|
Tôi vẫn lạc quan vì gặp được nhiều người tốt bụng.
Năm nay tôi đã ngoài 70 tuổi rồi. Cuộc đời đã trải qua nhiều thăng trầm sóng gió, đã nếm nhiều nỗi đắng cay tủi nhục khi phải chạy loạn, tản cư, bỏ học, di cư, gia đình ly tán vì nạn cộng sản đàn áp… Rồi chính bản thân còn bị cầm tù lúc đã vào tuổi 60. Dẫu vậy, tôi vẫn lạc quan, yêu đời. Bởi lẽ so sánh với nhiều người bạn cùng trang lứa khác, thì tôi vẫn còn may mắn hơn nhiều. Trước hết là tuổi thơ ấu của tôi cho đến trước năm 1945, thì thật là êm đềm hạnh phúc vì được sống trong một gia đình ở miền quê với cha mẹ và anh chị em thật ấm cúng, thuận hòa. Là con trai thứ, nhưng tôi lại hay được cha dẫn đi theo thăm viếng bà con chỗ này chỗ nọ; mà đi đâu cũng được cô bác chiều chuộng quý mến. Khi ở nhà thì lại hay được mẹ vỗ về sai bảo làm chuyện này chuyện nọ, và hay được bà kể cho nghe đủ thứ chuyện của bà con dòng họ, cho đến chuyện làng, chuyện nước, nhất là chuyện đạo nghĩa kinh sách. Bà con xa gần thì phần lớn lại ở chung trong làng hay mấy làng lân cận, nên tôi hay được đến thăm viếng vào các dịp lễ tết, thật là nhiều kỷ niệm dễ thương.Tôi sẽ viết chi tiết về chuyện trong dòng họ, để lũ con cháu hiểu biết được cái truyền thống tốt đẹp của đại gia đình các cháu phát xụất từ miền đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Đến khi lớn tuổi đi học xa nhà, thì cũng gặp được nhiều thầy giáo chăm sóc chỉ dậy tận tình cho; nhờ vậy mà trí óc mở mang và tâm hồn khoáng đạt thông thoáng rất nhiều. Tuy việc học bị gián đoạn vì chiến tranh, tôi vẫn được khích lệ để theo đuổi hết bậc đại học, và rồi còn được đi du học tu nghiệp cả bên nước ngoài nữa. Đâu đâu, tôi cũng gặp được những bậc thầy và bạn học rất tốt, luôn nâng đỡ hỗ trợ cho mình. Kỷ niệm ở các trường tôi theo học thì rất nhiều, tôi sẽ lai rai viết cho các nội san của cựu học sinh như Trung học Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn là những trường tôi đã theo học ở ngoài Bắc. Chính cái kỷ niệm với bạn đồng môn hồi còn là học sinh Trung học thì lại thân thiết, sâu đậm và bền bỉ hơn là giữa các sinh viên Đại học như ở trường Luật Saigon vào tuổi trưởng thành sau này. Lúc ra trường đi làm, thì tôi cũng lại gặp được nhiều “quý nhân phù trợ”, kể cả khi nhập ngũ đi lính, thì vẫn được đối xử tử tế, chứ khộng gặp cảnh bị “đầy ải, bị đì” như một số người thường hay gặp. Mà cả lúc phải ở trong tù cộng sản từ 1990 đến 1996, thì tương đối tôi cũng không đến nỗi bị đối xử tàn tệ lắm, so với những tù nhân chính trị mà bị giam giữ vào những năm liền sau 1975, thì họ bị giam giữ rất khắt khe, với kỷ luật sắt máu, đầy tính cách hận thù từ phía cán bộ công an cộng sản thuộc phe thắng trận. Trong một dịp thuận tiện, tôi sẽ ghi lại chi tiết về chuyện những ngày tù đầy của tôi, và sẽ có mục viết về cách đối xử của một số cán bộ cai tù đối với tù nhân chính trị như tôi, tại các trại giam cộng sản ở Việt nam hồi đầu thập niên 1990.
