|
| Tuyên Úy Đoàn VN tại Úc |
Chiều thứ Hai ngày 28/4/08, các linh mục Việt Nam đang làm mục vụ tuyên úy và quản nhiệm cho các Cộng Đồng Việt Nam tại Úc Châu đã qui tụ về trung tâm Đức Mẹ Thuyền Nhân tại Adelaide, Nam Úc để tham dự phiên họp thường niên nhằm mục đích:
-Thắt chặt tình huynh đệ linh mục
-Chia sẻ kinh nghiệm mục vụ nơi các cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu
- Chuẩn bị những giai đoạn gần cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD 2008 vào tháng 7 năm nay.
-Thống nhất những phương hướng mục vụ trong tương lai
-Cầu Nguyện và Chia sẻ đời sống tâm linh
-Sống mục vụ và rao giảng tin mừng
-Sống chứng nhân Phúc Âm
Trong phiên họp, Quý Cha Tuyên Uý thuộc các Tiểu Bang đã chia sẻ những sinh hoạt Mục Vụ địa phương, nhất là cùng nhau suy nghĩ, bàn bạc, và đóng góp cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD 2008, để đón chào các bạn trẻ Việt Nam từ muôn phương về tham dự Đại Hội Giới Trẻ.
Trong phiên họp thường niên năm nay, Quý Cha Tuyên Uý từ các tiểu bang về tham dự gồm có:
Adelaide: Đ/ô Nguyễn Minh Tâm quản nhiệm cộng đồng Nam Úc.
Lm. Nguyễn Viết Huy Sj phó quản nhiệm.
Canberra: Lm. Bùi Xuân Mỹ quản nhiệm cộng đồng thủ đô.
Melbourne: Lm. Huỳnh San quản nhiệm cộng đồng Hoan Thiện.
Lm. Võ Đức Thiện quản nhiệm cộng đồng Vinh Sơn Liêm.
Lm. Võ Thanh Xuân Chủ bút Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu.
Perth: Lm. Nguyễn Minh Thúy quản nhiệm cộng đồng Tây Úc.
Lm. Nguyễn Kim Sơn phó quản nhiệm.
Sydney: Lm. Nguyễn Khoa Toàn tuyên úy trưởng cộng đồng Công Giáo TGP Sydney.
Lm. Paul Văn Chi tuyên úy
Lm. Nguyễn Văn Tuyết tuyên úy
Lm. Dương Thanh Liêm tuyên úy
Sau buổi họp chiều thứ Ba ngày 29 tháng 4 năm 2008. Tuyên Úy Đoàn đã bầu lại Tân Ban Đại Diện với các chức vụ như sau:
Trưởng Tuyên Úy đoàn: Đức ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm (Adelaide, Nam Úc)
Phó Tuyên Úy đoàn: Lm. Phêrô Bùi Xuân Mỹ (Canberra Capital, ACT)
Thư ký Tuyên Úy đoàn: Lm. Raphael Võ Đức Thiện (Melbourne, Vic)
Thủ quĩ Tuyên Úy đoàn: Lm. Paul Chu Văn Chi (Sydney, NSW)
Kết thúc phiên họp các linh mục tuyên úy đã cùng Cộng Đồng Công Giáo Nam Úc dâng Thánh Lễ đồng tế 7.00pm do Đức ông Nguyễn Minh Tâm chủ tế để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban muôn ơn lành cho Quý Cha Tuyên Úy và các cộng đồng Việt Nam trên toàn Úc Châu, cũng như soi sáng cho phiên họp được nhiều kết quả và thành công mỹ mãn.
Trước khi chấm dứt thánh Lễ Đức ông Paul Minh Tâm mời gọi hãy cố gắng bớt chút thì giờ tới tham dư Thánh Lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận cầu cho vong linh tử sĩ đã bỏ mỉnh trong ngày quốc nạn 30 tháng 4 và cầu cho quê hương Việt Nam.
Hoàng Việt Nam và Jovi từ Adelaide.
Jos. Vĩnh
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 23:03)
ATLANTA, GEORGIA - Lúc 3:15 giờ chiều Chúa nhật 27 tháng 4 năm 2008 tại Họ Đạo Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Tổng Giáo phận Atlanta, Georgia, Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Thế Giới đã long trọng tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn 40 năm Linh mục, 70 năm tuổi đời và được bình an sau cơn bạo bệnh của vị sáng lập Chương Trình là Cha Phêrô Chu Quang Minh, dòng Tên. Các gia đình liên hệ với Chương Trình khắp nơi hiệp thông cầu nguyện, cách riêng nhiều đôi vợ chồng Song Nguyền từ các cộng đoàn xứ đạo địa phương như Chicago-Illinois, Charlotte-North Carolina, Greenville-South Carolina, Riverdale-Norcoss-Georgia v.v… cùng về tham dự.
Nhiều Linh mục hiện diện cùng hiệp dâng Thánh Lễ, trong đó có Cha Quản nhiệm Họ Đạo sở tại và Tổng Tuyên úy Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ là LM Phanxicô Xaviê Trần Quốc Tuấn, đặc biệt Cha Giuse Nguyễn Thanh Liêm, Chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Đức Ông Francis Phạm Văn Phương, Chánh xứ Giáo xứ Đức Mẹ Việt Nam và là Đại diện Đức Tổng Giám mục chăm lo cho người Việt Nam tại TGP Atlanta, giảng thuyết trong Thánh Lễ.
