[go: up one dir, main page]

 

 

DẪN NHẬP VÀO “HỌC THUYẾT” CỦA THÁNH PHAOLÔ

 

Trong tất cả các Thánh Tông Đồ, Thánh Phaolô để lại cho chúng ta một kho tàng Thánh Thư thật phong phú. Nhân dịp Năm Thánh Phaolô, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu “học thuyết” hay “tư tưởng thần học” của Thánh Phaolô, để khi đọc Thư của Ngài, chúng ta có một cái nhìn rõ ràng hơn về những gì Thánh Nhân muốn nói với chúng ta.

Đối với phần đông các tín hữu, có nhiều đoạn văn của Thánh Phaolô xem ra khó hiểu và dễ gây ra hiểu lầm, đó là lý do tại sao Thánh Phêrô phải viết trong Thư Thứ Hai của Ngài rằng: Anh em hãy coi sự kiên nhẫn chịu đựng của Chúa chúng ta là ơn cứu độ, như người anh em thân yêu của chúng tôi là Phaolô đã viết cho anh em, theo sự khôn ngoan được ban cho ông, ông đều nói về các điều này như ông viết trong tất cả các thư. Trong các thư đó, có vài điều khó hiểu, mà những kẻ vô học và nông nổi xuyên tạc, cũng như với những câu Kinh Thánh khác, để đưa chúng đến chỗ diệt vong.” (2 Phr 3:15-16). Không những chỉ những người vô học mà cả những thần học gia nổi danh cũng đã xuyên tạc các thư này để biện minh cho những học thuyết sai lầm của họ. Bằng chứng của sự xuyên tạc này là việc LM Lutherô đã dựa vào một số đoạn văn trong Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu thành Galatê và Rôma mà lập ra giáo phái Tin Lành, và hậu quả tai hại vẫn còn kéo dài đến ngày nay.

Mục đích của loạt bài này là tóm tắt những học thuyết chính của Thánh Phaolô dựa theo các Thánh Thư của Ngài và sự hiểu biết của các Giáo Phụ và Huấn Quyền Hội Thánh. Những điểm chính được trình bày theo bộ sách Navarre Bible do Đại Học Navarre ở Tây Ban Nha xuất bản.

Bài 1 - ĐỜI SỐNG KHÔNG CÓ ĐỨC KITÔ

Theo Thánh Phaolô thì đời sống không có Đức Kitô là một cuộc đời làm nô lệ cho tội lỗi, xác thịt và sự chết.  Trong trường hợp người Do Thái thì đó là cuộc đời làm nô lệ cho Lề Luật, không phải Lề Luật Chúa ban, mà Lề Luật được các Thầy Do Thái và Pharisiêu giải thích giải thích thật tỉ mỉ. Nói chung thì tất cả mọi người chưa mở lòng ra đón nhận sự tự do mà Đức Kitô mang đến đều sống dưới ách nô lệ này, dù là trước khi hay sau khi Đức Kitô nhập thể (x. Gal 4:31).

1.     Tội Lỗi

Một trong những giáo huấn mà Chúa mặc khải cho Thánh Phaolô là công trình của Đức Kitô có mục đích giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Tội lỗi là nhân tố chính của đời sống không có Đức Kitô, đời sống của những người chưa được cứu độ. Đối với Thánh Phaolô tội lỗi là một thực tại bao gồm trước hết sự bất phục tùng, là việc nổi loạn chống lại Thiên Chúa, chống lại Thánh Ý Ngài, chống lại luật luân lý. Sự phản loạn này đã đưa con người vào trạng thái thù nghịch với Thiên Chúa, một tình trạng khốn nạn đưa đến sự chết đời đời. Việc nghiên cứu tình trạng của thế gian và lịch sử nhân loại, và suy niệm Thánh Kinh (Cựu Ước) cho thấy rằng “tất cả mọi người đã phạm tội và bị mất vinh quang Thiên Chúa” (Rom 3:23). Tất cả mọi người đây bao gồm cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Nếu không có Đức Kitô xuất hiện thì nhân loại sẽ chìm ngập trong thảm cảnh, “để rồi mọi miệng đều phải lặng câm, và toàn thế giới đều phải đắc tội trước mặt Thiên Chúa.” (Rom 3:19). Thánh Phaolô thấy rõ ràng là tội lỗi đã và đang hoành hành và thống trị nhân loại kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội (x. Rom 5:12, 21).

