|
Tu Hội Các Linh Mục XUÂN BÍCH Và Các Đại Chủng Viện
tại Việt Nam
I. Quá Trình Hình Thành Và Tinh Thần
Hội Xuân Bích
Quá Trình Hình Thành và Tố Chức
Hội Các Linh Mục Xuân Bích (Compagnie des Prêtres de Saint-Sulpice)
hay (Society of Saint Sulpice) do Linh Mục Jean-Jacques Olier
(1608-1657)
sáng lập tại Paris vào năm 1642, nhằm đào tạo các linh mục
chính xứ tương lai theo tinh thần Công Ðồng Trente, phục hưng công
cuộc truyền giáo.
Hội Linh Mục Xuân Bích là một hội, theo giáo luật, thuộc qui chế “Các
Hội Đời Sống Tông Đồ” (Sociétés de Vie Apostolique,
Societies of Apostolic Life, Societates Apostolicae Vitae) chứ không
phải là “Các Hội Đời Sống Tận Hiến (Dòng)” (Instituts de Vie
Consacrée, Institutes of Consecrated Life, Institutum Consecratae
Vitae).
Tinh Thần
Các linh mục Xuân Bích vẫn là linh mục giáo phận, nhập tịch vào giáo
phận gốc, nhưng nhận trách nhiệm tại các giáo phận để phục vụ công
tác đào tạo linh mục, chứ không phải là linh mục Dòng, vì không có
lời khấn dòng.
Ở Pháp, Hồng Y Bérulle
và
Linh mục Charles de Condren đã khởi xướng Phong trào "canh tân bậc
linh mục". "Chủng viện" theo tinh thần Linh mục J.J. Olier hình
thành từ năm 1641 tại giáo xứ Saint-Sulpice
Mặt tiền Nhà Thờ Giáo Xứ Thánh Xuân Bích,
có các tháp không hợp nhau
Thánh đường Thánh Xuân Bích nói trên là một công
trình của Christophe Gamard, Louis Le Vau và Daniel Gittard, nhưng
đã được Gilles-Marie Oppenord hoàn thành. Ông là một học viên của
François Mansart, 1714-1745. Mặt tiền được Giovanni Niccolo
Servandoni thiết kế lúc đầu, nhưng Jean Chalgrin và những người khác
đã thay đổi. Các cửa sổ vòm rộng làm cho ánh sáng tự nhiên chiếu đầy
vào nội thất rộng lớn bên trong. Ở mỗi bên cửa ra vào phía trước là
hai vỏ đạn to tướng do Cộng Hòa Venetia tặng François I. Hai vỏ đạn
để trên đế giống như hai hòn đá khối lớn, được Jean-Baptiste Pigalle
chạm khắc.
Nhà thờ có truyền thống lâu dài gốm nhiều nhà chơi
đàn ống tài ba đã có niên đại từ thế kỷ 18. Năm 1862, chiếc đàn ống
hiện nay được Aristide Cavaillé-Coll xây dựng, thêm vào nhà thờ. Đó
là một công trình vĩ đại của Cavaillé-Coll, có nét đặc trưng là 101
phím kêu, và có lẽ đấy là nhạc cụ ấn tượng nhất thuộc thời đại khí
cầm hòa âm lãng mạng của Pháp.
Những trang trí lại cho nội thất ở thế kỷ XIX, sau
các hư haị vì cuộc Cách Mạng gây ra, khi nhà thờ Xuân Bích trở thành
một Đền Chiến Thắng (Temple de Victoire). Đấy là bức bích họa của
Eugène Delacroix, trang trí vách tường nhà thờ cạnh. Bức nổi tiếng
nhất là “Giacóp Đấu Với Thiên Thần” và “Heliodorus Bị Dẫn
Ra Khỏi Đền Thờ”. Jules Massenet sắp đặt luật Manon ở
nhà thờ Xuân Bích thời thượng..
Marquis de Sade và Charles Baudelaire được rửa tội
tại Nhà thờ Thánh Xuân Bích (1740 và 1821, tương ứng), và nhà thờ
cũng là nơi chứng kiến cuộc hôn nhân của Victor Hugo mãi đến Adèle
Foucher (1794)
Từ đó Chủng viện ở khu Nhà Thờ này
được gọi là Chủng Viện
Xuân Bích.
Ðể điều khiển Chủng viện, một nhóm linh
mục cùng chí hướng được qui tụ thành lập: liên kết với nhóm bằng đức
ái huynh đệ và tận hiến đời sống linh mục để phục vụ việc đào tạo
các linh mục tương lai.
"Họ phải được khơi động bởi một đời
sống tâm linh, với tất cả các đặc tính: tinh thần tông đồ, ý thức
cầu nguyện và đời sống nội tâm. Ðược tập trung vào sự kết hợp với
Ngôi Lời Nhập Thể, sự sống thiêng liêng nầy phải được nuôi dưỡng
bằng Kinh Thánh, và phải được đổi mới bằng Thánh Thể và Nguyện gẫm.
Lòng sùng kính Ðức Mẹ và các Tông đồ giữ một địa vị quan trọng"
Ngày nay Hội duy trì các quan hệ đặc biệt với các giáo phận của miền
truyền giáo Ile de France, các giáo phận miền Thượng Normandie
(Rouen – Le Havre), của vùng quê Picardie (vào lúc đầu). Hội còn
tiếp nhận các chủng sinh từ nhiều Giáo Phận Pháp và ngoại quốc. Hội
cũng đón nhận nhiều đại tu sinh của nhiều dòng tu khác nhau đến
chủng viện để được đào tạo về trí thức, với danh nghĩa là sinh viên
ngoại trú
Các chủng sinh sống thành cộng đoàn, Đó là một chủng viện có cuộc
sống anh em, và thực tập làm linh mục. Đó cũng là nơi có nền giáo
dục thống nhất. Các chủng sinh được mời gọi sẵn sàng nhận các trách
vụ khác nhau trong nhà và sống có tinh thần trách nhiệm đào tạo toàn
diện chính mình.
Chủng viện Xuân Bích là một tập thể có tính định chế, theo hai chu
kỳ. Phối hợp theo đối tượng mục tiêu hướng tới, thể hiện trong các
chương trình và các phương tiện của chúng, các chu kỳ đầu tiên và
thứ hai đều có chức năng riêng biệt và tự trị. Mỗi chu kỳ này được
một Hội Đồng do một Bề Trên làm chủ tọa, điều khiển.
Thích hợp với các chiều hướng «Lý Lẽ » của Pháp được các giám mục
bầu tuyển tại Lourdes ngày 7/11/1997 và được Thánh Bộ Giáo Dục Công
Giáo chuẩn nhận ngày 25/2/1998, chủng viện hướng dẫn trực diện công
cuộc đào tạo trí thức, mục vụ và tâm linh. Như thế Chủng viện nhắm,
theo các xu hướng của nghị định « Optatam
Totius”
số 4, đào tạo các mục tử tận hiến cho sứ vụ của Giáo Hội, được Thần
Khí Của Đức Kitô linh hoạt trong thừa tác vụ, khi đặt bản thân đặt
cơ sở trong niềm tin của Giáo Hội và được chuẩn bị về trí thức và
ứng xử nhân bản để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay.
II. Mở Rộng Địa Bàn Hoạt Động
Tu Hội Xuân Bích được nhiều địa phận mời
đến để hướng dẫn công cuộc đào tạo
cho các linh mục ở Pháp. Ðến năm 1651 sang Montréal (Canada).
Năm 1791, Giám Mục Caroll, Giám Mục tiên khởi Hoa Kỳ mời sang Mỹ. Số
các Chủng viện lên dần dần từ 15 chủng viện ở Pháp, và số thành viên
cứ lớn lên từ 70 (1704) đến 140 (1789)... Vào suốt thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20, Hội đã phát triển tại
Pháp, Canada và Hoa Kỳ.
Một giai đoạn lịch sử mới của Hội đã được
đánh dấu bằng việc trở lại phong trào truyền giáo, khi một số linh
mục lên đường đi ra nước ngoài: hai hội viên người Pháp (1929)đi
Việt Nam, hai người Canada đến Nhật Bản (1933) Trung Quốc (1934).
Năm 1950, Hội đảm nhiệm thêm nhiều chủng viện tại Châu Mỹ Latinh
và Châu Phi.