Cuối Thánh Lễ, sau những lời cám ơn chân tình, Cha Phêrô Chu Quang Minh vui mừng công bố việc nhận lời làm Linh Nguyền cho Miền Đông Nam Hoa Kỳ của Cha Phêrô Lê Văn Tấn, hiện là Chánh xứ Giáo xứ Thánh Giuse, Giáo phận Charlotte-North Carolina; và đặc biệt Cha Tổng Linh Nguyền giới thiệu Đức Ông Phanxicô Xaviê Phạm Văn Phương đã nhận lời làm Cố Vấn Đặc Biệt cho Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Thế Giới.
Được biết sau Lễ Tạ Ơn tại Atlanta hôm nay, nhiều Liên Gia Song Nguyền trong Chương Trình sẽ lần lượt tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn cùng với Cha Sáng Lập tại các nơi khác như Toronto-Canada, Melbourne-Úc Châu, Tokyo-Nhật, cũng như tại Houston, San Diego, Los Angeles, San Jose, v.v., và cuối cùng tại San Jose-California ngày 7 tháng 12 năm 2008 do Chương Trình TTHNGĐ cùng với thân nhân và gia đình linh tông Cha Phêrô Minh thực hiện.
Ông Bà Phạm Văn Quyết và Điệp, Chủ Nguyền Trung Ương cho biết việc Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Thế Giới tổ chức các Thánh Lễ Tạ Ơn, trước hết là để cùng với Cha Sáng Lập Phêrô Chu Quang Minh Tạ Ơn Thiên Chúa đã soi sáng cho Chương Trình được hiện diện, và cũng là dịp để hơn 30,000 anh chị Song Nguyền khắp nơi trên thế giới hiện nay cùng nhau hiệp thông cầu nguyện sống cụ thể dựa trên nền tảng “Khiêm nhường Biết lỗi, Nhận lỗi, Sửa lỗi, Xin lỗi, Tha thứ”, và nhờ đó giúp mỗi thành viên gia đình gắn bó với nhau hơn trong mục đích “yêu thương gần gũi bằng việc làm”, hầu mang lại niềm vui và hạnh phúc cho các gia đình, để rồi sau khi gặp gỡ gắn bó với Thánh Gia Giêsu-Maria-Giuse, việc “tông đồ song đôi” của vợ chồng mang Tin Mừng Ơn Cứu Chuộc đến cho những người chung quanh được nhiều kết quả theo thánh ý Chúa!
Đặng Văn Kiếm
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 18:26)
Đại Hội Ultreya Âu Châu và Hành Hương Fatima
từ 11/04/08 đến 15/04/08
Để tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ và hăng say tham gia vào mỗi hoạt động của Phong Trào Cursillo, đoàn lữ hành người Việt 127 người từ Pháp, Đức, Thụy Sĩ và Bỉ đến tham dự Đại Hội Ultreya Âu Châu tại Fatima cùng với những cursillista của các nước Âu châu khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Đức và Ý. Mặc dù ngôn ngữ bất đồng, nhưng chắc chắn một điều là mỗi cursillista đều hiểu nhau trong ngôn ngữ của Thiên Chúa.
Với những lý do nào đó và vì số người tham dự cũng có giới hạn, người viết sẽ tường thuật lại những diễn biến trong các ngày qua để mỗi người chúng ta cùng nhau hiệp thông trong Đại Hội Âu Châu và chuyến hành hương Fatima này !
Đoàn hành hương năm nay có sự tham dự của Đức Ông Mai Đức Vinh – linh hướng Phong Trào, cha Nguyễn Trọng Quý đến từ Đức, cha Nguyễn Bá Linh đến từ Strasbourg, bác chủ tịch Phong Trào Đào Văn cùng phu nhân (mặc dù sức khỏe bác có kém đi) và đoàn trưởng Nguyễn Minh Dương.
Tới khách sạn vào chiều tối 11/04, nằm sát ngay Quảng Trường Đức Mẹ Fatima, chúng tôi liền tập văn nghệ cho buổi trình diễn sáng hôm sau. Đoàn múa của chúng tôi rất là điêu luyện mang nhiều nét độc đáo dưới sự tập dợt của chị Cẩm Tuyết. Còn nhóm tốp ca được điều khiển dưới tài năng của ca trưởng Nguyễn Văn Năng (thuộc liên nhóm Đức). Chừng một giờ sau, chúng tôi ngưng tập luyện để cùng nhau ăn tối. Nhưng vì chúng tôi huyên thuyên nhiều chuyện quá nên ăn rất lâu, đến độ trễ giờ kiệu. Đang lúc lo âu thì được Đức Mẹ thương tình, chương trình rước kiệu Đức Mẹ sẽ trễ hơn nữa tiếng như đã dự định!