Thánh Phaolô thường nhân cách hóa tội lỗi trong văn chương của Ngài, nhưng thật sự Ngài không có ý nói rằng Thiên Chúa tạo dựng nên tội lỗi, nhưng tội lỗi là một tình trạng con người mắc phải mà không tự mình tìm được lối thoát. Bằng sức riêng mình, con người không thể tự cứu mình khỏi ách nô lệ của tội lỗi được, dù Thiên Chúa ban cho họ trí thông minh, ý chí tự do cũng như quyền tự do chọn lựa (x. Rom 7:7-25). Đối với Thánh Phaolô thì tình trạng tội lỗi này thật hiển nhiên, và Ngài dùng đủ mọi hình ảnh và ngôn từ để diễn tả nó.

2.     Xác Thịt

Trong Thánh Kinh chữ “xác thịt” không chỉ có nghĩa là “các bắp thịt” mà là toàn thể thân xác con người. Xác thịt bao gồm cả cảm giác, đam mê, trực giác và tình cảm. Xác thịt là tất cả những bản năng thấp hèn không thuộc về tinh thần hay sự thiêng liêng của con người. Thánh Phaolô cũng dùng chữ “xác thịt” hay “thân xác” theo nghĩa này. Sau khi Nguyên Tổ phạm tội, tất cả các bản năng thấp hèn của con người đều ở trong tình trạng nổi loạn. Các bản năng cao thượng là tinh thần và ý chí cũng không còn khả năng điều khiển các bản năng thấp hèn này. Như thế “xác thịt” trở thành đồng minh của tội lỗi trong cuộc chiến chống lại tinh thần. Và tội lỗi lôi kéo toàn thể con người về phía sự dữ (x. Gal 5:16-21, 24; Rom 6:19; 7:14-24; 8:3-4; 13:14). Tội lỗi và xác thịt không phải là một, nhưng tội lỗi tìm được một tên đồng lõa là xác thịt trong cuộc chiến tinh thần.

3.     Sự Chết

Tội lỗi cùng sự đồng lõa của xác thịt lôi kéo toàn thể con người về phía kẻ thù của Thiên Chúa, đưa nhân loại đến bất hạnh, bất toàn, và cuối cùng là cái chết: “Cho nên, cũng như vì một người [Ađam], mà tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian, và sự chết gây ra bởi tội lỗi; như thế, sự chết đã lan tràn tới tất cả mọi người, vì tất cả đều có tội” (Rom 5:12). Cái chết là hình phạt do tội lỗi gây ra (x. Rom 6:23).

Tóm lại nếu không có Đức Kitô thì nhân loại chỉ biết làm nô lệ cho tội lỗi, bị xác thịt phản bội, và không thể thoát khỏi số phận phải chết “vì khi chúng ta còn sống trong xác thịt, thì các đam mê tội lỗi, bị khiêu khích bởi Lề Luật, hoạt động trong chi thể chúng ta, để sinh ra hoa quả đem lại sự chết” (Rom 7:5).

Cuối cùng tội lỗi của con người đưa đến những hậu quả tai hại cho toàn thể tạo vật: “vì tạo vật đã phải lệ thuộc vào sự hư ảo, không vì chúng muốn, nhưng vì ý của Ðấng làm cho chúng lệ thuộc, trong hy vọng. Vì chúng ta biết rằng toàn thể thụ tạo đã cùng rên siết và quằn quại trong cơn chuyển bụng đau đớn cho đến bây giờ” (Rom 8:20, 22).

4.     Lề Luật

Trong thư gửi Tín Hữu Rôma chúng ta còn thấy một yếu tố nữa đưa đến tội lỗi là Lề Luật (x. Rom 7:5). Điều này áp dụng cách trực tiếp cho người Do Thái và cách gián tiếp cho tất cả mọi người. Làm sao mà Lề Luật của Thiên Chúa lại có thể trở thành đồng minh của tội lỗi, cám dỗ con người phạm tội, trong khi đó bản chất của Lề Luật thì tốt lành và thánh thiện? Câu trả lời rằng, mặc dầu Lề Luật có chỉ cho con người con đường tốt, nhưng nó không ban cho họ ân sủng  cần thiết để giúp họ tránh tội lỗi. Vậy Lề Luật để mặc họ trong tình trạng xác thịt. Điều này đúng đối với tất cả mọi thứ luật, kể cả luật tự nhiên được ghi khắc trong lương tâm mọi người (x. Rom 2:15; 1:21). Tất cả các luật đều bảo cho chúng ta biết điều gì là tội lỗi, và chỉ có thế (x. Rom 3:20). Vì ý thức được điều gì là tội, nên việc chúng ta phạm đến Lề Luật trở thành phạm đến Thánh Ý Thiên Chúa.