Hội Xuân Bích Đến Việt Nam: Chủng Viện
Liễu Giai Ở Hà Nội
Năm 1929, hai Linh mục Léon Paliard
và Paul Uzureau đến Hà Nội, rồi cha Jean Raison năm
1930. Trước mắt các Linh mục xúc tiến ngay phong Trào Thiếu Nhi
Thánh Thể tại Hà Nội và Phát Diệm. Phong trào này phát triển mau
chong tại Hà Nội, Phát Diệm và Bùi Chu. Ðịa phận Hà Nội đã mời các
Linh mục Xuân Bích đến thành lập và điều khiển chủng viện Liễu Giai,
tiếp nhận các chủng sinh của các địa phận Hà Nội và Thanh Hóa.
Ngày tựu trường đầu tiên (01.09.1933) có
31 chủng sinh, nhưng thuộc nhiều địa phận khác nhau, như Phát Diệm,
Hưng Hóa, Bùi Chu, và Nam Vang cũng gửi chủng sinh đến, ngoài các
chủng sinh Hà Nội. Ðến năm 1945, tổng số chủng sinh đã lên đến 145.
Sau thời gian tạm gián đoạn năm 1945 trong
biến cố Khởi Nghĩa tháng 8 và 9 năm 1945
và từ ngày 19/12/1946
trong chiến tranh Ðông Dương, vì các linh mục Hội Xuân Bích người
Pháp bị lực lượng kháng chiến Việt Minh bắt giam một thời gian ở
Việt Bắc. Khi các linh mục kia trở về, thi chủng viện chỉ được mở
lại một thời gian vào năm 1948 tại cơ sở trước kia của Tràng Tập của
Địa Phận Hà Nội trong khu nhà đất Tòa Giám Mục. Chủng viện lại được
tăng cường thêm với nhiều Linh mục mới đến, như các Linh mục
Antoine Carret, Daniel Bouis, Yves
Hémon (),
Pierre Gastine và Raymond Deville ...
Sau Hiệp định Genève (1954),
một ban giáo sư mới được hình thành
gồm có các Linh mục Emile Stutz (Nguyễn Văn Túc, từ Trung Quốc
sang), Courtois (Nguyễn Văn Lịch), Adrien Villard (Triệu Bá Vi),
Vincent Corpet (Khổng Tiến Xuân), Michel Barnouin (Cao Như Sơn) và
François Bouyer (Nguyễn Đắc Bình) đến Vĩnh Long (1954-1956) và Thị
Nghè
- Saigòn (1956-1962). Còn thêm ba Linh mục đầu tiên người Việt Nam
gia nhập Hội Xuân Bích
là Trần Thái Ðỉnh (gốc Bùi Chu), Nguyễn Khắc Xuyên (gốc Hà Nội) và
Nguyễn Bích Đông
(Ðông Anh, gốc Phát Diệm) đến tăng cường thêm.
Đấy là toàn thể Ban Giảng Huấn cơ hữu của
chủng viện, chưa kể một số linh mục tu sĩ hay tín hữu bình thường
thỉnh giảng như Lm Nguyễn Huy Lịch, OP và Giáo Sư Nguyễn Huy Bảo, …
Một kinh nghiệm giáo dục nhân bản cụ
thể (1958-60)
Ở Thị Nghè, Thạnh Mỹ Tây, Gia Định chủng
viện tạm trú trên thửa đất viện dưỡng lão do Dòng Thánh Phaolô thành
Chartres cho mượn. Trong hai niên khóa 1958-59 và 1959-60, chương
trình sinh hoạt chủng viện hằng ngày hằng tuần và tháng diễn ra như
sau:
Ban sáng thức dậy, mơi người cũng như các
chủng sinh thức dậy, đi rửa mặt, vệ sinh rồi lên nhà nguyện đọc kinh
sáng, tham dự thành lễ nguyện ngắm rồi dùng ăn sáng. Mỗi người chuẩn
bị dọn dẹp vệ sinh nhà cửa trong khu phòng ngũ, rồi học bài riêng
nếu không có lớp chung. Những ai có lớp chung đều phải tham dự lớp
học chung.
Hằng tuần vào ngày thứ năm, các chủng sinh
thường đi dạo từng toán đến thăm viếng các địa điểm khác nhau như
các xứ đạo, các chùa chiền như nhà xứ dành riêng cho người Hoa tại
Mũi Tàu Phú Lâm hay ngôi Chùa Phận Giáo ở Phú Thọ Hòa Phú Lâm
Các giáo sư thương soạn bài riêng chuẩn bị
giáo trình cho các chủng sinh. Nhưng có một số linh mục giáo sư là
người nước ngoài, thường là người Pháp vừa giảng dậy các chủng sinh
vừa học tiếng Việt. Thực tế trong hai năm 1959 và 1960, có hai linh
mục giáo sư là Vincent Corpet và François Bouyer vì muốn thông thạo
tiếng Việt, kiện toàn nhiệm vụ giảng dậy, nên thường tìm mấy chủng
sinh tương đối tỏ ra có năng lực hơn các chủng sinh khác, nhằm cộng
tác soạn thảo giáo trình cho chủng sinh với các linh mục này.
Trong Ban Triết, Linh mục Corpet phụ trách
giảng dậy về môn triết sử và linh mục Bouyer, về xã hội học tôn
giáo. Hai vị linh mục này cộng tác ít nhất với hai chủng sinh xuất
thân từ chủng viện Piô XII thuộc gốc giáo phận Hà Nội là Nguyễn Ngọc
Trương và Đỗ Hữu Nghiêm. Trước nữa dường như có một số chủng sinh
khác, như Mai Đức Vinh ở lớp trên.
Tiến trình làm việc phối hợp diễn ra nhịp
nhàng, có lợi cho ít nhất ba phía:
Bản thân linh mục giáo sư
hiểu rõ các thuật ngữ Pháp Việt về triết học và xã hội học một cách
đầy đủ hơn. Chính các chủng sinh cộng tác nhân cơ hội đó vừa
thành thạo tiếng Pháp và các thuật ngữ chuyên môn và tư tưởng mà
giáo trình muốn truyền đạt. Nhờ đó, tập thể các chủng sinh có
thể dễ dàng hấp thụ các bài giảng của linh mục giáo sư
Theo kinh nghiệm làm việc của chủng sinh
Đỗ Hữu Nghiêm cộng tác với linh mục giáo sư Corpet, thì thường trong
quá trình biên soạn giáo trình chung cho các chủng sinh ban Triết
Học, chính linh mục giáo sư ấn định chương trình giảng dậy về triết
sử. Trong hai năm cộng tác với Linh mục giáo sư soạn thảo giáo trình
về triết học, chủng sinh Đỗ Hữu Nghiêm cùng làm việc trên một giáo
trình sơ thảo mà linh mục giáo sư nháp sơ lược bằng tiếng Pháp. Tài
liệu giáo khoa linh mục V. Corpet dùng là cuốn La Pensée de Karl
Marx của tác giả Jean Calvez, Dòng Tên do nhà Gallimard ỏ Paris xuất
bản, để biên soạn giáo trình “Cuộc Đời và Tư Tưởng của Karl
Marx” và nhiều giáo trình khác về Feuerbach, Engels,
Kierkegard, Gabriel Marcel
Cứ theo giáo trình với nhiều chi tiết và
thuật ngữ đã soạn trước bằng tiếng Pháp, hai người - giáo sư và
chủng sinh cộng tác - cùng cố thảo luận để hiểu biết và diễn dịch
chính xác tư tưởng Linh mục giáo sư muốn nói. Khi hai người cộng tác
cùng đồng ý về thuật ngữ vá cách diễn dịch thích hợp bằng tiếng Việt
theo cách nói có thể hiểu được cho giáo trình giảng dậy.
Bằng cách đó, trong thực tế, chủng sinh đã
cùng dịch thuật, thảo luận và học thuộc kỹ lưỡng giáo trình. Vì thế
thường chủng sinh cộng tác được miễn theo học chung với lớp học của
mình. Nhưng đôi khi cũng có ích lợi nếu chủng sinh kia tham dự lớp
học chung phản ảnh lại những bàn luận giữa giáo sư và chủng sinh và
cách hiểu của chủng sinh về cách diễn tả đó như thế nào để làm rõ
thêm cho các chủng sinh khác.
Ngoài lớp học, hằng ngày cứ hết lớp là
chủng sinh lên nhà nguyện đọc kinh trưa, rồi xuống ăn cơm trưa. Sau
giờ trưa mọi người đi bách bộ một chốc rồi nghỉ trưa khoảng một
tiếng.
Mọi người trở lại lớp học buổi chiều hay
học riêng. Trước khi đến tham dự buổi đọc kinh tối, mọi người đến
phòng hội chung để nghe linh mục Giám Đốc chủ trì chương trình huấn
dụ - allocution - liên quan đến tác phong và kỷ luật đời tu, cách
ứng xử, lề lối sống đúng tư cách một người đạo đức có lương tâm theo
ý thức đời tu Công giáo và tất cả những kinh nghiệm cụ thể xảy ra
trong cuộc sống hằng ngày.