Xong buổi ăn tối, chúng tôi hăng hái tiến đến Quảng Trường Đức Mẹ Fatima để lần chuỗi và kiệu Đức Mẹ dưới sự chủ tọa của ĐGM Leiria - Fatima. Trong khi đang hiệp thông lần hạt bằng nhiều thứ tiếng, bỗng vang lên một giọng trầm ấm rất truyền cảm. Đó là lời kinh Kính Mừng bằng tiếng Việt của chị Kim Chi. Sau chuỗi kinh, đoàn hành hương rước kiệu rất long trọng. Bao nhiêu ngọn nến được thắp sáng để tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ và thổ lộ tâm tình đến với Mẹ.
Rước kiệu xong, tất cả con cái Mẹ vào Vương Cung Thánh Đường Centro Paulo VI để tham dự Thánh Lễ, dưới sự chủ tế của ĐGM linh hướng Caruana cùng với sự đồng tế của rất nhiều linh mục. Thánh lễ được dâng lên cũng bằng nhiều thứ tiếng như Bồ Đào Nha, Anh, Đức. Những bài hát rất nhộn nhịp sống động nói lên lòng xao xuyến cũng như lòng vui mừng chào đón Đức Mẹ. Mặc dù không hiểu tiếng Bồ Đào Nha, nhưng tất cả chúng tôi đều hiệp thông mật thiết trong Thánh Lễ với Thiên Chúa, với Mẹ, với đoàn con cái của Chúa, của Mẹ qua những nghi thức phụng vụ rất quen thuộc.
Kết thúc Thánh Lễ bằng một buổi Chầu Thánh Thể, được đệm bởi lời chia sẻ của một vị linh mục hướng dẫn và những bài hát du êm với âm điệu tuyệt vời làm giờ Chầu Thánh Thể bùi ngùi êm dịu hòa hợp với tâm tình dâng gởi đến Thiên Chúa và Đức Mẹ. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria về tất cả những gì đã cho chúng con !
Sáng hôm sau 12/04, chúng tôi lại trở lại Quảng Trường Đức Mẹ tại trung tâm Phaolô VI, để trình diễn văn nghệ (đoàn múa duyệt lại lần cuối trước khi ra mắt khán giả, còn tốp đồng ca cũng cất giọng ngân nga để giọng hát được thánh thót hơn !). Khi chúng tôi đến Quảng Trường, người ta sửng sốt trước vẻ đẹp của chúng tôi !!! Chúng tôi trang phục toàn là áo dài truyền thống, muôn màu muôn sắc, đặc biệt đoàn múa có những bộ đồ rất đặc sắc mang tính dân tộc. Bao nhiêu người xin đến chụp hình với chúng tôi ! Các đoàn khác trình diễn những điệu múa truyền thống và những bài hát của xứ họ. Có đoàn thì chỉ hát thôi với những ca khúc trẻ. Chúng tôi cũng được nghe lại bài « De Colores » do đoàn Tây Ban Nha hát, nhưng họ hát không giống chúng tôi thường hát ở Paris !!! Lần lượt đến tiết mục văn nghệ của chúng tôi với bài đồng ca « Hành Trang Tuổi Trẻ » và vũ khúc « Ngày Vinh Thắng ». Một lần nữa, bao nhiêu ống kính ngùn ngụt đua nhau chụp ảnh chúng tôi, nhưng chúng tôi đã quen làm ngôi sao rồi nên vẫn say sưa diễn xuất mà không bị chia trí ! Chương trình văn nghệ của Đại Hội dài lắm, người tường thuật không thể kể hết. Ngôi Thánh Đường chứa đến vài ngàn người, đã hơn 2000 cursillista tham dự rồi. Mỗi cursillista đều đeo khăn đồng phục do G.E.T đảm trách, và mỗi khăn mang mỗi màu sắc khác nhau và được ghi « De Colores » như ý nghĩa của nó.
Sau những tiết mục văn nghệ ngoạn mục, giờ Thánh Lễ đã đến. Thánh Lễ được chủ tế bởi nhiều ĐGM và linh mục rất trọng thể, trong số đó có Đức Ông Vinh, cha Quý và cha Linh và Thánh Lễ cũng diễn ra bằng nhiều tiếng. Lần này thì chúng tôi đã quen rồi ! Chúng tôi sốt sắng tham dự Thánh Lễ và hiệp thông cùng toàn thể cursillista trong Tình Yêu Chúa Kitô.
Sau Thánh Lễ, chúng tôi nghỉ trưa rồi trở lại Quảng Trường Đức Mẹ tham dự Đại Hội Ultreya Âu Châu với chủ đề « Vai trò của Phong Trào Cursillo trong công cuộc Tân Phúc Âm Hóa tại Âu Châu », do ĐTGM Ortiga chủ tọa và ĐGM Manuel Clemente giảng huấn. Ngài trình bày rollo bằng ba thứ tiếng: Bồ Đào Nha, Đức, Anh. Nội dung được dựa trên những tư tưởng của ĐGH Gioan Phaolô Đệ Nhị và được tóm lượt như sau (người tường thuật gom phần đào sâu và chia sẻ trong buổi Ultreya Việt Nam vào đây luôn).