* * * Trong bài này, tôi muốn viết về một số người Mỹ đã đối xử rất thật tình và quý mến với tôi từ mấy chục năm nay.Vì tôi chuyên làm việc xã hội với tư cách thiện nguyện, nên dễ dàng quen biết với các bạn bè người Mỹ kể từ 1964-65 cho đến ngày nay. Chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm khó quên với nhau, đến nỗi dù có bị gián đoạn sau 1975, thì kể từ ngày tôi qua định cư tại Mỹ năm 1996, chúng tôi lại gặp gỡ, liên kết với nhau mỗi ngày cáng thắm thiết hơn. 1/ Dick Hughes: người đã cứu tôi ra khỏi nhà tù cộng sản. Có thể nói Dick Hughes là người bạn thân tình nhất trong số các bạn người Mỹ của tôi. Chúng tôi sát cánh với nhau trong việc chăm sóc cho các em bé đánh giày ở Việt nam từ hồi năm 1968. Dick tốt nghiệp về ngành kịch nghệ, nhưng lại qua Saigon để làm phóng biên nhà báo, giữa lúc chiến tranh thật sôi động sau vụ tấn công Tết Mậu thân. Vốn có lòng nhân đạo, Dick thương cảm với nỗi khốn cùng của các trẻ “Bụi đời”, sống lang thang trên các hè phố Saigon. Nên đã cho mấy em về tá túc tại nhà anh thuê mướn chung với một người bạn khác. Rồi sau này, các em kéo đến đông quá, khiến lần hồi Dick phải mời gọi một số bạn hữu giúp đỡ và đó là nguyên do phát sinh ra một chương trình xã hội lấy tên là “Shoeshine Boys Foundation”, mà tôi là một thành viên trong Hội đồng Quản trị (Board member), làm việc hoàn toàn tự nguyện, chứ không nhận một khoản luơng hay trợ cấp nào.Là nghệ sĩ, mà cũng là nhà báo, nên Dick quen biết rất nhiều giới và được nhiều người hỗ trợ cho việc xã hội từ thiện này. Nhưng khi tôi bị công an cộng sản bắt năm 1990, mà còn bị ghép cho cái tội “làm gián điệp, cộng tác thân mật vớí người Mỹ, trong đó có Dick Hughes mà bị coi như là một thứ CIA”; thì Dick đã không thể khoanh tay bất lực để cho bạn mình ngồi tù oan ức như tôi được nữa. Và anh đã ngày đêm vận động khắp nơi, kêu gọi các giới chức mọi ngành nghề, kể cả dân biểu nghị sĩ, giới trí thức, văn nghệ sĩ và cả giới lãnh đạo chính quyền hợp sức làm áp lực với cộng sản Hanoi phải trả tự do cho tôi. Và kết cục, tôi đã được trả tự do vào năm 1996; nếu không có Dick thì tôi còn bị tù thêm nhiều năm nữa, bởi lẽ án tù của tôi là 12 năm thật là dài kinh khủng. Cháu Khiết là con trai lớn của tôi đã qua Mỹ từ lâu, nên biết rất rõ việc của chú Dick đã không nề hà bất cứ sự khó khăn nào,để cốt sao cứu thoát tôi ra khỏi cảnh tù tội ở Việt nam. Nên khi tôi qua Mỹ, đoàn tụ với gia đình cháu, thì Khiết có nói với tôi là: “ Cái tình cảm thắm thiết, chân tình giữa bố với chú Dick thì thật là hiếm có đấy. Thế hệ tụi con khó mà có được một tình bạn chân thành như vậy…” Và gần đây cháu Trực là con trai út của tôi, thì cháu có dịp đến ở nhà chú Dick tại New York, vì cháu đi học ở Boston gần đó. Trực cũng đã viết một bài về chuyện chú Dick với các em “Bưi Đời ở VN” với nhan đề là : “ Dich Hughes : Một huyền thoại của lòng Nhân ái “. Thành ra trong gia đình chúng tôi, thì cả tôi và lũ con đều quý mến Dick như người ruột thịt trong nhà vậy. Có được một người bạn chân tình, gắn bó keo sơn như vậy, thì tôi coi là một điều quý báu vô cùng. Quả thật tôi là người may mắn lắm vậy đó.