Linh mục Bề Trên Gastine thường diễn tả
rất tỉ mỉ cho chủng sinh, như người viết chứng kiến và học tập được
những chỉ dẫn sống động:
Một anh tài xế lái xe riêng của ngài, có
quá động xe và đông người, nhưng anh muốn chạy nhanh, ngài can gián
bằng cách nói:
“Anh cứ đi chậm chạp vừa phải, đừng đi
vội vườt xe khác. Nếu mình đi dược trước, thì người khác phải trễ,
và thế là mất bác ái với người khác. Lái xe cẩn thận và đúng mức
cũng là bác ái với người khác!”
Một lần khác, linh mục trao đổi với người
viết về vấn đề thư tín. Ngài nói:
“Khi có ai viết thư cho mình thì mình
hãy cố gắng viết ngay trả lời tất cả mọi người một cách tận tình.
Trả lời kịp thời yêu cầu của người khác là một cách sống lịch thiệp,
mà lịch thiệp là hương hoa của đức bác ái theo tinh thần Kitô.”
Sau bữa ăn tối là cuộc bách bộ ban tối ở
sân chủng viện. Mỗi người được khuyến khích là mỗi lần đi bách bộ,
các chủng sinh tìm chọn một bạn chủng sinh khác, càng khác địa
phương, tuổi tác, lớp học và giáo phận càng tốt. Nhờ đó mỗi người
vừa có dịp quen biết nhau cụ thể, vừa cọ xát tính tình, chia sẻ tình
cảm, kinh nghiệm hiểu biết cuộc sống nhân bản hơn về tất cả những gì
màhai hay ba người muốn tâm sự với nhau.
Chính nhờ những giờ phút này mà những anh
em chủng sinh Xuân Bích từ lớp trên xuống lớp dưới đều có nhiều cơ
hội quen biết nhau và giúp đỡ nhau trong rèn luyện tính tình nhân
cách và học vấn, kinh nghiệm sống và ứng xử trong mọi tình huống…
Hằng tuần, trong hàng ngũ chủng sinh, linh
mục quản lý thường kêu gọi anh em nào xung phong chấp nhận hy sinh
thời gian, sức lực đi xúc trấu cho nhà bếp về đun cho chủng viện,
dưới xự hướng dẫn của ngài, tại những chành gạo ở Chợ Lớn hay Chọ
Cầu vùng Quang Trung Hóc Môn. Tại những nơi đó, các chủ chành gạo
thường cho không những ai có thời giờ đến xúc trấu đi!
Đây là một cơ hội tập luyện tính hy sinh
của một số ngưới. Nhưng đã có những đàm tiếu tiêu cực của một vài an
hem không chấp nhận đi làm như thế.
Hằng tháng, chủng viện cũa tổ chức những
buối tính tâm hay những chuyến về thăm gia đình trong các dịp lễ
quanh năm hay ngày kỷ niệm đặc biệt của chủng viện
Cuộc huấn luyện đào tạo trong môi trường
chủng viện như thế sẽ dễ dàng giúp cho công cuộc tông đồ mục vụ sau
này ở tất cả các môi trường làm việc của các linh mục trong các cơ
quan giáo xứ, đoàn thể của giáo phận trong giáo hội
III. Chủng Viện Huế Kế Thừa Chủng Viện
Liễu Giai Hà Nội
Năm 1962, do lời mời của Tổng Giám Mục Ngô
Ðình Thục, quản trị giáo phận Huế, Chủng viện Liễu Giai đã chính
thức được chuyển ra bố trí tại Kim Long, bên cạnh Hoàng thành Ðại
Nội Huế trên danh nghĩa là "Chủng viện Huế",
để đặc trách việc đào tạo các chủng
sinh thuộc Giáo tỉnh Huế gồm nhiều địa phận khác nhau: Huế, Ðà Nẵng,
Kontum, Qui Nhơn, Nha Trang, Ban Mê Thuột,
có thể nói đó là Chủng viện Miền chung cho nhiều giáo phận.
Số chủng sinh ngày càng gia tăng, từ con
số 129 (năm 1962) đến con số 150 (năm 1972). Số các Linh mục giáo sư
cũng tăng dần lên: B. Nguyễn Sơn Lâm và P. Nguyễn Bình Tĩnh
(1964), Trịnh Thiên Thu (1967),
Ant. Trần Minh Hiển, Bùi Châu Thi, Jos.
Nguyễn Chính Duyên, Dom. Trần Thái Hiệp, Bart. Nguyễn Quang Anh, JB.
Trần Ngọc Quỳnh và Mai Ðức Vinh (1969), Hồng Kim Linh (1972).
Năm 1964, cũng từ Huế theo lời mời của
Giám Mục Nguyễn Văn Thiện, quản trị địa phận Vĩnh Long, đồng ý với
Giám Mục Mỹ Tho Trần Văn Thiện, Linh mục P. Gastine với ba Linh mục
Fr. Bouyer, B. Nguyễn Sơn Lâm và B. Nguyễn Quang Anh (mới chịu chức)
trở về lại Vĩnh Long để lập thêm một chủng viện mới trên cơ sở
trường huấn luyện "Nhân vị cũ". Hai chủng viện Huế và Vĩnh Long hoạt
động đồng hành với nhau cho đến mùa Xuân 1975.
Đại Chủng Viện Xuân Bích tại Vĩnh Long (1964-1970)
Linh mục Pierre Gastine Bùi Đức Tín từ Đại Chủng viện Xuân Bích Kim
long (Huế) vào Vĩnh long tái tục thiết lập Đại Chủng viện Xuân Bích
Vĩnh long.
Niên khóa đầu tiên năm 1964-1965, gồm có: Lớp Dự bị cho các chủng
sinh địa phận Vĩnh long, Cần thơ và Mỹ tho; lớp Thần học ba và bốn
cho các chủng sinh từ Huế vào.
Mãn khóa Thần bốn, một số chủng sinh chịu chức linh mục ở Vĩnh long
(Mai Đức Vinh, hiện đang là Đức Ông ở Paris, các chủng sinh khác như
Tri, Phúc, Thanh, Huân v.v), một số khác thụ phong linh mục ở Vương
Cung Thánh đường Sài Gòn (Hoàng Thái Ân, Trương Trọng Tài, Nguyễn
Thanh Hoan (nay là Giám Mục Phan thiết) v.v...
Tiếp đến niên khóa năm 1965-1966 gồm: lớp Dự bị; lớp Triết một. Có
các chủng sinh Duy, Năng, Sự…Lớp Thần ba học xong năm trước ở Vĩnh
long nay trở lại Huế)
Chu kỳ một khóa học
Tính ra một chu kỳ khóa học kéo dài trọn vẹn tám năm: Một năm Dự
bị, Hai năm Triết học, Một năm đi thử, Bốn năm Thần học.
Thường một tháng đầu mùa trong kỳ nghỉ hè mỗi năm học, các chủng
sinh toàn trường được chia làm nhiều nhóm, mỗi nhóm gồm hai hay ba
chủng sinh đi tới các họ đạo trong ba địa phận truyền giáo (thực
tập). Có một Linh mục giáo sư, kể cả Linh Mục Bề trên đi theo hướng
dẫn ba hoặc bốn nhóm.
Nhờ vậy mà chủng sinh Nguyễn Hùng Oánh thuộc địa phận Saigon xuống
học biết đựợc Bình thủy, Đại ngãi, Kế sách, Cù lao Dung v.v…ở địa
phận Cần Thơ.
ĐCV Xuân Bích Vĩnh long tái lập sau ĐCV Xuân Bích Huế nhiều năm,
nhưng ĐCV Xuân Bích Vĩnh long có vinh dự được Linh mục Bề trên
Gastine, đang làm Giám Đốc ĐCV Xuân Bich Huế, ở Kim Long, đích thân
xuống tài tục thành lập và làm Giám đốc.
Vài nét sinh hoạt trong chủng viện
Giám mục Antôn Nguyễn văn Thiện, địa phận Vĩnh long và Giám
mục Giuse Trần Văn Thiện, đia phận Mỹ tho, thường đến Đại
Chủng viện Xuân Bich Vĩnh long. Có lần vào dịp Giáng Sinh,chủng sinh
Nguyễn Hùng Oánh đang ở trong phòng Linh mục Bề trên, thì Giám Mục
Antôn xuất hiện, vào phòng vui vẻ bắt tay Linh mục Bề trên. Ngài Bề
trên vừa bắt tay vừa quỳ hôn nhẫn và nói:
“Đức Cha đến thăm con”.