Trên những nẻo đường Âu châu, việc rao giảng Tin Mừng thực sự là một điều rất cần thiết. Số lượng người chưa chịu Phép Rửa ngày càng đông lên, do sự tồn tại đáng kể của những tôn giáo khác và do trẻ con sinh ra trong những gia đình theo truyền thống công giáo không được Rửa Tội. Điều này như là một kết quả của nền thống trị Cộng Sản hay sự lan tràn của sự khác biệt tôn giáo. Âu châu giờ đây là một trong những nơi có truyền thống công giáo nhưng cần được Tân Phúc Âm hóa trước tiên. Thế giới Âu châu đang càng ngày càng xa dần với nguồn gốc Kitô giáo của mình. Ngay tại trong lòng Âu châu, toàn thể Giáo Hội dồn hết nỗ lực cho công cuộc loan báo Tin Mừng, giữa một thời đại đầy biến động, phức tạp, đa dạng trước những nền văn hóa, xã hội xưa cổ này. Phúc Âm hay Tin Mừng là chính con người của Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đó là Quà tặng, là Ân ban quý giá mà Chúa Cha gửi trao cho nhân loại. Để Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài dễ được người đời đón nhận, Giáo hội sẽ loan báo Tin Mừng với một tư duy và phong cách mới. Đức Gioan-Phaolô II đã nhấn mạnh tới ba nét mới: mới trong phương pháp, mới trong cách diễn tả, nhất là mới trong nhiệt tình.
Nhìn vào thế giới hôm nay từ quan điểm Tân Phúc Âm hóa, ĐGH Gioan Phaolô II đề xuất ba việc làm của Tân Phúc Âm hóa. Một là đối với những người chưa nhận biết Tin Mừng, Tân Phúc Âm hóa là trách nhiệm truyền giáo, là trách nhiệm loan báo Tin Mừng đầu tiên cho người chưa tin, mà mọi người Kitô hữu phải thể hiện. Hai là đối với những người đang sống đức tin trưởng thành, cần phải chăm sóc mục vụ và gây cho họ sự cảm thông và liên đới với sứ vụ truyền giáo chung của Giáo hội. Ba là đối với những người đã chịu Phép Rửa mà không còn ý thức về đức tin của mình hay không còn hiệp thông với Giáo hội trong sinh hoạt tôn giáo, cần phải tái rao giảng Tin Mừng cho họ bằng cách trình bày cốt yếu nội dung Tin Mừng và huấn luyện lại đức tin.
Đức Gioan-Phaolô II khẳng định không chỉ có cá nhân mà toàn bộ các nền văn hoá cần được ảnh hưởng Tin Mừng biến đổi. Vì thế, trong hoạt động truyền giáo, Giáo hội đã tiếp cận với những nền văn hoá khác nhau và đã thể hiện việc hội nhập văn hoá. Việc Hội nhập văn hoá là thái độ trân trọng và tiếp nhận những giá trị quý giá trong các nền văn hoá, đồng thời nỗ lực đưa sứ điệp Tin Mừng và các giá trị Kitô giáo vào các nền văn hoá của con người. Theo Đức Gioan-Phaolô II, Tân Phúc Âm hoá theo chiều hướng đó, sẽ dẫn đến một "Nền Văn Minh Tình Thương".
Công cuộc Tân Phúc Âm hóa không chỉ giới hạn trong việc giới thiệu Sứ điệp Tin Mừng, mà còn là tiến trình gia nhập vào sinh hoạt Hội Thánh. Loan báo Tin Mừng, chủ yếu mới là bước đầu. Đó là nền tảng cho một tiến trình dài lâu. Theo đó, loan báo Tin Mừng còn kèm theo việc huấn giáo, hướng dẫn về luân lý và học thuyết Giáo hội. Những ai đã tháp nhập vào Chúa Kitô, cũng tháp nhập vào Giáo hội, là thân thể Ngài. Họ liên kết với Thiên Chúa nhờ các bí tích và qua cộng đoàn Hội Thánh.
Đức Gioan-Phaolô II còn lưu ý đến hai khía cạnh: chứng tá đời sống và sự thánh thiện cá nhân. Ngài lặp lại lời nói của Đức Phaolô VI: Con người thời nay tin chứng nhân hơn thầy dạy, và có tin thầy dạy, là bởi vì thầy dạy là chứng nhân. Từ đó, ngài mời gọi các tín hữu luôn nêu gương sáng trong đời sống hằng ngày. Vì thế, âm thầm sống gương mẫu đạo đức, cũng là cách thức truyền giáo hữu hiệu. Đức Gioan-Phaolô II còn quả quyết rằng nhà truyền giáo phải là vị thánh. Từ đó, ngài kêu gọi mọi sứ giả Tin mừng phải sống thánh thiện, vì việc nên thánh và sứ vụ truyền giáo không thể tách rời nhau.
Nội dung cốt yếu của Tân Phúc Âm hóa xoay quanh bốn điều cơ bản: hoán cải, Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô và sự sống đời đời.
Hoán cải là suy nghĩ lại, là đặt lại vấn đề về nếp sống và lối sống của mình, là để Thiên Chúa bước vào cuộc sống cá nhân để Người điều khiển mọi tâm tình, tư tưởng, hành động của ta. Hoán cải là bắt đầu nhìn vào đời mình với cái nhìn của Chúa, nhằm kiếm tìm một kiểu sống mới. Như thế, hoán cải là thoát ra khỏi tính tự mãn, là biết khám phá và chấp nhận sự yếu kém của mình, là khiêm hạ tín thác vào Tình yêu của Chúa, một tình yêu sẽ trở thành thước đo và chuẩn mực cho đời sống chúng ta. Hoán cải là bước đầu tiên đến với Đức Giêsu, là điều kiện cần thiết để vào Nước Thiên Chúa. Kêu gọi hoán cải là ngầm giới thiệu ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến, là nêu lên thực trạng tội lỗi chung của con người và nhu cầu đón nhận ơn giải thoát từ trời cao.
