|
Tác giả
ANTHONY DE MELLO
NHƯ LỜI CẦU KINH
(QUYỂN I)
Nguyên tác
THE PRAYER OF THE FROG
(Volume I)
Quyển sách gồm
những mẩu chuyện chiêm niệm
ISBN
81-87886-25-0
1998
Gujarat
Sahitya Prakash
Post Box 70
ANAND 388 001
INDIA
Imprimi Potest:
Lisbert D'Souza, S.J.
Tỉnh hạt Bombay
Ngày 30-05-1987
Imprimatur: + C.
Gomes, S.J.
Giám mục
Ahmedabad
Ngày 19-06-1987
Dịch giả
ĐỖ TÂN-HƯNG
Đọc lại và bổ túc
LM ANTÔN-PHAOLÔ,
SJ
Giấy phép dịch
ngày 20-05-2001
Nhà xuất-bản
Gujarat Sahitya Prakash
Anand, India
PHẦN MỘT
CẦU NGUYỆN
(Câu chuyện
1-29)
1.-
LỜI
CẦU KINH CỦA CON ẾCH
2.- THẦY GIÁO TRƯỞNG DO THÁI NHẢY MÚA
3.- CẦU NGUYỆN BẰNG DẠ VŨ
4.- ĐÔI
CHÂN CHĨA VỀ THÀNH THÁNH MÉT-CA (MECCA)
5.-
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA MỘT KẺ MỘ ĐẠO
VỚI THẦN VIS-NU (VISHNU)
6.- NHÀ PHÁT MINH
7.- BIẾN THÀNH LỬA
8.-
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI THỢ SỬA
GIÀY
9.-
CẦU NGUYỆN BẰNG NHỮNG MẪU TỰ
10.-
NGHỀ CHUYÊN MÔN CỦA CHÚA LÀ THA
THỨ
11.-
NGÀI NA-RA-ĐA (NARADA) ĐỘI BÁT
SỮA
12.- NGÔI LÀNG LUÔN ĐƯỢC CỨU
VỚT
13.-
LỜI CẦU NGUYỆN CÓ THỂ CHẾ NGỰ
THỜI TIẾT?
14.-
SỰ ĐÁP TRẢ TRÌ HOÃN CỦA NỮ THẦN
LÁC-SI-MI (LAKSHMI)
15.-
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA TRẺ CON
16.-
MỘT KẺ QUẤY RẦY KHÔNG THỂ CHỊU
NỔI
17.-
VỀ LỜI CẦU NGUYỆN VÀ NGƯỜI
CẦU
18.- TÔI CÓ THỂ GIÚP BÀ ĐƯỢC
KHÔNG?
19.-
CẢ HAI CHỈ NGHE. KHÔNG AI NÓI
20.- VUA ÁC-BA CẦU NGUYỆN
21.- CON BÒ ĐỰC ĐIÊN TIẾT
22.- CẦU XIN CHẤP NHẬN CUỘC
SỐNG
23.- VÀO MỘT NGÀY LẠNH TRỜI,
CHẾT CÓNG
24.- LÀM BẠN VỚI RỒNG
25.-
CHÚA Ở NGOÀI ĐÓ
26.- ĐAN SĨ VÀ CON CHIM
27.- GỠ BĂNG BỊT MẮT RA
28.- ĐÔI CHÂN GÁC LÊN BÀN
29.- NGÔI THÁNH ĐƯỜNG TRONG
RỪNG
1.-
LỜI
CẦU KINH CỦA CON ẾCH
Một đêm kia khi thầy Bruno đang
cầu nguyện, thầy bị quấy rầy bởi tiếng ộp ộp của một con ễnh ương.
Mọi cố gắng của thầy để phớt lờ âm thanh đó đều vô hiệu nên từ cửa
sổ, thầy la lớn: "Im đi! Ta đang cầu nguyện!"
Vì thầy Bruno là một vị thánh
nên lệnh của thầy được tuân hành ngay. Mọi sinh vật đều im hơi lặng
tiếng, nhằm tạo sự thinh lặng thuận lợi cho việc cầu nguyện của
thầy.
Nhưng giờ đây một âm thanh khác
xâm nhập vào việc thờ phượng của thầy Bruno – một tiếng nói từ bên
trong nói rằng: "Có thể Chúa cũng ưa thích tiếng ộp ộp của con
ếch đó như tiếng hát những bài Thánh Vịnh vậy.” Thầy Bruno đáp
lại với vẻ khinh miệt: " Tiếng ồp ộp của một con ếch có gì mà làm
Chúa nghe lọt tai?" Nhưng tiếng nói đó không chịu từ bỏ:
"Con có nghĩ tại sao Chúa đã tạo nên âm thanh không?"
Thầy Bruno quyết định khám phá
cho biết tại sao. Thầy ngả người ra ngoài cửa sổ và ra lệnh: "Hát
lên đi!" Tiếng ộp ộp đều đặn của con ễng ương tràn lan không
trung cùng với sự phụ hoạ buồn cười của mọi con ếch ở xung quanh đó.
Và khi thầy Bruno chú trọng vào âm thanh thì những giọng kêu của
chúng không còn làm thầy chói tai nữa, bởi vì thầy khám phá ra rằng
nếu thầy không còn kháng cự chúng nữa thì chúng thực sự đang làm
phong phú hóa sự tĩnh mịch của đêm trường.
Nhờ sự khám phá đó, con tim
thầy Bruno đã hòa nhịp với vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, thầy
mới hiểu cầu nguyện nghĩa là gì.
2.- THẦY GIÁO
TRƯỞNG DO THÁI NHẢY MÚA
Một câu
chuyện trong sách Ha-si đim (Hasidim)
Những người Do
Thái ở một tỉnh nhỏ bên nước Nga rất nóng lòng chờ đợi thầy giáo
trưởng tới. Đó sẽ là một biến cố hiếm hoi nên họ đã để nhiều thời
giờ chuẩn bị những câu hỏi mà họ sẽ đặt ra cho con người thánh thiện
đó.
Cuối cùng khi
thầy giáo trưởng đến và họ gặp thầy ở tòa thị chính, thầy có thể cảm
nhận bầu khí căng thẳng khi mọi người sẵn sàng lắng nghe những câu
trả lời mà thầy để dành cho họ.