2 / Stephen Young: người Bạn chí cốt của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Stephen Young được nhiều người biết đến và mến chuộng vì anh là một chiến hữu rất gắn bó với Giáo sư Huy. Anh lại nói tiêng Việt thật lưu loát. Việc anh tham gia tranh đấu cho Tự do Dân chụ của Việt nam đã được nhiều người biết đến, tôi khỏi cần phải viết thêm gì nữa về khía cạnh này.Tên gọi thường cho thân mật của anh là Steve. Chúng tôi quen nhau từ năm 1966-67, khi tôi đang làm việc say mê với Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon. Vào dịp đó, có lần Steve dẫn cha của anh là Kenneth Young, hồi đó làm Đại sứ Mỹ ở Thái lan, đi thăm quận 8. Và ông cụ đã tỏ ra có thiện cảm với công việc giới trẻ chúng tôi dấn thân phục vụ bà con ở khu vực ngoại ô này. Vào năm 1970, khi đã về hưu, thì ông cụ lại đến thăm Việt nam. Lần này, Steve chở tôi đến thăm ông già tại ngôi biệt thự rộng rãi do Tòa Đại sứ Mỹ ở Saigon dành cho vị khách quý. Cụ hỏi thăm về tình hình công tác tại quận 8, rồi lại hỏi cả về đời tư riêng của tôi xem lúc này gia đình sinh hoạt ra sao. Tôi thưa với cụ là : “Cháu mới trở lại ngành luật sư là nghề nghiệp chính, nhưng vẫn còn giúp việc ở quận 8”... Nghe xong, ông cụ gật gù ra chiều đồng ý với quyết định này của tôi. Cụ nói :” Cháu làm như vậy là khôn ngoan hơn bác đấy. Vì hồi trước, bác làm giáo sư Đại học. Nhưng từ thời Tổng thống Eisenhower, bác đi ra làm ở Bộ Ngoại giao với ông bạn là Ngoại trưởng Foster Dulles. Rồi bác say mê việc chính trị, mà bỏ luôn cái nghề làm giáo chức Đại học. Bây giờ Kissinger, ông ta khôn ngoan hơn bác; vì tuy ông ấy làm với Tổng thống Nixon mà ông ta vẫn tìm cách giữ lại chân ở trường Đại học, chứ không có bỏ đi luôn như bác hồi trước. Như vậy, bây giờ cháu về làm luật sư, đó mới là cái nghề chính của cháu, còn các chuyện chính trị hay xã hội…, dù có hấp dẫn đến đâu, thì cũng chỉ nên coi đó là một “ chức vụ tạm thời” mà thôi. Bác thật tâm khen cháu là “đã có sự lựa chọn đúng cách như vậy”. Tôi thật biết ơn lời khuyên bảo chí tình của bậc cha bác như vậy. Thành ra, qua vị thân phụ của anh, tôi lại càng quý mến bạn Steve của tôi hơn. Vào năm 1972 thì phải, lúc Steve làm đám cưới với chị Phạm Đỗ Thị Hòa tại Saigon, thì ông cụ lại bị đau nặng, không thể qua Việt nam để làm chủ hôn cho con trai được, mà phải nhờ ông Phó Đại sứ đứng ra thay thế. Tôi cũng được mời tham dự buổi tiếp tân trong dịp lễ cưới này được tổ chức tại một cơ sở của Tòa Đại sứ, nên vẫn còn nhớ câu chuyện của gia đình bạn đại khái như vậy. Từ ngày qua Mỹ năm 1996, hai chúng tôi đã nhiều lần gặp lại nhau, chuyện trò hàn huyên thật là tâm đắc. Một vài lần ở Minnesota, tôi đã ăn cơm với cả hai vợ chồng Hòa-Steve, khơi lại những kỷ niệm xưa ở Saigon trên 35 năm trước. Steve cho biết bà mẹ anh thì hay ở Bangkok với con gái, vì cụ thích hợp với không khí ở đó hơn. Tôi thật quý mến Steve vì lòng nhiệt thành tha thiết với đất nước Việt nam của tôi. Steve không quen với Dick Hughes, nhưng đối với tôi, thì cả hai đều là những người bạn quý mến, thân thiết, bắt đầu đã trên 40 năm lúc chúng tôi còn rất trẻ tuổi, giữa thời chiến tranh tang thương khói lửa mịt mù, chẳng biết được tương lai sẽ ra sao nữa. Đúng như người Mỹ thường nói “Friends are blessings” = Bạn bè là Phúc lộc Trời cho”. Chúng tôi thật có duyên lành với nhau như vậy đó. Trong kỳ tiếp, tôi sẽ viết thêm về nhiều người bạn thân thiết khác nữa ở trên đất nước mà từ mấy trăm năm nay đã tiếp nhận bao nhiêu triệu di dân từ khắp nơi trên thế giới tìm đến lập nghiệp, hầu thoát khỏi cảnh bị truy bức, kỳ thị, xua đuổi tại quê hương của chính mình. * * * Kỳ sau : 3/ Pat và Earl Martin: Cặp vợ chồng trí thức và đạo hạnh gương mẫu.
|