Nội dung thứ hai cần được loan báo, là Nước Thiên Chúa đã đến trần gian.
Nước Thiên Chúa không phải là một sự kiện, một cấu trúc xã hội hay chính trị, một không tưởng. Nhưng Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa có nghĩa là Thiên Chúa hiện hữu, Thiên Chúa sống động, Thiên Chúa đang hiện diện và hành động trong thế giới, trong đời sống chúng ta, trong đời sống của tôi. Thiên Chúa là Đấng Tạo thành, Đấng thánh hoá, Vị thẩm phán.
Nội dung thứ ba của Tân Phúc Âm hóa, là Chúa Giêsu Kitô. Đề tài về Thiên Chúa và Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với nhau, bởi vì chính nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, ta mới hiểu được Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, là Con Thiên Chúa, vừa là con người, nhưng đặc biệt cũng là Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tận hiến mình trở thành con đường sống cho chúng ta. Theo Chúa Giêsu không chỉ có nghĩa là bắt chước con người Giêsu, nhưng là trở nên một với Chúa Kitô, và nhờ đó kết hợp với Thiên Chúa. Và con đường duy nhất để hiệp thông với Chúa Kitô cách mật thiết là sống các Bí tích.
Nội dung cốt yếu cuối cùng của Tân Phúc Âm hoá, đó là Sự sống đời đời. Nội dung này đáp ứng được nhu cầu muốn sống hoài của con người và khai sáng cho con người hiểu rõ định mệnh mình, nhờ tin vào Chúa Kitô. Chúa Kitô đã quả quyết Ngài là sự sống và sự sống lại. Ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 11,25; 6,47). Chúa Kitô là Ánh sáng soi chiếu trần gian, là Sự thật giải thoát tất cả. Ngài đến để giúp chúng ta hiểu rõ đời này và khai sáng cho chúng ta lối đường bước vào đời sau. Nếu con người biết thành tâm hoán cải, biết tin vào lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, biết cậy trông vào công nghiệp cứu độ của Chúa Kitô trên thập giá, họ sẽ được sống và sống muôn đời.
Sau phần Rollo « Tân Phúc Âm Hóa », anh Lương Huỳnh Ngân đại diện đoàn Việt Nam chúng tôi lên chia sẻ cảm nghiệm sống về lương tâm người bác sĩ công giáo trước vấn đề phá thai. Anh đã cầu nguyện liên lỉ cùng với các cursillista khác để Sức Mạnh Của Lời Cầu Nguyện chiến thắng mọi mưu chước cám dỗ ma quỷ. Trong Đức Kitô, anh đã thuyết phục được các bà mẹ bỏ ý định phá thai để những tuyệt tác Thiên Chúa được hình thành và được hưởng cuộc sống ân phúc Chúa ban cho. Buổi Ultreya này kéo dài khoảng 5 tiếng.
Tối đến, chúng tôi lại rước kiệu nến Đức Mẹ long trọng cùng với các Giám Mục, Linh mục và khoảng hơn 2000 cursillista và giáo dân bản xứ. Bao nhiêu nến được thắp sáng lên giữa một Quảng Trường yên tĩnh trong tâm tình yêu mến và tạ ơn Đức Mẹ. Lời ca A-vê Ma-ri-a vang lên trong đêm tối dường như muốn gởi tấm lòng thành của mỗi người đến Đức Mẹ. Cuộc rước kiệu trọng thể này kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ nhưng chúng tôi không cảm thấy mệt mỏi.
Sáng ngày 13/04, chúng tôi cũng kiệu Đức Mẹ. Hôm nay trời có vẻ âm u, và chúng tôi lần hạt dưới mưa, rồi trời tạnh và lại nắng lên. Có người tâm sự với người tường thuật là lúc lần hạt Năm Sự Vui thì trời đang còn quang đãng. Đến Năm Sự Thương thì trời đổ mưa sầu muộn như muốn cùng thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Rồi đến Năm Sự Mừng thì nắng bỗng bừng lên làm tâm hồn chúng tôi cũng vui lên như được phục sinh trong Đức Kitô và được nâng đỡ ủi an bởi Mẹ Maria. Người kể cũng cho biết thêm những trạng thái thời tiết này cũng giống y như ngày Đức Mẹ đã hiện ra vào tháng Năm năm 1917.
Tiếp theo kiệu Đức Mẹ, chúng tôi tham dự Thánh Lễ đồng tế trọng thể do Đức Hồng Y Juan Sandoval Inguez chủ tế ngoài trời trong một Quảng Trường rộng lớn gần ngay Đài Đức Mẹ và kết thúc Đại Hội Ultreya Âu Châu tại đây. Chúng tôi lấy khăn quàng muôn màu muôn sắc vẫy tay chào Mẹ như trở thành tục lệ nơi đây. Rồi chúng tôi trở về chốn trọ nghỉ trưa, lòng đầy chấn phấn !