Trước hết, thầy
không nói gì; thầy chỉ nhìn chằm chằm vào đôi mắt họ và ngậm miệng
ngân nga một giai điệu lặp đi lặp lại. Rồi mọi người bắt đầu ngậm
miệng ngân nga theo. Thầy bắt đầu hát và họ hát theo thầy. Thầy lắc
lư và nhảy múa khoan thai, với những bước chân có chừng mực. Toàn
thể giáo đoàn bước theo thầy như vậy.
Chẳng bao lâu,
họ dồn hết tâm trí vào cuộc nhảy múa cho đến nỗi họ bị cuốn hút vào
những động tác mà quên đi những gì khác ở trên mặt đất. Vì vậy mỗi
người thuộc đám đông đó làm thành một tổng thể được chữa lành khỏi
sự rạn nứt từ bên trong đã cầm giữ chúng ta xa rời Chân Lý.
Cũng phải mất
gần một tiếng đồng hồ trước khi cuộc khiêu vũ chậm lại để rồi chấm
dứt. Với sự căng thẳng được gỡ khỏi nội tâm con người, ai nấy ngồi
xuống trong sự an bình thinh lặng tràn lan căn phòng. Rồi vị giáo
trưởng nói những lời duy nhất tối hôm đó: "Tôi tin chắc tôi đã
trả lời các câu hỏi của quý vị rồi".
Người ta hỏi một vị tu sĩ Hồi giáo tại sao ông ta thờ phượng Chúa bằng
cách nhảy múa. Ông trả lời: "Vì thờ phượng Chúa có nghĩa là chết cho
chính mình; sự nhảy múa giết chết cái tôi. Khi cái tôi chết, mọi vấn
nạn chết theo với nó. Nơi nào vắng bóng cái tôi, ở đó có Tình
Thương, ở đó có Thiên Chúa".
3.- CẦU NGUYỆN
BẰNG DẠ VŨ
Minh Sư ngồi với
các đệ tử trong cuộc hội kiến. Ông nói: "Các con đã nghe cầu
nguyện nhiều và các con cũng đã đọc kinh cầu nguyện nhiều. Tối nay,
thầy muốn các con nhìn thấy cầu nguyện một lần".
Vào lúc đó màn
kéo lên và buổi dạ vũ bắt đầu.
4.- ĐÔI CHÂN CHĨA VỀ THÀNH THÁNH
MÉT-CA (MECCA)
Một vị tu sĩ khổ
hạnh thánh thiện Hồi giáo đi hành hương Mét-ca. Khi tới ngoại vi
thành phố, ông nằm xuống bên vệ đường, mệt mỏi do cuộc hành trình.
Khi vừa mới thiêm thiếp ngủ, thình lình ông bị đánh thức dậy bởi một
người hành hương có vẻ giận dữ: "Đây là lúc mọi tín đồ cúi đầu về
phía thành thánh Mét-ca, còn ngươi lại chĩa chân về phía đền thánh.
Ngươi là hạng người Hồi giáo gì vậy?"
Vị tu sĩ khổ
hạnh không nhúc nhích động đậy; ông chỉ mở mắt ra và nói: "Anh
ơi, xin anh làm ơn đặt đôi chân tôi ở đâu để khỏi phải chĩa thẳng
vào Chúa?"
5.- LỜI CẦU
NGUYỆN CỦA MỘT KẺ MỘ ĐẠO VỚI THẦN VIS-NU (VISHNU)
"Ngài ôi, tôi
khấn xin Ngài tha thứ cho tôi về ba tội tày trời nầy: trước hết, tôi
đã đi hành hương nơi nhiều đền thánh của Ngài mà quên rằng Ngài hiện
diện khắp nơi; thứ đến, tôi thường lớn tiếng van xin Ngài phù hộ cho
tôi mà quên rằng Ngài lo lắng cho sự an sinh của tôi còn hơn chính
tôi; và sau cùng, này đây tôi đang xin Ngài tha thứ, trong khi tôi
biết rằng mọi tội lỗi tôi đã được tha thứ trước khi tôi lỗi phạm."
6.- NHÀ PHÁT MINH
Sau nhiều năm
khó nhọc, một nhà phát minh đã tìm ra ra kỹ thuật làm lửa. Ông đã
mang những dụng cụ lên vùng Bắc cực đầy tuyết phủ và bắt đầu dạy cho
một bộ lạc về kỹ thuật và những lợi ích của việc làm ra lửa. Dân
chúng ở đó bị thu hút bởi sự mới mẻ này đến độ họ không nghĩ tới
việc cám ơn người sáng chế nên một ngày kia ông đã lặng lẽ bỏ đi. Là
một trong những con người hiếm hoi có tâm hồn cao thượng, ông không
ước mong được tưởng nhớ hay tôn sùng: tất cả những gì mà ông nhắm
tới là sự mãn nguyện được biết có kẻ đã hưởng lợi từ phát minh của
mình.
Bộ lạc kế tiếp
mà ông tìm tới cũng chỉ háo hức học hỏi như bộ lạc trước đây. Nhưng
các thầy tế ở đây, vì ganh tị ảnh hưởng của người phương xa đối với
dân chúng nên đã sát hại ông ta. Để xóa đi mọi dấu vết ngờ vực liên
quan đến tội ác đó, họ đã dựng nên một bức ảnh của Nhà Phát Minh Vĩ
Đại được đặt trang trọng trên bàn thờ chính của đền thờ; họ thiết
lập một nghi thức tế lễ để những ký ức về ông tiếp tục sống trong
lòng họ. Họ rất cẩn thận kỹ càng không để một lời chỉ dẫn nào của
nghi thức phụng tự bị sửa đổi hay quên sót. Những dụng cụ dùng vào
việc phát minh ra lửa được cất giữ như những vật thiêng liêng trong
một cái tráp nhỏ và người ta nói là những vật này đem lại sự chữa
lành cho tất cả những ai đặt tay lên đó với lòng tin.
Thầy Trưởng Tế
đích thân nhận lãnh trọng trách soạn thảo Tiểu Sử của Nhà Phát Minh.