Câu chuyện giữa hai ngài thật hồn nhiên, thân mật…
Giám Mục Giuse Mỹ tho, nói tiếng Pháp thông thạo như Tây, tới cho
các chủng sinh sách “SỐNG”, cho biết ngài đầu tư cho chương trình
đào tạo từ hai mươi năm, ba mươi năm. Linh mục Bề trên tiết lộ:
“Nói chuyện với ngài, có khi quên ngài là người Việt nam”.
Linh mục Bề trên Gastine lên Saigòn, thỉnh thoảng đánh Domino với
Linh mục Bề trên Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Đại Chủng viện
Saigon. Khi Linh mục Bề trên Mầu làm Giám mục, Linh mục Bề trên
Gastine lên mừng, nói đùa:
“Bây giờ Cha Bề trên làm Giám mục rồi, không đánh Domino với con
nữa”.
Giám Mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ chấp nhận cho Linh mục
Nguyễn Trọng Quý, tiến sỹ Thần học ở Đức mới về sang dạy Thần
học cho ĐCV Xuân Bích Vĩnh long.
Có lần Giám Mục Nguyễn Khắc Ngữ sang thăm ĐCV Xuân Bích Vĩnh long,
các chủng sinh lớp lớn nhất, vây quanh ngài nhanh miệng nói với vẻ
đường như nịnh nọt:
“Cám ơn Đức Cha đã cho Cha giáo Quý sang dạy cho chúng con... Cha
Quý hiền lắm thưa Đức Cha… Cha Quý…”.
Giám mục trả lời:
“Thôi, thôi, tôi biết rồi các thầy ăn hiếp Cha Quý “.
Ai nấy đều cười thoải mái như nắc nẻ ! Đúng là nhất quỷ, nhì ma, thứ
ba….
Linh mục Giáo sư Quý có cái đặc biệt “tài” hỏi thăm trong mọi tình
huống. Chào ngài, ngài nở nụ cười rồi hỏi:
Đi dạo về? Đi đâu về?
Cả khi đi tắm ở bên dãy nhà cũ đi về nhà mới, ngài cũng vui vẻ trả
lời câu chào:
‘Thầy tắm về đó, sao không lau khô người đi, để ướt dễ cảm …”
Năm 1967, vào dịp Tết Nguyên đán Đinh Mùi, Giám mục Brunon sang
thăm Xuân Bích, ngài tới Vĩnh long trước. Trong bữa cơm “tết
trươc Tết”, Giám Mục Antôn ngồi bàn đối diện với Đức cha Brunon,
ngài nói (Cha Bề trên Gastine dịch):
“Đức Cha ăn Tết bên Pháp vừa rồi, sang đây không được ăn Tết nữa
đâu nhé”.
Cả phòng cơm cười thích thú, nhất là mọi người òa lên cười khi nghe
Linh mục Bề trên dịch ra tiếng Pháp.
Năm 1970, Linh mục Faynet, Bề trên Xuân Bích sang thăm. Linh
Mục Villard vội mua tác phẩm “L’Église” của Ngài mới xuất bản để
trong thư viện trước khi Cha Ngài sang. Nguyễn Hùng Oánh đến phiên
phải giúp lễ, tráng chén, thấy Bề trên cứ đứng như “trời trồng” giữa
bàn thờ, buộc chủng sinh đang giúp lễ phải vội ứng khẩu:
“Mon Supérieur, à votre place”.
May mắn là ngài vui vẻ trở lại ghế.
Cũng năm nầy, Bề trên Gastine xin từ nhiệm chức Bề trên và
Linh mục Chính Tự vừa là Tổng Đại diện Vĩnh long, vừa là Giám đốc
Tiểu Chủng viện Vĩnh long sang làm Giám đốc Đại Chủng viện (không
còn Đại Chủng viện Xuân Bích nữa), nhưng Ban Giáo Sư vẫn giữ nguyên.
Một số linh mục thắc mắc về Đại Chủng viện Vĩnh long, Linh mục
Nguyễn Sơn Lâm, Giám đốc Đại Chủng viện Xuân Bích Huế trong khóa các
linh mục tu nghiệp ở Nha trang, trả lời:
“Xuân Bích đã hoàn thành nhiệm vụ ở Vĩnh long”.
Bề trên Gastine nhận một giáo xứ ở miền thôn nước tỉnh Vĩnh long,
tránh tới Chủng viện. Ai trong các cựu chủng sinh đến thăm ngài, cả
hai bên đầu giữ ý, không bao giờ nói tới công việc ở Chủng viện.
Một linh mục đồng hương với Nguyễn Hùng Oánh, làm giáo sư Tiểu Chủng
viện Vĩnh long, phàn nàn các chủng sinh có thái độ “chống đối” Linh
mục Bề trên mới. Nhưng theo cảm nhận của Nguyễn Hùng Oánh, chắc dị
ứng thì có, nhưng chống đói thì không. Các chủng sinh năm cuối cùng
thấy cần phải “thích ứng” (adaptation) với điều kiện mới, nhưng
không thể không có chút tiếc nuối… Họ thực sự đã giúp Bề trên Tự
bằng cách trình lên ngài các ý kiến và vâng phục lời ngài dạy. Một
vài chủng sinh ở lớp khác “chuyển đường tu” trước khi bỏ ra khỏi
chủng viện, cũng có vài lời nói nặng….
Kết quả là Bề trên mới gặt hái kết quả của người cũ đã gieo, khi
Khâm sứ Henri Le Maitre về nhà thờ Chính tòa Vĩnh long truyền chức
linh mục cho các chủng sinh lớp cuối ngày 28-4-1972. Và lớp các tân
linh mục này trở về tham dự lễ Kính Tổ Xuân Bích (21-11-1973) tại
Đại Chủng viện Vĩnh long, rất vui vẻ. Bề trên mới dường như có tài
duy trì sinh hoạt của Xuân Bích và ngài đã thành công.
Nhân lúc Linh mục Adrien Villard Triệu Bá Vi sang thăm Việt nam lần
đầu tiên, linh mục Nguyễn Hùng Oánh lên gặp ngài ở toà nhà khách
thuộc giáo xứ Phú hạnh, Phú Nhuận (Tp HCM). Ngài nói:
“Cha Gastine rất muốn sang, nhưng thời gian đó ngài sợ liên lụy
tới các cha”.
Linh mục Nguyễn Hùng Oánh nói chuyện với ngài vì trước đã giúp ngài
đi mua coupon UNESCO, để mua sách bên Pháp cho các chủng sinh, và đề
nghị với một số linh mục hiện diện:
“Mỗi cha học Xuân Bích góp 100 hoặc 50 USD cho quý cha giáo mỗi
nam sang thăm học trò”.
Ngài lắc đầu và hình như các linh mục có mặt cũng đồng tình với
ngài.
Nhóm linh mục Xuân Bích lớp đầu tiên 1972 thỉnh thoảng có dịp gặp
nhau. Họ gặp nhau hai lần ở Tiểu Chủng viện Saigon, một lần tại giáo
xứ Bình thuận Quận 8, một lần ở giáo xứ Lương hòa mừng 10 năm Linh
mục, một lần ở giáo xứ Tân định, ở Mỹ tho dự đám tang của Lm Nguyễn
Hoàng Đệ cùng lớp; ở Đại Chủng viện Cái Răng dự đám tang của Lm.
Ngọc tháng mười năm 2007.
Thập niên cuối thế kỷ 20 và kéo dài dài… do sáng kiến của các Linh
mục và riêng Linh mục Trương Kim Hương, làm thủ trưởng tổ chức họp
mừng Lễ Kính Tổ (lễ Đức Mẹ Dâng Mình trong Đền Thờ, ngày 21 tháng 11
hàng năm)…. Chủng sinh Nguyễn Hùng Oanh đã từng học ở Viện Đại học
Đà lạt, thích cái lạnh ở xứ sương mù, nhưng bây giờ cơ thể không cho
phép (sợ lạnh), đành tiếc rẻ vậy.
Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế trước
30/4/1975
Năm 1966, Ðại chủng viện Huế có một bề
trên mới là Linh mục B. Nguyễn Sơn Lâm để tiếp tục công việc giáo
dục. Chủng viện phát triển tốt đẹp lắm, số chủng sinh tăng thêm
nhiều quá, nên năm 1973 phải mở thêm một phân khoa Triết tại Ðà
Nẵng, tức là Ðại Chủng Viện Hòa Bình
với các Linh mục Phạm Năng Tĩnh,
Trịnh Thiên Thu, FX. Nguyễn Tiến Cát, P. Nguyễn Lân Mẫn, JB. Nguyễn
Văn Ðán... Niên khóa 1974-1975, Ðại Chủng viện Hòa Bình có đến
120 chủng sinh. Ðầu năm 1975, Linh mục B. Nguyễn Sơn Lâm được chọn
làm Giám Mục Ðàlạt và Linh mục J. Nguyễn Chính Duyên lên thay thế.