Chương trình buổi chiều của chúng tôi - đoàn hành hương Việt Nam - là đi Đàng Thánh Giá dưới sự hướng dẫn của Đ.Ô Vinh, rồi sau đó chúng tôi thăm viếng ngôi làng của ba trẻ và nhà của sœur Lucie. Chúng tôi mon men trên những con đường làng ngoằn ngoèo được bao bọc bởi những rặng cây già cỗi. Con đường này lắm cây sồi, có lúc chúng tôi băng qua cả một vườn toàn cây dầu làm khơi lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn dầu « Lạy Cha nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha ».
Buổi tối, chúng tôi quây quần bên buổi Ultreya của người Việt chúng ta, để đào sâu đề tài Tân Phúc Âm Hóa. Cha Quý đã giảng huấn rollo này và sau đó chúng tôi hăng say thảo luận và chia sẻ (nội dung đã được gộp lại viết chung trong đề tài Tân Phúc Âm hóa nêu trên). Liên nhóm Đức phụ trách rất chu đáo và sôi động dưới sự hoạt bát của cursillista Trần Quốc Doanh, và đặc biệt có phần đóng góp văn nghệ độc đáo mang tính cách Liên nhóm Đức !!! Vẫn ca trưởng Năng điều khiển ca hát, rồi đến những tiết mục kịch và múa « Ra khơi » rất vui đến độ chúng tôi cười ngặt nghẽo (sau 10 phút tập múa). Đoàn Thụy Sĩ cũng đóng góp những tiết mục hợp ca trong bộ đồ bà ba làm bao nhiêu người chạnh lòng nhớ quê hương.
Ngày thứ hai 14/04, sau Thánh Lễ rất sớm tại nhà nguyện của khách sạn do Đ.Ô Vinh đồng tế cùng với cha Quý và cha Linh, đoàn chúng tôi đi du ngoạn thăm viếng thành phố Lisbonne. Chúng tôi rảo bước khi trên những đường phố lớn, khi trên những con đường hẹp nhưng rất thành thị. Đ.Ô Vinh kể lại nguồn gốc nhà thờ Santarem, nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa loáng máu hồng. Sau buổi pique-nique, chúng tôi đến viếng bức tượng khổng lồ Chúa Cứu Thế và nhà thờ thánh Antoine thành Padou cùng những di tích lịch sử của nó.
Sáng ngày thứ ba 15/04, cũng sau Thánh Lễ tạ ơn tại nhà nguyện khách sạn, phong trào ưu đãi dành cho chúng tôi thì giờ dạo phố mua quà lưu niệm. Rồi chúng tôi trở lại Quảng Trường từ giã Đức Mẹ trong âm thầm, trong cầu nguyện và trong lòng tạ ơn sâu sắc. Mắt đăm chiêu nhìn về Quảng Trường, từ biệt Đức Mẹ mà chúng tôi cảm thấy như mình đã ở đây từ lâu lắm rồi. Một thoáng buồn vụt qua cùng với những niềm vui khôn xiết được trao tặng từ lòng lân ái của Đức Mẹ.
Rồi chúng tôi thong thả ra phi trường trở về nhà.
Cảm tạ Đức Mẹ vô cùng đã thương cho chúng tôi đến đây tham dự Đại Hội Ultreya Âu Châu và chuyện trò, vui đùa với Mẹ trong tất cả lòng mến tri ân qua những chuỗi ngày ở Fatima.
Đỗ Thục Hiền
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 12:47)
SYDNEY - Chiều thứ Sáu 25/04/2008 một số các cặp hôn nhân thuộc các Giáo Đoàn đã đến Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly Sydney tham dự Khóa 389 Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình do Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Tổng Giáo Phận Sydney tổ chức mục đích hướng dẫn Mục Vụ Gia Đình trong Xã Hội tân tiến ngày nay.
Sau khi ghi danh các anh chị em Khóa Sinh Song Nguyền tập trung trong hội trường Trung Tâm. Anh chị Tiên-Hòa trình bày về Lịch Sử của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình được thành lập từ năm 1987 do Cha Phêrô Chu Quang Minh sáng lập. Sau đó Chủ Nguyền Xuân-Yến giới thiệu mọi người Cha Giuse Hoàng Tiến Đoàn Linh Nguyền Phụ tá từ Hoa Kỳ, Cha Nguyễn Minh Thúy Linh Nguyền từ Perth (Tây Úc) Cha Nguyễn Văn Tuyết Giám đốc Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly và Paul Văn Chi Linh Nguyền Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình TGP Sydney.
Cha Văn Chi ngỏ lời chào mừng tất cả anh chị em Khóa Sinh và cầu chúc các anh chị em tham dự Khóa 389 của CT/TTHNGĐ gặt hái nhiều kết qủa tốt vàkhuyến khích các anh chị em Khóa Sinh hãy cố gắng học hiểu trong 2 ngày dự Khóa để có hành trang giúp ích cho Gia Đình sau đó Cha long trọng tuyên bố khai mạc Khóa 389.
