|
THIÊN CHÚA CỦA
ĐỨC GIÊSU
CN V PS A
Phúc Âm Thánh Gioan
chương 14 là lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nó có cấu
trúc xoay quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Con và vai trò độc
nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn các môn đệ về với Chúa Cha.
Tôma và Philípphê
đã hỏi Chúa 2 câu và Chúa đã mạc khải 2 chân lý hết sức quan trọng:
- Thầy là đường
là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua
Thầy.
- Ai thấy Thầy
là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.
Chỉ có thể đạt tới
Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự
Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại
không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn
Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu
là Con ( x. Gm. Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng
thương xót, trang 184 ). Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và
yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa
hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô "Ai thấy Thầy là thấy Cha" ( Ga
14, 9 ) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy" ( Ga 14, 10
).
Toàn bộ Lịch Sử Cứu
Độ được xây dựng trên tương quan Cha - Con " Chúa Cha yêu Chúa Con".
Hai chữ Tình Yêu là cách diễn tả sâu thẳm nhất tương qua Cha- Con.
Tình yêu đó được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung
vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm
của Chúa Cha ( Ga 14, 10 ). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha
chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và
trái tim Chúa Cha.
Chúa Giêsu dạy cho
chúng ta biết về Chúa Cha bằng nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc
làm, nhưng nhất là chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách
khác nhau, Chúa Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha,
Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác ( Mt 6, 32 ), noi gương ( Mt 5,
45 - 48 ), nguyện cầu ( Lc 11, 2 ), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa
trời đất ( Mt 10, 28 ), là Cha đầy quan tâm ân cần ( Mt 6, 25 - 32 )
và đặc biệt gần gũi với những kẻ tội lỗi ( x. sđd tr. 191 ).
Điều kỳ diệu và
tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh
Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với
quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi
Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu
đuối cách nghịch thường. Điều đó , sự khôn ngoan của bậc hiền triết
không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì
nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là
Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không
dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm
sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên
Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm
người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng
Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội
làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các Môn Đệ, rồi chọn cây thập
giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi
vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Dakêu để tạm
trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận
cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm
lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ
Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại...
Quả thật Thiên Chúa
của Đức Giêsu chẳng giống tí nào với Thiên Chúa các đạo binh của
Ítraen. Người Do thái nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ về phe với dân Người
chọn, chỉ bênh vực những người Do thái ngoan Đạo và lên án nguyền
rủa, trừng phạt các dân ngoại cùng người tội lỗi. Thiên Chúa của Đức
Giêsu không về phe với kẻ cầm quyền độc ác, người giàu có ích kỷ hay
người đạo đức giả. Vì thế các bậc kinh sư, tư tế, kỳ lão trong dân
không chấp nhận Thiên Chúa ấy mà trái lại họ đã giết Đức Giêsu để
bảo vệ Thiên Chúa của họ. Họ đã giết Đấng Thánh để bảo vệ đền thờ,
đã chà đạp và xoá bỏ "hình ảnh Thiên Chúa vô hình" ( Cl 1, 15
) để bảo vệ Thiên Chúa của lề luật.
Thiên Chúa của Đức
Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta cũng không phải là Thiên Chúa của các
triết gia, không phải là Thiên Chúa của các nhà du hành vũ trụ tìm
kiếm mà là Người Cha nhân hậu, từ bi, đầy lòng thương xót. Người chỉ
muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế. Người không phải là Người Cha
nghiêm khắc độc đoán, Người Cha dễ tính xuề xoà mà là Người Cha yêu
thương, tha thứ. Một Người Cha chuẩn bị sẵn sàng quần áo, giày dép,
nhẫn đeo tay và vỗ béo con bê chờ sẵn đứa con hoang đàng trở về và
hơn thế nữa còn ra ngoài ngóng trông rồi vui sướng tiến về phía con
đón nó vào lòng hôn lấy hôn để ( Lc 15, 11 - 32 ). Lòng nhân hậu
được tỏ bày khi tha thứ. Thánh Phaolô là người cảm nhận sâu xa lòng
từ bi, nhân hậu, thứ tha ấy ( 2 Cr 3, 7 - 11 ).
"Thiên Chúa
không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính
Người đã thông tri" ( Ga 1, 18 ). Con người có thể biết Thiên
Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy
khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu
xa của Thiên Chúa "Ai thấy Thầy là thấy Cha". Qua cuộc sống
và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một
Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ và
còn hơn thế nữa Chúa Giêsu là Con đường độc nhất dẫn đến Cha "Không
ai đến được với Cha mà không qua Thầy" ( Ga 14, 6 ). Mọi con
đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. "Thiên Chúa không
ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được
ơn cứu độ" ( Cv 4, 12 ). Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức
Giêsu.
Đức Giêsu đã về với
Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh, sau khi đã sống một đời yêu
thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta
đi. Đọc và suy niệm Tin Mừng trong tin yêu, Chúa sẽ dạy chúng ta
nghĩ gì, nói gì, làm gì. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng
ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về
Thiên Chúa là Cha yêu thương.
Lm Giuse
Nguyễn Hữu An
|