Biến cố 75 bắt buộc Chủng viện ngưng hoạt
động: các Linh mục Pháp trở về lại xứ sở, các Linh mục Việt Nam dần
dần đi làm mục vụ trong các địa phận. Mấy Linh mục lưu lại ở Ðà Nẵng
cũng cố gắng thích nghi Chủng viện tại Phú Thượng với hoàn cảnh xã
hội mới cho đến năm 1982.
4. Chủng Viện Huế Được Mở Lại
Mùa Xuân 1994, Giám Mục Têphanô Nguyễn Như
Thể được đặt làm Giám Quản Tông Tòa Tổng Giáo Phận Huế. Công việc
đầu tiên là chính thức mời các Linh mục Xuân Bích trở lại Huế làm
việc. Chủng viện mở cửa vào ngày 22. 11. 1994
đón nhận 40 chủng sinh khóa I của
ba địa phận Huế, Ðà Nẵng và Kontum. Linh mục P. Nguyễn Bình Tĩnh làm
Giám đốc.
Ban giáo sư mới gồm có các Linh mục B.
Nguyễn Quang Anh, FX. Nguyễn Tiến Cát, P. Nguyễn Lân Mẫn, JB. Trần
Ngọc Quỳnh. Một năm sau, Linh mục JB. Nguyễn Văn Ðán
từ Ðà Nẵng ra tăng cường.
Tiếp đến, các Linh mục Ant. Trần Minh
Hiển, D. Trần Thái Hiệp, J. Trịnh Văn Thậm hợp lực thêm, rồi từ Pháp
Linh mục L. Nguyễn Văn Bính về năm 1996 và cha Micae-Phaolô Trần
Minh Huy năm 1999. Ðến nay (năm 2000), với ba khóa (94-96, 96-98,
98-2000), số chủng sinh được 92 và 15 tu sinh của hai Dòng Thiên An,
Thánh Tâm.
5. Một Thành Quả Thu Hoặch Đầy Khích Lệ
... Hướng Về Tương Lai
Số các linh mục cựu sinh viên Xuân Bích
rải rác từ Bắc chí Nam, từ năm 1933 đến 2000, khá đông. Tờ Liên Lạc
"Giỗ Tổ Xuân Bích 1993" ghi lại được 383 linh mục từ
sông Gianh trở vào. Số linh mục cựu sinh viên Xuân Bích ở phía Bắc
không kiểm kê được.
Nhưng hiện có các nhân vật tiêu biểu như:
Hồng Y Giuse-Phaolô Phạm Ðình Tụng,
Giám Mục Phụ Tá Giuse Nguyễn Ðắc Trọng,
Linh mục Đại Diện địa phận Trần Văn Tông
Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Oánh, Giám học
Ðại Chủng viện Hà Nội,
Giám Mục FX. Nguyễn Văn Sang – Giáo phận
Thái Bình,
Giám Mục Bat. Nguyễn Sơn Lâm – Giáo Phận
Thanh Hóa,
Linh mục Nguyễn Hân Quynh - Tổng Ðại Diện
Ðịa phận Hải Phòng,
Linh mục JB. Lưu Văn Khuất - Tổng Ðại Diện
Ðịa phận Thanh Hóa, ...
Có thể nghiên cứu thêm tài liệu hồ sơ
trong chủng viện còn lưu trữ để thiết lập danh sách các th ế
h ệ chủng sinh được đào tạo và
tốt nghiệp Đại Chủng Viện Xuân Bích ở Hà
Nội (1933-1954), Vĩnh Long (1954-1975), Huế (1962-1975) và Đà Nẵng
(từ 1994 đến nay), thuộc các giáo phận trong toàn quốc.
6. Một Số Ngày Giỗ Tổ Các Cựu Chủng Sinh Xuân Bích
1/. Cuộc Họp Mặt Nhân Ngày 23 – 25/11/2004 Tại Toà Giám Mục Đà
Lạt.
Điểm Hẹn: Tòa Giám Mục Đà Lạt, nhân Lễ Đức Mẹ Dâng Mình
Theo nhật ký ghi nhanh của một cựu chủng sinh, thì ngày 23.11.2004,
“Đến hẹn lại lên”. Đây không phải là một sáo ngữ áp dụng tùy
tiện cho những trường hợp, những biến cố lặp đi lặp lại trong một
không gian hay thời gian nào đó.
Nhưng đối với các anh em Giám Mục, linh mục cựu sinh viên Xuân Bích,
thì “đến hẹn lại lên” lại là một “tiết” định kỳ vừa trùng hợp với
cái “hẹn” của thời gian, cái hẹn của thời điểm “Đức Mẹ Dâng Mình”;
vừa đúng với cái “lên” của không gian, lên miền “Đà Lạt trăng mờ”,
lên tòa biệt thự mang tên “Tòa Giám Mục Đà Lạt” cổ kính, thơ
mộng bên bờ hồ Xuân Huơng đang chớm lạnh vào đông.
Chảo Mừng Cộng Đoàn
Trước hết, mọi người chào mừng Giám mục Phêrô, Vị Chủ Chăn của vùng
Cao Nguyên Langbiang, Vị Mục Tử của một cộng đoàn Giáo Phận đa sắc
tộc, của Thành Phố du lịch đẹp nhất Việt nam. Xin kính chào ngài và
đồng thời kính xin ngài một lần nữa cho phép các cựu chủng sinh Xuân
Bích có được những ngày quây quần với nhau bên cạnh Vị Giám Mục
trong Tòa Nhà thân thương mà chắc chắn ngài đang chuẩn bị mọi sự
tươm tất để đón chờ buổi họp mặt này. Xin kính chào toàn thể cộng
đoàn Tòa Giám Mục Đà Lạt và tất cả những anh chi em lại một lần nữa
lo lắng giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để cuộc lễ có được một
thời điểm thường huấn trọn vẹn, tốt lành…
Bày chim tung cánh bay về tổ ấm
Và thế là chiều 23 đã có 90 anh em như những cánh chim bay về tổ ấm.
Từ Cần Thơ, Long Xuyên, Mỹ tho, đến Xuân Lộc, Sài Gòn…rồi ra tận
miền Trung với Nha Trang, Qui Nhơn…anh em lại một lần tay bắt mặt
mừng, ánh mắt bờ môi tràn niềm vui tái ngộ.
Cho dù vẫn còn thiếu một vài đơn vị, vì bận bịu với công tác mục vụ
chung của Giáo Phận (Vĩnh Long đang thường huấn, Kontum mở lễ phong
chức linh mục, Huế mừng giỗ tổ cùng ngày, Phan Thiết huấn luyện hội
đồng mục vụ…) thì cuộc họp mặt năm nay hy vọng cứ vẫn đông vui.
Nói lời cám ơn trong ngày đầu tiên e hơi sớm. Tuy nhiên, vẫn phải
dành cho Linh mục Trưởng Ban Điều hành hội cựu sinh viên Xuân Bích,
Cựu chủng sinh Trương Kim Hương, một tràng pháo tay thật nồng nhiệt.
Phải chăng để có được những ngày hội vui huynh đệ và thường huấn “bỏ
túi” nầy, phải chăng linh mục đã trăn trở bao ngày bao đêm trước khi
bước chân đến xứ sương mù. Rủi thay, “Người Công chính hay gặp
bước gian truân”, nghe đâu xe của ngài “bị bắn tốc độ” trên
đường "tây tiến”. Nhưng mọi sự rồi sẽ ổn thôi. Vì “Chúa luôn cứu
họ qua cầu”.
Trong buổi chiều gặp gỡ đầu tiên, lòng của mọi anh em cựu sinh viên
đã ấm lại thêm nồng khi bóng dáng ‘nhỏ nhẹ, hiền lành, thanh thản”
của Giám Mục Chủ tịch HĐGMVN Phaolô Nguyễn Văn Hòa xuất hiện giữa
anh em như Người Cha đón đợi con về, như Người Mục tử đang gậy cầm
tay chăn dắt đàn chiên. Mọi người có mặt cám ơn Vị Giám Mục, cám ơn
ngài thật nhiều về sự ưu ái dành cho anh em cựu sinh viên Xuân Bích.