Sách này đã trở thành Thánh thư trong đó lòng từ bi nhân ái của ngài
được tôn lên như mẫu mực cho mọi người noi theo, những công trạng
rạng rỡ của ngài được tán dương, bản tính siêu phàm của ngài làm nên
đề mục của đức tin. Các tư tế làm hết sức để Sách đó được lưu truyền
xuống cho các thế hệ mai sau, trong khi họ giữ độc quyền giải thích
ý nghĩa các lời nói của ngài cũng như ý nghĩa đời sống thánh thiện
và cái chết của ngài nữa. Và họ phạt tử hình một cách không thương
tiếc hoặc dứt phép thông công bất cứ ai đi lệch ra ngoài giáo lý của
họ. Bị kẹt trong những nghĩa vụ tôn giáo đó, dân chúng hoàn toàn
quên lãng kỹ thuật làm lửa.
7.- BIẾN THÀNH LỬA
(Trích
Hạnh Các Thánh Tu Rừng)
Viện Phụ Lót
(Lot) là tu viện trưởng tìm tới viện phụ Giu-Se (Joseph) cũng là tu
viện trưởng và nói: "Thưa cha, tuỳ theo khả năng của con, con
tuân giữ luật lệ nhỏ mọn của con cũng như việc ăn chay chút ít của
con, con cầu nguyện, chiêm niệm, giữ thinh lặng; và bao lâu còn có
thể được, con thanh lọc tâm trí con khỏi những tư tưởng xấu. Con
phải làm gì thêm nữa đây"
Viện phụ lớn
tuổi hơn đứng lên trả lời. Ngài giơ đôi tay lên trời và những ngón
tay của ngài biến thành mười ngọn đèn cháy sáng. Ngài nói: "Coi
đây: cha phải biến thành lửa hoàn toàn."
8.- LỜI CẦU
NGUYỆN CỦA NGƯỜI THỢ SỬA GIÀY
Một người thợ sửa giày tới gặp vị giáo trưởng Do-thái là I-xa-ác
(Issac) thuộc dòng họ Gie (Ger) và nói: "Xin thầy nói cho biết
tôi phải làm gì đối với việc đọc kinh ban sáng của tôi. Khách hàng
của tôi là những dân nghèo và chỉ có một đôi giày để mang. Tôi đi
lấy những đôi giày của họ lúc chiều tối và làm việc gần trọn đêm;
vào lúc hừng đông vẫn còn việc phải làm, nếu họ cần có đôi giày sửa
xong trước khi đi làm. Vậy câu hỏi của tôi là: tôi phải làm gì đối
với việc đọc kinh ban sáng của tôi?”
Vị giáo trưởng hỏi: "Ông đã làm gì cho đến bây giờ đây?"
"Đôi khi tôi đọc kinh vội vàng mau chóng rồi trở lại làm việc –
nhưng rồi tôi cảm thấy áy náy về điều đó. Những lần khác, tôi bỏ giờ
kinh sáng luôn. Rồi tôi cũng có cảm giác mất mát điều gì và thỉnh
thoảng, khi tôi giơ cái búa lên khỏi chiếc giày, tôi gần như nghe
tiếng lòng thổn thức: ‘Tôi là một con người bất hạnh làm sao, vì tôi
không thể đọc kinh sáng được’."
Vị giáo trưởng nói: "Nếu tôi là Chúa, tôi coi trọng tiếng thở
dài não nuột đó hơn là lời cầu kinh."
9.- CẦU NGUYỆN
BẰNG NHỮNG MẪU TỰ
Một câu chuyện trong sách
Ha-si-đim (Hasidic)
Vào một chiều tối, một nông dân nghèo, từ phiên họp chợ trở về, mới
biết mình không mang theo quyển sách kinh. Bánh xe bò của ông bị sút
ngay ở giữa rừng và làm cho ông lo lắng là ngày đó sẽ trôi qua mà
ông không đọc kinh được.
Vì vậy, đây là lời cầu nguyện của ông: "Chúa ôi, con đã làm một
việc rất ngu xuẩn. Con đã rời nhà sáng nay mà không mang theo sách
kinh và trí nhớ con lại kém cỏi nên con không thể đọc được một kinh
nguyện nào mà không có sách. Do đó, đây là điều con sắp làm: con sẽ
đọc hết bảng mẫu tự năm lần rất chậm và vì Chúa thấu biết hết
mọi lời kinh, Chúa có thể ráp những chữ cái lại với nhau để làm
thành những lời kinh mà con không thể nhớ được."
Và Chúa đã nói với các thiên thần: "Trong tất cả những kinh
nguyện mà Ta đã nghe hôm nay, chắc chắn lời kinh này phải là hay
nhất, vì nó phát xuất tự đáy lòng đơn sơ và chân thành."
10.- NGHỀ
CHUYÊN MÔN CỦA CHÚA LÀ THA THỨ
Theo thường lệ, người Công giáo xưng tội với một linh mục để nhận
lãnh từ ngài lời xá giải, như là dấu chỉ được Chúa tha thứ. Nhưng
rất thường xảy ra điều nguy hại là những người đi xưng tội sẽ dùng
điều đó như là một thứ đảm bảo, một chứng thư sẽ che chở họ khỏi
hình phạt của Chúa, và như thế họ tin tưởng nhiều hơn vào sự tha tội
của linh mục hơn là vào lòng thương xót của Chúa.
Đây là điều mà Pê-ru-gi-ni (Perugini), một hoạ sĩ người Ý thời
Trung Cổ, đã bị cám dỗ làm khi ông hấp hối. Ông quyết định sẽ không
đi xưng tội nếu, vì sợ hãi mà ông tìm cách để khỏi bị luận phạt. Đó
sẽ là điều phạm thánh và sỉ nhục đến Chúa.
Vợ ông không biết chút gì về tâm trạng của ông, có lần bà đã hỏi
ông là ông không sợ khi chết mà không xưng tội sao. Pê-ru-gi-ni trả
lời: "Em ạ, phải hiểu như thế này: nghề chuyên môn của anh là hội
hoạ và anh đã trở thành một hoạ sĩ xuất sắc. Nghề chuyên môn của
Chúa là thứ tha, và nếu Ngài cũng xuất sắc trong nghề chuyên môn của
Ngài như anh trong nghề của anh thì anh không có lý do gì mà phải sợ
hãi cả."