Kế tiếp Cha Hoàng Tiến Đoàn ngỏ lời chào mừng tất cả anh chị em Khóa Sinh và Cha hướng dẫn mọi người cùng hướng về bàn thờ gia đình Thánh Gia sốt sắng cầu nguyện để xin được luôn noi gương theo gia đình Thánh Gia và đem tình yêu của gia đình Thánh Gia đến cho tất cả mọi gia đình. Sau đó quý Cha cùng hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn nguyện xin Thiên Chúa soi sáng và chúc lành cho Khóa 389. Mọi người cùng quây quần chung quanh sát bên bàn Thánh sốt sắng tham dự Thánh lễ khai mạc Khóa. Sau khi chấm dứt Thánh lễ mọi người cùng quỳ trước Thánh Thể Chúa Giêsu và cầu nguyện dâng hết tất cả tâm tình của chính mình và gia đình lên Thiên Chúa với lòng thiết tha phó thác và cậy trông. Sau khi nhận ơn phép lành, các anh chị em khóa sinh chính thức nhập khóa qua đề tài Kinh Thánh Nền Tảng Của Gia Đình do Cha Hoàng Tiến Đoàn thuyết giảng và cùng chia sẻ cảm nghiệm của các anh chị em Song Nguyền. Đồng thời các anh chị em Trợ Nguyền qua nhà Betania chầu Thánh Thể Chúa KiTô, nguyện xin Đấng Tình Yêu tuôn đổ ơn phúc lành cho các anh chị em khóa sinh đang tham dự khóa.
Trong thời gian 2 ngày của khóa 389 CT/TTHNGĐ quý Cha Paul Văn Chi, Cha Hoàng Tiến Đoàn đã giảng thuyết và giúp cho các anh chị em hiểu biết thêm về đạo đức gia đình áp dụng dựa trên nền tảng Kinh Thánh như 8 Mối Phúc Thật, Sự Hòa Giải với Thiên Chúa và Sự Hòa Thuận với mọi người trong Tình Yêu Chúa Kitô. Ngoài ra các anh chị em Trợ Nguyển cũng chia sẻ nhưng kinh nghiệm và tâm tư của mình để cùng nhau xây dựng nền tảng gia đình được hạnh phúc trong ơn phúc của Thiên Chúa.
Ngày Chúa Nhật 27/04/2008 các anh chị em khóa sinh tham dự Thánh lễ bế mạc mãn khóa do Cha Hoàng Tiến Đoàn chủ tế. Đặc biệt phần dâng Lời Nguyện các Song Nguyền đã mạnh dạn đứng trước bàn thờ dâng lên Thiên Chúa với những khuyết điểm yếu đuối của mình để xin Chúa chữa lành và soi sáng hoán cải tâm hồn để xứng đáng là công cụ của Chúa trong lãnh vực Tông Đồ Song Đôi. Sau khi kết thúc Thánh lễ mọi người qua bên nhà ăn hội trường tham dự bữa tiệc bế mạc kết thúc khóa 389 CT/TTHNGĐ với những niềm vui tươi hân hoan và hạnh phúc sau 2 ngày tham dự khóa.
Diệp Hải Dung
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:57)
HUẾ - Chúa Nhật VI Phục sinh (27/4/2008), sinh viên công giáo học tập tại đây đã có cuộc gặp gỡ tại Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải chờ đợi lâu, hội trường của cộng đoàn Dòng đã nóng lên bởi tiếng vỗ tay chào mừng, những lời ca tiếng hát của hơn 800 trăm sinh viên. Đến với buổi gặp gỡ này các bạn có cơ hội nói chuyện về đề tài: "Con là một kì quan", bàn về vấn đề "sống thử", với sự giúp đỡ của nhóm Cha Quang Huy. Mục đích của lần nói chuyện này nhằm giúp cho mỗi bạn sinh viên có được những niềm vui khi hè về, có những ngày hè đảm bảo cho tương lai và đảm bảo cho đức tin, luôn lý để mỗi người tự tin bước vào đời, giữ đựơc sự bằng yên trong tâm hồn và sống đúng tinh thần phúc âm: "ai yêu mến thầy thì giữ lời thầy."
|
| BS Nguyễn Lê Hải nói chuyện với sinh viên |
Sống trong thời kì hiện đại hoá thì tình yêu - sự thiêng liêng cao cả - cũng hiện đại hoá theo. Hiện đại bởi những mối tình "sét đánh", những "cuộc tình thoảng qua" và cũng vội vã trao cho nhau "trái cấm."
"Sống thử" từ lâu đã trở thành vấn đề "nóng" của sinh viên. Nó làm băng hoại những giá trị đạo đức, giá trị người mà Thượng đế là Thiên Chúa toàn năng đã dành tặng cho mỗi con người trong cuộc đời. Thế nhưng các bạn trẻ lại tỏ ra quá quen thuộc với cái cảnh "góp gạo nấu cơm chung" và nhiều người lại tỏ ra hài lòng với cách sống phi đạo đức đó. Còn các bạn sinh viên Công giáo, chúng ta phải làm gì để có thể tránh được điều đó?
Để trả lời cho câu hỏi này, Bác sĩ, Thạc sĩ, chuyên gia tâm lý Nguyễn Lan Hải đã có cuộc trò chuyện, diễn thuyết về KĨ NĂNG SỐNG trong thời "yêu vội, sống gấp."