Buổi tối đầu tiên theo ánh trăng lên dần. Và hình như đâu đó vang
vang tiếng gì như “tiếng ngáy!”…
Chương Trình Ngày Hôm Sau (24.11.2004)
Đêm đầu tiên ở Đà Lạt hình như ngủ ngon hơn ở nhà ! Có lẽ đuờng xa
mõi mệt và cũng có lẽ vì cái se lạnh cuốn hút của vùng cao thông
xanh bạt ngàn. Tuy nhiên, tiếng chuông báo thức đã kéo tất cả đi vào
một ngày mới.
Thánh Lễ là của lễ hiến dâng đầu tiên
Hôm nay, 24.11, hiệp cùng toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, Giáo Hội Việt
nam mừng kính trọng thể lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Ngay từ giờ
Kinh Phụng vụ sáng, anh em đã sống lại tâm tình bất khuất, anh hùng
của các Chứng Nhân Tử Đạo Việt Nam, qua những điệp ca là những chứng
từ sống động còn để lại như những lời di chúc. Chủ tế trong Thánh Lễ
đồng tế hôm nay là Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa.
Trong bài chia sẻ Lời Chúa, Ngài đã nêu bật cái độc đáo, tuyệt vời
của “cái chết tử đạo”; cái chết không vì mục đích oán hờn, căm hận;
cái chết không phải để gieo rắc hận thù, giết chóc, khủng bố và đau
thương…Nhưng là cái chết bình an, thanh thản, yêu thương, khoan
dung và tha thứ.
Cái chết để mang lại tình thương và tha thứ, gieo rắc an bình và
thánh thiện, mang lại ơn cứu độ cho anh em. Đó là cái chết họa theo
cái chêt “trên đồi Can-Vê của Thầy Chí Thánh”. Cho tới giây phút
cuối cùng vẫn dâng lên Cha lời cầu xin tha thứ: “Xin Cha tha cho
chúng vì chúng lầm chẳng biết”; và trước lúc tắt hơi, vẫn đưa
mắt vươn tay dắt díu người trộm vào cõi thiên đàng: “Hôm nay
ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Và Thánh lễ đã kết thúc sốt sắng trong tâm tình tạ ơn cùng với Đức
Maria trong lời kinh Magnificat “Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung
hô Chúa í a…”….
Nhóm Thảo Luận Chuyên Đề
Giờ chia sẻ và thảo luận chuyên đề sáng hôm nay do Linh mục Đồng
(Cần Thơ) gợi ý qua các chủ đề: TRUYỀN THỐNG XUÂN BÍCH, GIÁO LÝ HÔN
NHÂN.
Nhắc đến TRUYỀN THỐNG XUÂN BÍCH, phải chăng là “đụng” tới cái
căn tính linh mục mang “dáng đứng Xuân Bích”; hay nôm na theo ngôn
ngữ của Linh mục Đồng là cái “Chất Xuân Bích”. Đó là cái “chất” được
tích lũy hình thành không những do sau bao tháng năm cùng có những
phút giây lặng thầm chiêm ngưỡng bức tranh “sơn mài” độc đáo, mà
nhất là được cảm nhận, được chắt chiu, được trực diện với những hình
hài bằng xương bằng thịt của các Linh mục Giáo sư đáng kính đang yêu
và rất mực hòa đồng.
Giám Mục Phaolô Hòa đã “chú giải thêm” về cái chất đó khi ngài nhận
định rằng: Nhìn từ bên ngoài, người ta sẽ dễ nhận ra cái độc đáo,
cái tuyệt vời của anh em Xuân Bích. Đó chính là tình huynh
đề, nghĩa đại đồng và luôn biết “đem quá khứ vào hiện tại,
nối dài kỷ niệm để thăng hoa cuộc sống hôm nay”. Trong khi đó
Cha Đỗ Xuân Quế lại cẩn trọng lưu ý anh em : điều quan trọng là giữ
sao cho cái “chất’ ấy được bền, được thắm, được phát triển.
Và muốn như thế, phải cố gắng từng ngày học hành, đọc sách, gặp gỡ,
sống tình huynh đệ và luôn giữ được nét thanh cao của “cái nghèo
Tám Mối”…Cha Thứ (Nha Trang) lại muốn vươn xa hơn nữa : Phải
luôn có cõi lòng khoan dung và luôn “mở đường” cho những anh em, nếu
có lỡ lầm, còn có nẽo quay về…Trong khi đó Linh Mục Ninh lại nhấn
mạnh khía cạnh “mục vụ hiệu năng” của Xuân Bích; Linh Mục
Bình (BMT) tâm đắc về cái phong cách cởi mở, nhân bản, tự do của nền
giáo dục Xuân Bích…
Riêng về GIÁO LÝ HÔN NHÂN, Linh Mục Đồng muốn nhấn mạnh một
số trọng điểm của tài liệu Giáo Lý Hôn Nhân do Toà Giám Mục Cần Thơ
phát hành và đã được triển khai trong lần họp mặt năm vừa qua. Đó là
các nội dung ý nghĩa về TÌNH YÊU, GIỚI TÍNH VÀ NGÔI VỊ, những ý
nghĩa mới nghe qua cứ tưởng rằng trừu tượng, lý thuyết, khó chấp
nhận...Nhưng nếu biêt vận dụng một nghệ thuật sư phạm đứng cách sẽ
dễ dàng giúp các học viên đón nhận tiếp thu. Linh mục Thứ mách nhỏ
các an hem linh mục về bí quyêt “mẹ chữa mắt lé cho con” hay
cách giáo dục làm sao cho con cái phát triển quân bình mà vai
trò của người mẹ là quan trọng hơn hết.
Còn nhiều ý kiến khác nữa, nhưng thư ký không chuyên nên ghi không
kịp.
Đón Tiếp Thầy Cũ Adrien Villard TRIỆU BÁ VI
Giờ cơm trưa hôm nay hình như ngon hơn, và cũng vui hơn. Vì ở giữa
anh em, chợt về một gương mặt thân thương của một Vị Tôn Sư mà đã
bao năm trời cách biệt: Linh Mục Triệu Bá Vi mới vừa từ trời Tây
sang thăm Việt Nam. Mặc dù tuổi đã 87, tay đã chống gậy, nét mặt vẫn
hồn nhiên tươi vui thân ái như ngày nào. Cùng lên Đà Lạt với ngài,
có Linh mục Trần Thanh Lộc, một Cựu Sinh Viên Xuân Bích đang còn ở
Pháp, và Linh mục Huỳnh Công Minh Tổng Đại diện TP.HCM cũng là học
trò Xuân Bích.
Hằng năm ngày 21.11 lễ Ðức Mẹ Dâng Mình
vào Ðền Thánh, các cựu sinh viên Xuân Bích tụ họp nhau về Ðại Chủng
Viện nào đó, như Hà Nội, Vĩnh Long, Huế để gặp gỡ trao đổi kinh
nghiệm mục vụ, gặp gỡ các linh mục giáo cũ và các em chủng sinh để
tạ ơn Chúa và nhắc lại lời hứa Linh mục, hầu tiến thêm một bước mới
trong đời sống tông đồ.
2/. Nối Tiếp Truyền Thống Giỗ Tổ
Xuân Bích Hằng Năm: Lễ Bổn Mạng “Đức Mẹ Dâng Mình Vào Đền Thờ
(21.11)”.
Cho đến năm 1975, các giáo phận Huế, Đà nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang,
Kontum, Ban Mê Thuột đều có chủng sinh theo học Đại Chủng Viện Xuân
Bích
Như đã nói, từ năm 1994, hội Xuân Bích lại được Đức Tổng Giám Mục
Huế giao việc điều hành chủng viện của giáo phận. Hai giáo phận Đà
nẵng và Kontum cũng gửi chủng sinh theo học.
Hội Xuân Bích nhận lễ Đức Mẹ dâng mình vào Đền thờ (21.11) làm lễ
bổn mạng. Trong ngày lễ này, các cha cựu sinh viên cùng họp mặt nhau
để mừng lễ tại mái trường chủng viện, vừa là dịp để gặp lại trường
cũ thày xưa, vừa để chia xẻ kinh nghiệm cuộc sống mục vụ với đàn em
đi sau. Ngày này trở thành ngày Giỗ Tổ Xuân Bích.
Lễ Giỗ Tổ vừa được tổ chức tại chủng viện Huế, nhưng đồng thời cũng
được tổ chức tại Tòa Giám Mục Đà lạt đều đặn từ 15 năm nay, qui tụ
những anh em cựu sinh viên Xuân Bích ở miền Nam, do tấm lòng quý hóa
của Đức Giám Mục Đà lạt, và sự tận tụy tổ chức của cha Trương kim
Hương.