11.- NGÀI
NA-RA-ĐA (NARADA) ĐỘI BÁT SỮA
Na-ra-đa (Narada), nhà hiền triết Ấn-Độ, là một người rất sùng bái
Thần Ha-ri (Hari). Sự sùng bái của ông lớn lao cho đến đỗi ngày kia
ông dám nghĩ là trên khắp thế gian không có một ai yêu mến Thần hơn
ông.
Thần Ha-ri rõ biết lòng ông nên nói: "Nầy Na-ra-đa, con hãy đi
vào thành này, trên bờ sông Hằng (Ganges)
vì một người sùng bái ta ngụ ở đó. Sống cùng người đó sẽ hữu ích cho
con."
Na-ra-đa ra đi và gặp một nông dân mà sáng ngày
dậy sớm, anh ta chỉ niệm
tên Hari một lần, rồi vác cày đi ra đồng làm lụng suốt ngày. Chỉ tối
trước khi ngủ, anh ta mới niệm tên Hari một lần nữa. Na-ra-đa tự
nghĩ: "Làm sao con người quê mùa đó có thể là một người sùng bái
Thần được? Tôi thấy người ấy suốt ngày đắm đuối trong những công
việc trần thế của anh ta."
Bấy giờ Thần Ha-ri nói với ông Na-ra-đa: "Hãy đổ đầy miệng một
bát sữa và đi vòng quanh thành phố. Rồi trở về mà không đổ một giọt."
Na-ra-đa đã làm như được truyền dạy.
Thần Ha-ri hỏi: "Con đã nhớ ta mấy lần trong khi đi vòng quanh
thành phố?"
Na-ra-đa thưa: "Dạ thưa Thần, chẳng được một lần nào. Làm sao con
có thể làm được, khi Ngài truyền cho con phải canh chừng bát sữa?"
Thần phán: "Bát sữa đã khiến con tập trung hết tâm trí đến nỗi
con đã hoàn toàn quên ta. Nhưng con hãy nhìn người nông phu này, mặc
dù bận tâm với những lo toan nuôi sống gia đình mà anh ta còn nhớ
đến ta mỗi ngày hai lần phải không?"
********
12.-
NGÔI LÀNG LUÔN ĐƯỢC CỨU VỚT
Cha xứ của ngôi làng là một vị thánh nên mỗi khi dân làng gặp
chuyện khó khăn, họ đến cầu viện ngài. Lúc đó cha
lui về một nơi đặc biệt ở trong rừng sâu và đọc một
lời nguyện đặc biệt. Chúa luôn nhậm lời cầu của cha
và dân làng được cứu vớt.
Khi cha chết và lúc dân làng gặp chuyện khó khăn, họ đến cầu viện
vị linh mục kế vị, dù không phải là một vị thánh,
nhưng cha biết sự bí mật về chỗ đặc biệt đó trong
rừng và lời nguyện đặc biệt. Vì vậy cha đã cầu
nguyện như sau: "Lạy Chúa, Chúa biết con không
phải là một vị thánh. Nhưng chắc chắn Chúa không lấy
đó mà khước từ dân làng của con? Vậy xin Chúa nhậm
lời con xin mà cứu giúp chúng con." Và Chúa đã
nhậm lời cầu nguyện của cha và dân làng được cứu
vớt.
Khi cha này cũng chết và lúc dân làng gặp chuyện khó khăn, họ đến
cầu viện vị linh mục kế vị là người biết được lời
nguyện đặc biệt, nhưng không biết chỗ trong rừng. Vì
vậy cha đã cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, Chúa
quan tâm gì đến nơi chốn? Phải chăng mọi chỗ đều
được thánh hóa bởi sự hiện diện của Chúa sao? Vậy
xin Chúa nhậm lời con xin mà cứu giúp chúng con."
Và một lần nữa, Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của cha
và dân làng được cứu vớt.
Rồi cha đó cũng chết và khi dân làng gặp chuyện khó khăn, họ đến
cầu viện vị linh mục kế vị là người chẳng biết lời
nguyện đặc biệt hay chỗ đặc biệt ở trong rừng. Vậy
cha đó cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, công thức
không phải là điều Chúa coi trọng, nhưng là tiếng
kêu thống thiết từ con tim. Vậy xin Chúa nhậm lời
con cầu xin mà cứu giúp chúng con." Và một lần
nữa, Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của cha và dân làng
được cứu vớt.
Sau khi cha đó chết và khi dân làng gặp khó khăn, họ đến cầu viện
vị linh mục kế vị. Nhưng cha này quen với tiền tài
hơn là kinh nguyện. Do đó cha đã cầu nguyện với Chúa
như sau: "Chúa là loại thần thánh nào mà khi Chúa
hoàn toàn đủ sức giải quyết những khó khăn do chính
Chúa đã gây ra thì Chúa lại từ chối nhấc ngón tay
lên cho đến khi chúng con khấu đầu khuất phục và van
xin! Chúa muốn làm gì với dân làng thì cứ làm."
Rồi cha trở lại ngay với việc kinh doanh còn bỏ dở.
Và, một lần nữa, Chúa đã nghe lời cha cầu xin và dân
làng được cứu vớt.
13.- LỜI CẦU NGUYỆN CÓ THỂ CHẾ NGỰ THỜI TIẾT?
Một bà già là một người làm vườn hăng say đã tuyên bố là bà không
chút mảy may tin tưởng những tiên đoán là một ngày
nào đó các khoa học gia sẽ biết cách chế ngự thời
tiết. Theo bà, tất cả những gì cần thiết để chế ngự
thời tiết là lời cầu nguyện.
Thế rồi vào một mùa hè kia, khi bà đi du lịch ngoại quốc, một cơn
hạn hán xảy ra trên toàn quốc và hủy hoại toàn bộ
mảnh vườn của bà. Khi trở về, bà thất vọng đến đỗi
đã cải giáo luôn.
Đáng lẽ
bà nên thay đổi những niềm tin ngớ ngẩn của bà.
