Sao Biển. Cha Giám Đốc lúc bấy giờ là cha Phêrô Nguyễn Văn Nho. Các Cha giáo có Cha Phêrô Phạm Ngọc Phi, Cha Giuse Trần Thanh Phong và Cha Alexis Nguyễn Thạch Ngọc... Chủng sinh gồm 29 thầy lớp Thần học: Điệp, Tính, Liệu, Nhị, Hoàng, Bút, Cần, Đông, Độ, Ngạn, Sơn, Lành, Hiền, Hiến, Tình, Báu, Lượng, Thanh, Chí, Xuân Phong, Cao Phong, Hứa, Ninh... và 4 thầy lớp Triết: Thư, Minh, Long, Vân.

http://www.gpnt.net/diendan/showthread.php?t=2030

[21] Có tài liệu nói ngày 23-4-1994. Đại chủng viện liên giáo phận Huế, Đà Nẵng, Kontum được mở cửa lại và do các linh mục thuộc hội Xuân Bích điều hành.

http://www.hdgmvietnam.org/demo/Hien-Tinh-Giao-Hoi-VN-Ban-In/Hue/null.aspx

[22] Cha GB. Nguyễn văn Đán được Cha Bernard Pitaud, Giám Tỉnh hội Xuân Bích Pháp bổ nhiệm làm Giám Đốc Đại Chủng viện Huế, kiêm Đại Diện Giám Tỉnh (Délégué) chứ không phải là “Giám Tỉnh Hội Dòng Xuân Bích Việt Nam”. Đức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn bình Tĩnh, với tư cách Đại Diện Giám Tỉnh vừa mãn nhiệm, được ủy nhiệm để công bố sự bổ nhiệm này.

[23] Hiện nay (thời điểm ?) số tu sĩ của đan viện Thiên An là 75 người, trong đó có 6 linh mục và 8 thầy đang theo học ở Đại Chủng Viện Xuân Bích, Huế.

http://memaria.org/cam_nghiem_nguoi_kito_huu/

phong_van_duc_dan_vien_phu_huynh_quang_sanh_dan_vien_thien_an_hue/

 

Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm

Tổng Hợp