Về họp mặt Giỗ Tổ, các cha cựu sinh viên không quên tưởng nhớ và cầu
nguyện cho các linh mục giáo sư và những anh em đã qua đời, được cụ
thể qua nghi thức tưởng niệm đầu thánh lễ. Sau Phụng vụ Lời Chúa,
các linh mục lặp lại việc Đức Mẹ đã làm xưa, là hân hoan tiến lên
trong lời ca “Quam pulchre graditur” quì trước bàn thờ, lập lại lời
tuyên nhận “Chúa là phần gia nghiệp và là phần chén của con”.
Kết thúc thánh lễ, mọi người quây quần trước đài Đức Mẹ ở khuôn viên
chủng viện để dâng mình cho Mẹ. Dáng thanh cao thánh thiện của Mẹ
đang trìu mến nâng Chúa Giêsu trên đôi vai khiến cho các linh mục
cảm thấy vững tâm trên bước đường phụng sự, vì họ đã cùng Mẹ tiến
dâng, thì Mẹ sẽ cùng họ sống lý tưởng dâng hiến.
Lễ Giỗ Tổ năm 2007 này, chủng viện hân hạnh đón Linh mục Bề trên Cả
hội Xuân Bích Lawrence B. Terrien đến thăm. Ngài cũng hiện
diện trong cuộc họp mặt của anh em cựu sinh viên ở Đà Lạt từ ngày
13-15.11.
Cũng trong dịp lễ này, Linh mục GB. Nguyễn văn Đán đã được bổ nhiệm
làm Giám Đốc Đại chủng viện Huế, kiêm Đại Diện Giám Tỉnh Xuân Bích
Pháp tại Việt Nam.
Đại chủng viện Xuân Bích Huế cũng tạm thời là môi trường hoạt động
tông đồ cho sinh viên Huế. Chẳng hạn, Ngày Chúa Nhật 28 tháng 5 năm
2006, mặc dầu đang trong giai đoạn ôn thi Học kỳ cuối năm, nhưng đã
có trên 600 Sinh viên Công Giáo thuộc các trường Ðại học, Cao Ðẳng
Huế tựu về Ðại Chủng Viện Xuân Bích, toạ lạc tại 30 Kim Long, Huế,
bên bờ Sông Hương để tham dự Ngày Bế Giảng Niên Khóa 2005-2006. Chủ
đề sống Tin mừng của Ngày gặp gỡ Bế Giảng "Hãy Ði Loan Báo Tin Mừng"
(Lc 24, 46-53) được ghi nỗi bật trên bức màn lớn, màu xanh lá cây
làm phông cho bục kê Bàn Thờ đặt trước Tiền Ðường Nhà Nguyện. [http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/06news/6news156.htm]
Tài Liệu Tham Khảo
- Nguyễn Quang Anh: Hội Xuân Bích Và Công Cuộc Đào Tạo Linh Mục.
Huế, 2000
http://gpnt.net/diendan/showthread.php?t=4809
-
Wikipedia, the free encyclopedia:
Église Saint-Sulpice, Paris
en.wikipedia.org/wiki/Saint-Sulpice_
-
The Society of
St. Sulpice.
Map of 5408 Roland Ave, Baltimore,
MD 21210
www.sulpicians.org/
-
U.S. Province of the Society of
St. Sulpice
Archives
www.stmarys.edu/archives/arc_coll_sulpice
- Tân Yên Nguyễn
Hùng Oánh:
Xuân Bích Vĩnh Long
(1964-1970). VietCatholic
News (Chúa Nhật 30/12/2007 08:14)
- Nguyễn Vinh Gioang: Nói lại cho rõ: Những
điều cần biết đích xác về Hội Linh Mục Xuân Bích.
VietCatholic News (Thứ Hai 17/12/2007
22:10)
[Tài Liệu I. Bức thư của linh mục Nguyễn Hữu Long, giáo sư Đại
Chủng Viện Xuân Bích Huế gởi linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
ngày 15.12.2007
Tài Liệu II. Lễ Giỗ Tổ Xuân Bích
Tài liệu III: Bài cám ơn của cha Tân Giám Đốc Đại Chủng
Viện Huế kiêm Tân Đại Diện Giám Tỉnh hội Xuân Bích tại Việt Nam.
Lễ Mẹ Dâng Mình - Huế, 21. 11. 2007
Tài liệu IV: BÀI NÓI CHUYỆN CỦA CHA BỀ TRÊN TỔNG QUYỀN VỀ CHA
J.J. OLIER, ĐẤNG SÁNG LẬP HỘI XUÂN BÍCH. (tại Đại Chủng Viện
Huế, ngày 21.11.2007, bản dịch của Lm Nguyễn Hữu Đức)
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=50004]
- Nguyễn Vinh Gioan:
LM Gioan
Baotixita Nguyễn Văn Đán được bổ nhiệm làm Giám Đốc ĐCV Xuân Bích
Huế. VietCatholic News
(Chúa Nhật 25/11/2007 14:34).
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=49287
- Nguyễn Vinh
Gioang:
Hình ảnh Lễ Giổ Tổ Xuân Bích tại Huế
http://vietcatholic.net/Albums/71124XuanBich25112007/index.htm
- Trương
Đình Hiền:
Cuộc họp mặt cựu sinh viên Xuân Bích tại
tòa Giám Mục Đà Lạt.
VietCatholic News (Thứ Hai 29/11/2004
08:23)
- Trương Đình Hiền:
Hình ảnh
cuộc họp mặt cựu sinh viên Xuân Bích tại tòa Giám Mục Đà Lạt
- Tân Yên Nguyễn Hùng Oánh:
Cuộc họp
Xuân Bích
Vĩnh Long
http://tinhthan.tripod.com/joseph/thanhgiusetuyetdieu.html
www.conggiaovietnam.net/tacgia/ChaHuy/Dao%20Tao%20Thieng%20Lieng/
sachthamkhao.htm - 41k
www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=50508 - 26k
http://www.vietmedia.com/news/?L=grabstory.html&ID=30745&start=750&Cat
=Vietnam
http://www.saigonforsaigon.org/staticpages/index.php?page
=20051101014003719
http://www.gpnt.net/diendan/showthread.php?t=2030
http://tamtusaobien.net/kyuc1.shtml
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/06news/6news156.htm
http://blog.360.yahoo.com/blog-PS9MEyAgbqcD7BX_MGWxZX7m?p=49
ldcg.de/index.php?option=com_content&task=view&id=157
http://z6.invisionfree.com/thanhduc/index.php?
http://www.thanhlinh.net/thuvientailieu/viewtopic.php?p=646&sid
=8262a25e81d1bedffb0a660db875cf83
http://www.hdgmvietnam.org/demo/Hien-Tinh-Giao-Hoi-VN-Ban-In/Hue/null.aspx
Cha Trần Xuân Long: Từ năm 1950 – 1957 : học
tại Đại Chủng Viện Xuân Bích
Hà Nội – Vĩnh Long – Thị Nghè
http://www.chuacuuthe.org/9-3-07-damtangchaLong-n-h-an.html
Hoài Đức Cao Cung Lên:
http://www.mautam.net/forum/viewtopic.php?p
=1857&sid=89b766035eedfddf05f719ee5aab8e34
http://www.tgmtb.net/Ki_yeu_ve_Giao_phan/Tu_lieu/Cac_vi_chu_chan.htm
http://www.giaoxuvnparis.org/htm/congdoanvn/cdtoulouse.htm
Chu Quang Minh:
http://tthngdva.net/tieusu.html
Cộng Đoàn Marseille:
http://www.saintdefendent.org/Tieu-Su.php
www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id
=139&Itemid=87 - 41k -
Cached -
Similar pages
-
Note this
Ngày 26-4-2003, Đức Thánh cha đã chính
thức bổ nhiệm Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, giám mục giáo phận Lạng
Sơn, làm giám quản tông toà tổng giáo phận Hà Nội và chấp nhận đơn
xin nghỉ hưu của Đức Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng.
http://www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id
=139&Itemid=87
http://memaria.org/cam_nghiem_nguoi_kito_huu/phong_van_duc_dan_vien_phu_
huynh_quang_sanh_dan_vien_thien_an_hue/
http://tinhthan.tripod.com/cgvn/hdgmvn/gmvn2/dc-tinh_tp.html
http://www.giaoxuvnparis.org/htm/loichua/lathumucvu/tinhyeudk.htm
http://www.tiengnoigiaodan.net/dacbiet/db_gpthb.html
Oakland, CA 19/3/2008.4
Holy Week ĐHN ngày 15-22/3/2008
Ngài
là một giáo sĩ, sinh tại Paris, Pháp ngày 20/9/1608 và chết
ngày 2/4/ 1657. Được thánh François de Sales khuyên nên làm
lịnh mục, cậu Olier theo học với các tu sĩ Dòng Tên
(1617-25) và thụ phong linh mục năm 1633. Tân linh mục làm
linh mục chính Xứ Thánh Xuân Bích ở Paris (1642-1655). Tại
đó ngài thực hiện những cuộc canh tân về xã hội và giáo dục
và về sau được Thánh Jean-Baptiste de la Salle tiếp tục.