14.- SỰ ĐÁP TRẢ TRÌ HOÃN CỦA NỮ THẦN LÁC-SI-MI
(LAKSHMI)
Những lời
cầu xin của chúng ta không nên được Chúa đáp trả,
nếu sự đáp trả không đúng lúc
Ở Ấn-Độ xưa kia, người ta tin tưởng rằng những việc cầu cúng theo
những nghi lễ Vệ-Đà mang tính khoa học khi được áp
dụng, đến nỗi lúc các vị trưởng lão cầu mưa thì
chẳng bao giờ có hạn hán. Do đó một người đã yên tâm
cầu khẩn nữ thần tài Lác-si-mi (Lakshmi), theo các
nghi lễ đó, để van xin thần cho được giàu có.
Ông đã cầu xin suốt mười năm trường mà không
kết quả gì. Sau thời gian đó, đột nhiên ông nhận
thấy tính cách phù du của sự giàu sang và đã chấp
nhận cuộc sống của người xuất gia (renunciate)
trên dãy Hi-Mã-Lạp-Sơn.
Một ngày kia, ông đang ngồi thiền định, khi ông mở mắt ra và thấy
trước mặt mình một bà xinh đẹp tuyệt vời, sáng chói
và lóng lánh như thể bằng vàng.
Ông hỏi: "Bà là ai và bà đang làm gì ở đây?"
Người đàn bà đáp: "Ta là nữ thần Lác-si-mi mà ngươi đã tụng niệm
suốt mười hai năm. Ta hiện ra để ban cho ngươi điều
ngươi mong ước."
Ông đó la lên: "Ôi! Ngài nữ thần kính yêu, từ lâu
tôi đã đạt được sự an lạc trong thiền quán và không
còn chút gì hứng thú về sự giàu sang. Ngài đến quá
trễ rồi. Xin Ngài nói cho tôi rõ tại sao Ngài đã đến
quá trễ như vậy?"
Nữ thần trả lời: "Cứ sự thật mà nói, bằng vào bản
chất những nghi lễ cầu cúng đó mà con đã trung thành
tuân theo thì con đã đáng được sự giàu sang một cách
sung mãn rồi. Nhưng vì ta yêu con và cũng mong ước
sự phúc lợi cho con nên ta đã kìm giữ lại."
Nếu bạn được chọn lựa, bạn sẽ chọn điều nào:
lời cầu xin của bạn được chấp nhận
hay ơn phước được sự bình an,
cho dù lời cầu xin của bạn có được chấp nhận hay
không?
15.- LỜI CẦU NGUYỆN CỦA TRẺ CON
Một ngày kia, vị giáo sĩ Hồi giáo Nas-ru-đin
(Nasruddin) thấy ông hiệu trưởng trường làng
dẫn một đám trẻ con đi vào đền thờ Hồi
giáo.
Vị giáo sĩ hỏi: "Ông đưa đám trẻ con vào
đó để làm gì?"
Ông hiệu trưởng trả lời: "Có một cơn hạn
hán trong xứ và chúng tôi tin tưởng lời van
xin của những trẻ thơ vô tội sẽ cảm động con
tim Đấng Tối Cao."
Vị giáo sĩ nói: "Không phải những lời van
xin, cho dù của kẻ vô tội hay của người có
tội mới đáng kể, nhưng là sự khôn ngoan và
sự tỉnh thức."
Ông hiệu trưởng la lên: "Làm sao ngài dám
thốt lên một câu phạm thượng như thế trước
mặt đám trẻ con này! Hãy chứng minh điều
ngài đã nói, bằng không ngài sẽ bị tố cáo là
một kẻ lạc giáo."
Ngài Nas-ru-đin nói: "Quá dễ. Nếu lời cầu
xin của trẻ con mới đáng kể cho bất cứ điều
gì thì sẽ không có một ông hiệu trưởng nào ở
khắp trong nước, vì không có điều gì chúng
ghét cho bằng phải đi học. Lý do ông vẫn
sống còn sau những lời cầu nguyện đó là vì
chúng tôi biết rõ hơn đám trẻ con nên đã giữ
ông lại nơi vị thế của ông hiện có, phải
không?"
16.- MỘT KẺ QUẤY RẦY KHÔNG THỂ CHỊU NỔI
Một cụ già đạo đức cầu nguyện năm lần mỗi
ngày, trong khi người hùn vốn kinh doanh với
cụ chả bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Và giờ
đây vào ngày sinh nhật thứ tám mươi, cụ đã
cầu nguyện như sau:
"Ôi lạy Chúa! Từ thuở thiếu thời, không
một ngày nào mà con bỏ qua chẳng đi tới nhà
thờ vào buổi sớm mai và đọc kinh cầu nguyện
vào năm lần nhất định. Không một cử động đơn
thuần nào, không một quyết định quan trọng
hay tầm thường nào con đã làm mà trước hết
không kêu cầu Thánh Danh Ngài. Và con đã
tăng gấp đôi những việc đạo đức và cầu
nguyện Chúa ngày đêm không ngừng nghỉ.
Tuy nhiên, con nay đói rách như con chuột
lột trong nhà thờ. Nhưng xin Chúa hãy nhìn
người bạn hùn vốn kinh doanh với con. Hắn ta
chè chén cờ bạc và mặc dù tuổi cao, hắn vẫn
giao du thân mật với những người đàn bà phẩm
hạnh rất đáng ngờ vực, tuy nhiên hắn ta vẫn
sống trong sự giàu sang. Con tự hỏi không
biết có lời kinh nào thốt ra từ cửa miệng
của hắn bao giờ không. Giờ đây, Chúa ôi! Con
không xin Chúa trừng phạt hắn, vì điều đó
không phải là tính cách của Kitô hữu. Nhưng
xin Chúa hãy cho con biết: tại sao, tại sao
và tại sao...Chúa lại để cho hắn ta giàu có
và tại sao Chúa đã đối xử với con như vậy?"
Chúa trả lời: "Bởi vì con là một kẻ quấy
rầy không chịu nổi như thế đó!"
Luật Lệ trong tu viện không khẳng định: "Chớ
nói chuyện", nhưng: "Chớ nói chuyện trừ khi
bạn có thể giữ im lặng được."
Điều này không có thể áp dụng được như thế
đối với việc đọc kinh cầu nguyện hay sao?