Khi đọc Thư Thánh Phaolô chúng ta cũng phải chú tâm đến hoàn cảnh lịch sử của các thư này. Trong giai đoạn đó, người Do Thái tự hào rằng họ công chính trước mặt dân ngoại và cả trước mặt Thiên Chúa vì họ giữ Lề Luật. Nhưng trên thực tế, họ chỉ giữ những nghi thức và hành vi bề ngoài, mà trong lòng thì thiếu từ bi bác ái. Họ coi vai trò của Thiên Chúa như một vị thẩm phán, có nhiệm vụ phải thưởng họ vì những việc lành họ làm do sức riêng của họ. Thay vì coi Thiên Chúa là Đấng giải phóng thì họ coi mình là kẻ giải phóng chính họ. Có một số Kitô hữu gốc Do Thái cũng không tẩy trừ được não trạng ấy. Họ nghĩ rằng Lề Luật của Môsê đã cứu họ, và họ muốn áp đặt Lề Luật này lên đầu lên cổ những Kitô hữu gốc dân ngoại. Thánh Phaolô thấy điều này là sai, vì họ cho rằng họ được công chính hoá trước mặt Thiên Chúa nhờ chính việc làm của họ, và như thế họ coi thường chính công trình Cứu Độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Kitô, là căn bản của Đức Tin Kitô giáo.

Chính Thiên Chúa đã dùng Thánh Phaolô mà chống lại khuynh hướng Do Thái này, và đã chiến thắng cùng giải thoát Hội Thánh khỏi một sai lầm lớn nhất của một nhóm tín hữu thời Hội Thánh sơ khai. Tất cả mọi Kitô hữu ở mọi thời đại cần phải nhớ rằng chỉ có ân sủng nhờ công nghiệp của Đức Kitô là có thể cứu độ chúng ta, và chúng ta nhận được ân sủng này qua Đức Tin. Các cố gắng riêng của chúng ta không có sức cứu độ, nhưng một khi chúng ta đã lãnh nhận Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô, thì chúng ta có thể lập công trạng để được phúc đời sau.

5.     Loài người khi chưa được cứu độ

Theo giáo huấn của Thánh Phaolô thi nếu không có Đức Kitô, con người không có khả năng giải thoát mình khỏi hoàn cảnh bi thảm do tội Ađam gây ra. Tội Nguyên Tổ lại còn bị chồng chất thêm bằng tội riêng của mỗi người khiến cho con người bị kìm hãm trong ách nô lệ. Tội lỗi sống trong xác thịt và dùng xác thịt làm chỗ sinh sôi nảy nở, hành hạ con người trong tình trạng chưa được cứu độ của mình. Biến con người thành kẻ thù của Thiên Chúa, bị mất sự sống đời đời, và bị kết án phải chết. Ngay cả Lề Luật và luật tự nhiên, dù được Thiên Chúa ban hành, chỉ làm cho tình trạng này thêm trầm trọng, vì không có ơn Chúa con người không thể giữ được Lề Luật. Thánh Phaolô không từ chối sự tự do của con người; rằng con người được Thiên Chúa ban cho trí thông minh và ý chí; nhưng Ngài diễn tả tình trạng của con người ngay cả sau khi đã nhận được ơn cứu độ: “Tôi làm gì tôi cũng không hiểu. Vì tôi không làm điều tôi muốn, nhưng tôi lại làm toàn những điều tôi ghét” (Rom 7:15).  “Như thế tôi tìm ra một định luật này, khi tôi muốn làm điều tốt, thì sự dữ lại ở ngay bên tôi. Vì trong tận đáy lòng tôi, tôi vui thích trong luật của Thiên Chúa; nhưng tôi lại thấy một luật khác trong các chi thể của tôi giao chiến với luật của lý trí, và biến tôi thành tù nhân của luật tội lỗi, là luật vẫn ở sẵn trong các chi thể tôi. Khốn nạn thân tôi! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác hay chết này?” (Rom 7:21-24).

Tóm lại, theo Thánh Phaolô thì trước khi được cứu độ, con người bị giam hãm trong tình trạng tội lỗi mà chính sức họ không có thể làm gì để tự giải thoát được. Ảnh hưởng của tội Nguyên Tổ làm cho con người ra yếu đuối và phải chết. Chỉ có một mình của Đức Kitô là có thể giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi này. Tuy nhiên sau khi được giải thoát rồi, khuynh hướng phạm tội vẫn còn, nên con người vẫn phải tỉnh thức kiềm chế xác thịt mình, để nó không trở thành đồng minh của tội lỗi mà lôi kéo con người trở lại phía kẻ thù của Thiên Chúa.

 

Phaolô Phạm Xuân Khôi