Ngài sáng lập Tu Hội Xuân Bích và chủng viện Xuân Bích, gây
một ảnh hưởng quan trọng lên Thánh Vincent de Paul.
http://encyclopedia.jrank.org/Cambridge/entries/002/Jean-Jacques-Olier.html
Saint-Sulpice (Thánh
Xuân Bích) là một nhà thờ danh tiếng ở Paris nằm về phía
Đông của Quảng Trường Saint-Sulpice, trong Khu Luxemburg
thuộc Quận VI Với độ cao 113 thước , chiều rộng 58 thước,
nhà thờ này chỉ nhỏ hơn Nhà thờ Đức Bà (Notre Dam) và như
thế đây là nhà thờ lớn thứ hai ở Paris. Nhà Thờ đó được dâng
kính Đấng Nhân Đức Sulpitius. Vào thập niên 1700, một cột đo
giờ được xây dựng ở nhà thờ
Về lịch sử, ngôi
nhà thờ hiện nay là toà kiến trúc thứ hai được dựng nên theo
kiểu nhà thờ Roma cổ đại được xây cất lúc đầu ở thế kỷ thứ
13. Những được thực hiện xây dựng thêm qua nhiều thế kỷ cho
mãi đến năm 1633. Tòa kiến trúc mới được thiết lập năm 1646
do linh mục chính xứ Jean-Jacques Olier (1608-1657). Ngài đã
sáng lập Hội Thánh Xuân Bích, qui tụ các linh mục, thành lập
một chủng viện gắn bó với ngôi nhà thờ này
Công trình được tiếp tục trong khoảng 140
năm. Nhà thờ được hầu như hoàn tất năm 1732, nhưng mặt tiền
ở phía Tây đã không được bắt đầu trước năm 1776.
Kết quả là một mặt tiền phía Tây gồm hai
tầng có ba tầng của các cột đẹp đẽ. Vẻ hài hòa toàn diện của
tòa nhà, theo một số người, chỉ được níu lại do hai ngọn
tháp không hợp nhau; một tháp được thêm vào theo thiết kế
của Jean Francois Chalgrin, chỉ một thời gian ngắn trước
Cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, nhưng tháp thứ hai đã không
bao giờ được bắt đầu.
http://en.wikipedia.org/wiki/Saint-Sulpice_(Paris)
http://en.wikipedia.org/wiki/Saint-Sulpice_(Paris)
Dẫn theo
Linh mục Nguyễn Quang Anh: Lịch sử Hội Xuân Bích, tr.
117.
Thời chủng
sinh Hoài Ðức (Lm. H.Ð.), năm 1945, đại chủng viện Xuân Bích
tạm đóng cửa, vì quân đội Trung Hoa trưng dụng cơ sở chủng
viện để đóng quân, các chủng ...ldcg.de/index.php?option=com_content&task=view&id=157
Đại chủng
viện Xuân Bích đóng cửa sau biến cố ngày 19-12-1946, được mở
lại vào năm 1948.
www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=139&Itemid=87
Tháng 10 năm 1954, toàn khối Giáo sư và sinh viên của Đại
chủng viện Xuân Bích đã di cư vào Nam. Khi thầy trò của Đại
chủng viện này đã tập kết tại Vĩnh Long, thì nhận được lời
kêu gọi “trở về” của Đức Giám mục Hà Nội là Đức Cha Giuse
Maria Trịnh Như Khuê. Nhưng chỉ mình thầy Phanxicô đáp lời
kêu gọi của Đức Giám mục, trở về giáo phận vào cuối tháng 10
năm đó. Trở về giáo phận, Thầy vừa đi làm công nhân tại
xưởng in Têrêsa, vừa theo các lớp Thần học, cho đến ngày
18-4-1958, tại nhà thờ lớn Hà Nội, Thầy Phanxicô đã lãnh
chức Linh mục, do Đức Giám mục Hà Nội chủ phong.
http://www.tiengnoigiaodan.net/dacbiet/db_gpthb.html
Trong”Tôi
Phải Sống” của Lm Nguyễn Hữu Lễ: “Trong lúc ngồi xe, thầy
Quý chỉ tôi Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, sở thú Sài Gòn,
cầu Thị Nghè, đó là 4 nơi tôi biết đầu tiên khi vừa đặt chân
tới thủ đô Sài Gòn mà người ta gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông
này. Chừng qua tới cầu Sơn bên kia Thị Nghè, xe rẽ trái
vào chủng viện Xuân Bích, thầy trò xuống xe. Thầy móc
bóp trả tiền và xe chạy, tôi hỏi, thầy cho biết đó là Taxi.
Tôi biết Sài Gòn có xe Taxi từ lúc đó”
http://www.saigonforsaigon.org/staticpages/index.php?page=20051101014003719
Bởi vì
nhờ những khái niệm khai tâm, những cắt nghĩa đơn sơ đó [của
linh mục Đông Anh], tôi [một cựu chủng sinh] đã
được dẫn vào Mầu Nhiệm Giáng Sinh: Mầu nhiệm tình yêu Thiên
Chúa đối với loài người. Tôi nhớ một câu nói khá mạnh của
linh mục Đông Anh, giáo sư Thánh Kinh Đại Chủng Viện Xuân
Bích. Ngài bảo ‘Đó là tình yêu điên khùng mà chỉ mìnhThiên
Chúa là người yêu mới hiểu hết được’. Tôi cũng cảm nghiệm
được phần nào Mầu Nhiệm Giáng Sinh qua lời Thánh Gioan:
«Thiên Chúa là tình yêu… Tình yêu của Thiên Chúa thật rõ
ràng ở chỗ, không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa trước,
nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước và đã sai Con
của Ngài là Chúa Giêsu sinh xuống trần gian cứu chuộc chúng
ta» (1Ga 4,8-9).
http://www.giaoxuvnparis.org/htm/loichua/lathumucvu/tinhyeudk.htm
Đại chủng viện Kim Long, thường được gọi là chủng viện Xuân
Bích, do các tu sĩ dòng Sulpice (phiên âm là Xuân Bích)
giảng dạy, chuyên đào tạo các linh mục.
Các chủng
sinh hoàn tất chương trình trung học ở các Chủng Viện trên
sẽ tiếp tục chương trình Triết Học và Thần Học tại Đại Chủng
Viện Xuân Bích (Saint Sulpice) Huế. Về sau, phân khoa Triết
được mở tại Đà Nẵng (1972): ĐCV Hòa Bình, trong khi khoa
Thần vẫn tiếp tục ở Huế, đều do các Linh Mục Saint Sulpice
phụ trách.
http://tamtusaobien.net/kyuc1.shtml
Khoảng đầu tháng 5/1975 Đức Giám
Mục đã cho triệu tập các Thầy Đại Chủng Sinh Nha Trang trước
đây được gởi tu học ở các nơi: Đại Chủng Viện Xuân Bích,
Huế, Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, Chủng viện Chúa Chiên Lành
Nha Trang tại Đà Lạt, Chủng viện Lâm Bích về Tiểu Chủng Viện
Sao Biển và nâng Chủng viện này thành Đại Chủng Viện Sao
Biển. Cha Giám Đốc lúc bấy giờ là cha Phêrô Nguyễn Văn Nho.
Các Cha giáo có Cha Phêrô Phạm Ngọc Phi, Cha Giuse Trần
Thanh Phong và Cha Alexis Nguyễn Thạch Ngọc... Chủng sinh
gồm 29 thầy lớp Thần học: Điệp, Tính, Liệu, Nhị, Hoàng, Bút,
Cần, Đông, Độ, Ngạn, Sơn, Lành, Hiền, Hiến, Tình, Báu,
Lượng, Thanh, Chí, Xuân Phong, Cao Phong, Hứa, Ninh... và 4
thầy lớp Triết: Thư, Minh, Long, Vân.
http://www.gpnt.net/diendan/showthread.php?t=2030
Có
tài liệu nói ngày 23-4-1994. Đại chủng viện liên giáo phận
Huế, Đà Nẵng, Kontum được mở cửa lại và do các linh mục
thuộc hội Xuân Bích điều hành.
Hiện nay
(thời điểm ?) số tu sĩ của đan viện Thiên An là 75 người,
trong đó có 6 linh mục và 8 thầy đang theo học ở Đại Chủng
Viện Xuân Bích, Huế.
Hòa Giang Đỗ
Hữu Nghiêm
Tổng Hợp
|