17.- VỀ LỜI CẦU NGUYỆN VÀ NGƯỜI CẦU
Bà nội hỏi cháu: "Cháu có cầu nguyện mỗi
tối không?”
Cháu trả lời: "Dạ có!"
"Và mỗi sáng?"
"Dạ không.
Ban ngày con không sợ."
***
Sau khi chiến tranh kết thúc, bà cụ già mộ đạo nói: "Chúa đã rất
nhân hậu đối với chúng ta. Chúng ta đã cầu
nguyện và cầu nguyện rất nhiều nên tất cả
bom đạn đều rơi về phía bên kia thành phố!"
***
Cuộc bách hại của Hít-le (Hitler) đối với các người Do Thái đã đến
mức không thể chịu đựng được nữa nên hai
người Do Thái quyết định ám sát ông ta. Họ
rình rập, tay ôm súng sẵn sàng nhả đạn, ở
một nơi mà họ biết Lãnh Tụ Hít-le sẽ đi qua.
Chờ mãi mà chưa thấy ông đến, một tư tưởng
khủng khiếp đến với Sa-mu-en (Samuel) nên
hắn ta bảo bạn: "Giô-su-a (Joshua)
ơi, hãy đọc một kinh nguyện đi để đừng có
chuyện gì xảy tới cho ông ta!"
***
Họ có thói quen mời người dì đạo đức mỗi năm đi chơi ngoài trời với
họ. Năm nay, họ quên bẵng đi. Khi lời mời
tới vào phút chót, bà nói: "Bây giờ quá
trễ rồi: dì đã cầu nguyện cho trời đổ mưa."
18.- TÔI CÓ THỂ GIÚP BÀ ĐƯỢC KHÔNG?
Một linh mục quan sát một phụ nữ ngồi trong nhà thờ vắng vẻ một
mình, hai tay ôm đầu.
Một giờ trôi qua. Rồi hai giờ. Bà vẫn còn ngồi đó.
Tưởng rằng bà ta bị khủng hoảng tinh thần, vì nóng lòng muốn giúp
đỡ, cha đi về phía bà và nói: "Tôi có thể
giúp bà được gì không?"
Bà nói: "Dạ không, cám ơn cha. Con đã nhận được mọi sự giúp đỡ
cần thiết rồi."
Cho đến khi bị cha gián đoạn!
19.- CẢ HAI CHỈ NGHE. KHÔNG AI NÓI
Một ông cụ thường ngồi bất động hàng giờ cho đến cuối ở trong nhà
thờ. Ngày kia, một vị linh mục hỏi cụ rằng
Chúa đã nói gì với cụ.
Cụ trả lời: "Chúa không nói. Chúa chỉ nghe thôi."
"Tốt. Vậy cụ đã nói những gì với Ngài?"
"Con cũng không nói. Con chỉ nghe thôi."
Bốn cấp bậc cầu nguyện:
Tôi nói, Chúa nghe.
Chúa nói, tôi nghe.
Không ai nói, cả hai đều nghe.
Không ai nói, không ai nghe: im lặng.
***
Tu sĩ Hồi giáo Ba-gia-zít Bít-ta-mi (Bayazid
Bistami) mô tả những tiến bộ của ông trong
nghệ thuật cầu nguyện như sau: "Lần
đầu tiên khi tôi tham viếng đá thánh Ka-a-ba
(Kaaba)
ở Mét-ca (Mecca), tôi chỉ
thấy đá thánh Ka-a-ba. Lần thứ hai, tôi đã
thấy Chúa của đá thánh Ka-a-ba. Lần thứ ba,
tôi chả thấy đá thánh Ka-a-ba, mà cũng chả
thấy Chúa của đá thánh Ka-a-ba."
20.- VUA ÁC-BA CẦU NGUYỆN
Hoàng đế Hồi giáo của Ấn Độ
là Ác-ba (Akbar), một ngày kia đi
săn bắn trong rừng. Khi đến giờ cầu
nguyện ban chiều, vua xuống ngựa,
trải thảm trên đất và quì gối cầu
nguyện, theo cách thức những người
Hồi giáo ngoan đạo ở khắp nơi.
Nhưng ngay lúc đó, một bà nhà quê, hoảng hốt vì sự biệt tăm tích
của ông chồng đã rời nhà ra đi lúc
sáng sớm hôm đó mà không trở về nên
đã cắm đầu cắm cổ chạy băng qua đó,
lo lắng tìm chồng. Vì quá bận tâm,
bà đã không để ý nhà vua đang quì
mọp xuống đất và đã vấp phải vào
ngài, rồi chỗi dậy mà chạy xa trong
rừng, không một lời tạ lỗi.
Vua Ác-ba tức giận bởi sự gián đoạn này, nhưng vì là một người Hồi
giáo ngoan đạo, nhà vua đã tuân giữ
luật không được nói với bất cứ ai
trong giờ cầu kinh.
Nhưng đúng vào lúc giờ cầu kinh vừa chấm dứt, người đàn bà trở lại
rất vui vẻ, có ông chồng mà bà đã
tìm được đi theo. Bà ta hốt hoảng và
sợ hãi khi nhận ra nhà vua và đoàn
tùy tùng ở đó. Vua Ác-ba nổi giận
với bà và la lớn: "Hãy giải thích
cho trẫm thái độ bất kính của nhà
ngươi, bằng không nhà ngươi sẽ bị
trừng phạt."
Người đàn bà đó phút chốc quên hết mọi sợ hãi, nhìn thẳng vào đôi
mắt vua và thưa: "Muôn tâu Hoàng
Thượng, kẻ hèn này đã bị chi phối
bởi ý nghĩ về người chồng của kẻ hèn
nên đã không thấy Hoàng Thượng ở
đây, ngay cả khi kẻ hèn vấp ngã lên
Hoàng Thượng, như Hoàng Thượng đã
phán. Còn Hoàng Thượng, khi đang cầu
nguyện, Hoàng Thượng đã bị thu hút
bởi một Đấng cao quí hơn chồng của
kẻ hèn nầy muôn vạn lần. Vậy làm sao
Bệ Hạ để ý thấy được kẻ hèn?"
Nhà vua rất đỗi xấu hổ, lặng thinh và về sau, đã thổ lộ tâm tình
với bạn bè là một bà nhà quê không
phải là một học giả, cũng không phải
là một tu sĩ Hồi giáo mà đã dạy vua
ý nghĩa của sự cầu nguyện.
21.- CON BÒ ĐỰC ĐIÊN TIẾT
Lần
kia, Minh Sư đang cầu nguyện. Các đệ
tử tới gặp ông và nói: "Thưa
thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện
thế nào." Và ông đã dạy họ như
thế này…
Ngày
kia, có hai người đàn ông rảo bước
qua một cánh đồng, họ thấy một con
bò đực điên tiết. Tức thì họ cắm đầu
chạy về phía hàng rào gần nhất,
trong khi con bò đực giận dữ chạy
theo bén gót. Rõ ràng sớm muộn gì họ
cũng không thoát hiểm, vì vậy một
trong hai người la lớn với người
kia: "Chết rồi! Không thoát được
đâu. Hãy đọc một lời kinh đi. Mau
lên!"
Người
kia la lại: "Cả đời tôi chả cầu
nguyện bao giờ và tôi chả có lời cầu
kinh nào cho trường hợp này!"
"Không
sao đâu. Con bò đực sắp đuổi kịp
chúng ta rồi. Lời cầu kinh nào cũng
được cả."
"Được
rồi. Tôi sẽ đọc lời cầu kinh mà tôi
nhớ lại ba tôi hay đọc trước khi ăn:
Lạy Chúa, đối với những gì chúng con
sắp nhận lãnh, xin làm cho chúng con
thực sự biết ơn."
Không
có gì trỗi vượt sự thánh thiện của
những ai biết hoàn toàn chấp nhận
mọi sự xảy ra như thế.
Trong
ván bài gọi là cuộc đời, người ta
sát phạt bằng quân bài mà họ được
chia với hết khả năng của họ.
Kẻ
nào cứ nhất định sát phạt không phải
bằng những quân bài đã được chia,
nhưng bằng những quân bài họ nhất
định phải có bằng được – kẻ đó sẽ
thất bại trong cuộc sống.
Chúng
ta không được hỏi là có muốn sát
phạt hay không. Đó không phải là một
sự lựa chọn. Chúng ta phải sát phạt.
Sự lựa chọn là sát phạt như thế nào.
22.- CẦU XIN CHẤP NHẬN
CUỘC SỐNG
Ngày kia một vị giáo trưởng
Do Thái giáo hỏi một cậu học
sinh điều gì đã làm cho em
buồn phiền.
Câu trả lời: "Sự khó
nghèo của con. Hoàn cảnh của
con khổ sở đến nỗi con phải
vất vả lắm để học hành và
cầu nguyện."
Vị giáo trưởng nói: "Trong
thời đại này, cách cầu
nguyện hay nhất và cách học
hành hay nhất là ở chỗ biết
chấp nhận cuộc sống đúng như
người ta nhận được."
23.- VÀO MỘT NGÀY LẠNH TRỜI,
CHẾT CÓNG
Vào một ngày trời lạnh như
cắt, một vị giáo trưởng Do
Thái và đồ đệ ngồi tụm quanh
một bếp lửa.
Một đệ tử trong khi nhắc lại
những giáo huấn của thầy, đã
nói: "Vào một ngày đông
giá như thế này, tôi biết
chắc phải làm gì!"
Các đồ đệ khác hỏi: "Làm
gì?"
"Sưởi ấm! Và nếu không
thể làm được, tôi còn biết
phải làm gì nữa."
"Làm gì?"
"Chết cóng."
***
Thực Tại chắc hẳn không thể
phải bị loại bỏ hay phải
được chấp nhận.
Trốn chạy thực tại cũng như
trốn chạy khỏi đôi chân mình.
Chấp nhận thực tại thì giống
như hôn đôi môi mình.
Tất cả những gì người ta cần
phải làm là nhìn thấy, tìm
hiểu và yên nghỉ.
24.- LÀM BẠN VỚI RỒNG
Một người tới gặp bác sĩ trị
bệnh tâm thần và cho biết
đêm nào cũng có một con rồng
mười hai chân và ba đầu đến
viếng thăm ông. Ông ta hết
sức hoảng sợ, không tài nào
ngủ được và gần như hoàn
toàn suy sụp. Ông ta nghĩ cả
đến việc tự vẫn nữa.
Bác sĩ tâm thần nói: "Tôi
tưởng tôi có thể giúp ông
được, nhưng tôi phải báo cho
ông biết trước là ông sẽ mất
một hay hai năm và sẽ tốn ba
ngàn đô-la."
Người đó la lên: "Ba ngàn
đô-la lận! Thôi đi. Tôi chỉ
cần về nhà và làm bạn với
nó!"
***
Ngài Fa-rít (Farid) là một
nhà chiêm niệm người Hồi
giáo, được các người lối xóm
thuyết phục đi đến triều
đình ở Đề-li (Delhi) để xin
hoàng đế Ác-ba (Akbar) một
đặc ân cho dân làng. Khi ông
Fa-rít đến nơi bệ rồng thì
nhằm lúc Hoàng Đế Ác-ba đang
cầu kinh.
Cuối cùng khi Hoàng Đế xuất
hiện, ông Fa-rít thưa: "Bẩm,
Hoàng Thượng đã cầu nguyện
những gì?"
Nhà vua đáp: "Trẫm đã xin
Đấng Đại Từ Đại Bi ban cho
trẫm được thành công, giàu
sang và trường thọ."
Ông Fa-rít lập tức quay lưng
lại với Hoàng Đế, vừa đi vừa
nhận xét như sau: "Tôi đã
đến để bệ kiến một vị Hoàng
Đế. Người mà tôi gặp được ở
đây lại là một kẻ ăn xin
cũng giống như bao người ăn
xin khác!"
25.- CHÚA Ở NGOÀI ĐÓ
Xưa có một người đàn bà rất
đạo đức và sùng đạo cùng mến
Chúa hết mình. Mỗi buổi sáng
bà đều đi nhà thờ. Và đi dọc
đường, trẻ con kêu réo,
những người ăn xin chạy
theo, nhưng bà cứ đắm chìm
trong sự sùng kính mộ đạo
của mình đến nỗi bà cũng
chẳng thấy họ nữa.
Thế rồi, một ngày kia, bà
cũng đi đường như thường lệ
và tới nhà thờ đúng lúc
phụng vụ bắt đầu. Bà đẩy cửa
vào, nhưng cửa đóng chặt. Bà
đẩy mạnh hơn nữa, mới biết
cửa đã khóa lại.
Bàng hoàng khi nghĩ tới mình
bị hụt lễ lần đầu tiên trong
nhiều năm qua và không biết
phải làm gì đây, bà ngước
mắt lên. Và kìa, ở ngay
trước mặt, bà bắt gặp một
mảnh giấy gắn trên cửa.
Miếng giấy ghi: "Ta ở
ngoài đó!"
***
Người ta nói về một vị thánh
kia có thói quen mỗi khi rời
nhà để đi cử hành phụng vụ,
ông thường nói: "Chúa ôi,
giờ đây con xin tạm biệt
Chúa! Con phải rời nơi đây
để đi Nhà Thờ!"
26.- ĐAN SĨ VÀ CON CHIM
Một đan sĩ ngày kia đi bách
bộ trong khuôn viên đan
viện, chợt nghe một con chim
hót.
Ngài nghe một cách ngây
ngất. Xem như trước kia ngài
chưa bao giờ nghe, chưa từng
thực sự lắng nghe, tiếng hót
của một con chim.
Khi tiếng chim ngừng bặt,
ngài trở về đan viện và buồn
bã làm sao, ngài khám phá ra
mình là một người xa lạ với
các anh em đan sĩ và họ cũng
xa lạ với ngài.
Và chỉ dần dần, họ và ngài
mới khám phá ra rằng ngài đã
trở về sau hằng bao thế kỷ.
Vì sự lắng nghe của ngài có
tính cách toàn diện nên thời
gian đã ngưng đọng và ngài
đã đi vào cõi thiên thai.
***
Sự cầu nguyện đạt tới tuyệt
đỉnh khi sự vô thời gian
được cảm nghiệm.
Sự vô thời gian được cảm
nghiệm nhờ vào sự sáng suốt
của nhận thức.
Sự nhận thức trở nên sáng
suốt khi thoát khỏi những
thành kiến và mọi cân nhắc
việc mất còn hay được thua
của cá nhân.
Rồi thì phép lạ được tỏ bày
và con tim được tràn đầy sự
huyền diệu.
27.- GỠ BĂNG BỊT MẮT RA
Khi Minh Sư mời ông Thống
Đốc thực hành chiêm niệm và
ông Thống Đốc cho biết ông
rất bận rộn. Đây là câu trả
lời mà ông nhận được:
"Ngài làm cho tôi hình
dung ra một người bị bịt mắt
bước đi trong rừng rậm – và
quá bận rộn để gỡ giải băng
bịt mắt ra."
Khi ông Thống Đốc biện hộ
rằng ông không có thì giờ,
Minh Sư nói: "Thật là sai
lầm khi nghĩ rằng không thể
thực hành chiêm niệm vì
không có thì giờ. Lý do đích
thực là vì đầu óc quá náo
động."
28.- ĐÔI CHÂN GÁC LÊN BÀN
Một chuyên viên lo về việc
thẩm định hiệu năng nhân
viên đã làm tờ trình cho ông
Hen-ri Pho (Henry Ford) như
sau: "Thưa ông, như ông
đã rõ biết, tờ trình rất tốt
đẹp, ngoại trừ người đàn ông
ở cuối phòng. Mỗi lần tôi đi
ngang qua, ông ta đều ngồi
gác cẳng lên bàn. Ông ta
đang lãng phí tiền bạc của
ông."
Ông Pho nói: "Người đàn
ông đó có lần đã đưa ra một
ý kiến đáng giá ngàn vàng.
Vào lúc đó, tôi tin rằng đôi
chân ông ta ở đúng ngay vào
vị thế của chúng bây giờ
."
***
Có một người tiều phu mệt
mỏi cứ mất thời giờ và sức
lực đốn cây với
cái rìu cùn nhụt vì ông ta
nói ông không có thời giờ
ngừng lại để mài lưỡi rìu
cho bén.
29.- NGÔI THÁNH ĐƯỜNG
TRONG RỪNG
Xưa kia có một cánh rừng mà
chim hót ban ngày và côn
trùng nỉ non ban đêm. Cây
cối sum sê, bông hoa nở rộ
và tất cả mọi sinh vật rong
chơi tự do.
Và tất cả những ai vào đó,
được đưa vào cõi Tĩnh Mịch
là nhà của Chúa – Đấng ngự
trị nơi thinh lặng và mỹ lệ
của Thiên Nhiên.
Nhưng rồi Thời Đại của sự Vô
Ý Thức đến, khi con người có
thể xây cất những tòa nhà
cao cả hàng trăm thước và
phá huỷ sông ngòi cùng rừng
núi trong vòng một tháng. Vì
vậy những ngôi nhà thờ
phượng được xây cất bằng gỗ
cây rừng và bằng sỏi đá lấy
ở dưới đất rừng. Những tháp
nhọn, tháp hình chóp và tháp
giáo đường Hồi giáo đã chĩa
thẳng lên trời: không trung
vang rền tiếng chuông, cùng
với tiếng kinh, tiếng hát và
lời cầu khẩn.
Và bỗng nhiên, Chúa không
còn nơi trú ngụ.
***
Chúa che giấu những sự vật
bằng cách đặt để chúng
trước mắt ta!
Hãy để ý nghe!
Hãy lắng nghe tiếng chim
hót, tiếng gió rì rào trên
cây, tiếng gầm của biển cả;
Hãy ngắm nhìn một cành cây,
một chiếc lá rơi, một cánh
hoa như thể là nhìn thấy lần
đầu.
Đột nhiên bạn có thể được
tiếp xúc với Thực Tại, với
cái Thiên Đàng đó mà chúng
ta, đã vấp ngã từ thuở nhỏ,
là đã để tri thức ngăn trở
mình.
Nhà thần bí Ấn Độ là
Sa-ra-ha (Saraha) nói:
"Hãy biết thưởng thức
hương vị đó là sự vắng bóng
của Tri Thức."
|