"Sống thử" một khái niệm quá quen thuộc đối với sinh viên, hiểu nôm na là hai người yêu nhau, dọn về ở cùng nhau mà không cần sự cho phép của gia đình, chính quyền. Rồi hậu quả của nó sẽ đi đến đâu? Câu trả lời dành cho những ai đã chứng kiến, đã trải qua.
Có nhiều bạn sinh viên đã thẳng thắn đưa ra quan điểm của mình: "Tôi nghĩ rằng tôi đã sẵn sàng quan hệ với người tôi yêu". Nếu bạn nghĩ rằng mình đã trưởng thành, bạn tự chịu trách nhiệm, rằng bạn đã sẵn sàng làm "chuyện ấy" với người yêu. Còn không bạn hãy tự xây dựng cho mình một kĩ năng sống.
Để có được một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu trong sáng theo đúng nghĩa của nó đó là cả một vấn đề mà không phải ai cũng có thể làm được. Chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe, cùng nhau tìm hiểu và học tập 9 điều trong Kĩ năng sống của bác sĩ, chuyên gia Lan Hải:
1. Đặt mục tiêu.Khi bắt đầu cho một tình yêu, hãy nghĩ kĩ xem bạn muốn mọi chuyện đi tới đâu và đặt ra những mục tiêu cho riêng mình. Bạn nghĩ gì về tương lai? Đừng đánh mất tương lai của chính mình.
Hãy cho người yêu biết rõ nguyên tắc của bạn, người ấy cần tôn trọng những mục tiêu và giới hạn mà bạn đặt ra.
2. Bảo vệ chính mình và người yêu
Trước khi "chuyện ấy" xảy ra, hãy trò chuyện với người bạn yêu về việc có thể có thai và những hệ lụy của nó.
Nếu bạn hoặc người yêu đã quan hệ tình dục trước đó, liệu có gì về bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ? Làm sao để bảo vệ cả hai một cách hiệu quả?
3. Hãy thực tế.Tình dục có thể là một phần tuyệt vời của một tình yêu được chăm sóc, đặc biệt khi hai người có thể nói chuyện một cách cởi mở, chân thành về những gì mình muốn. Nhưng hãy thực tế, đó là thứ bạn học hỏi lẫn nhau qua thời gian, không phải là một trò chơi, một cam kết được đảm bảo, cũng không phải thần dược để cải thiện một mối quan hệ tồi.
4. Hãy nói không.Bạn có quyền nói "không" với quan hệ tình dục và hoàn toàn thoải mái về quyết định của mình.
Nói không sẽ đem lại cho bạn nhiều lợi ích: không lo lắng về mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây qua đường tình dục, dành thời gian cùng suy nghĩ, trò chuyện về mối quan hệ của hai người và các đề tài khác.
Không cần giải thích lý do bạn từ chối. Nhưng nếu người yêu của bạn gây áp lực để được "nếm trái cấm" thì bạn hãy thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình.
5. Có sẵn vài câu trả lời.Đứng trước chuyện ấy" khi mà ý chí đã vô hiệu, bạn gái cần chuẩn bị sẵn cho mình vài câu trả lời:
Nếu chàng thủ thỉ: "Em phải chiều anh, nếu em yêu và tin tưởng anh".
Bạn đừng ngần ngại: "Nếu yêu em thực sự, anh sẽ không thúc ép em".
Chàng tiếp: " mọi người đều làm vậy mà!"
Bạn hãy nói: "Nhưng em không phải là mọi người."
Chàng vẫn không ngừng tấn công: " Anh cần em, anh muốn em, anh phải có em."
Bạn hãy quả quyết: " Không đâu! Nếu em đợi được, anh cũng đợi được."
Còn nếu chàng nổi cáu: "Nếu em không đồng ý, anh sẽ tìm cô gái khác."
Bạn chớ có mềm lòng: "Được thôi anh cứ thử đi."
Có thể bạn sẽ có nhiều câu trả lời hay hơn nữa, tế nhị hơn nữa để thuyết phục chàng và gìn giữ cho tình yêu của mình.
6. Đặt ra những giới hạnBạn muốn tiến tới đâu trng mối quan hệ của bạn vào thời gian này. Bạn nghĩ sao về một nụ hôn nhẹ nhàng?Một nụ hôn sâu kiểu Pháp? Hay những cái âu yếm vuốt ve nhau dưới nhiều hình thức, góc độ … Để người yêu làm vậy với bạn?
Đừng làm những gì mà bạn không muốn dù chỉ vì tò mò. Hãy chắc chắn rằng người yêu của bạn biết rõ những gì bạn cảm thấy và tôn trọng những giới hạn bạn đặt ra.
7. Hãy tỉnh táo.Bia rượu và các chất kích thích sẽ làm bạn khó giữ mình. Hãy cố gắng không rơi vào những tình huống thử thách giới hạn bạn đã đặt ra. Chẳng hạn, đừng bao giờ uống bia, rượu khi ở một mình với người yêu…
8. Xin lời khuyên Hãy hỏi những người mà bạn tin cậy thông tin cần thiết về giá trị của tình yêu, giới tính quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các bệnh lây lan qua đường tình dục, sự thụ thai hay cách phòng tránh xâm hại tình dục…
Có thể gọi đến các chương trình tư vấn để được các chuyên gia hỗ trợ.
9. Khoái lạc khác hạnh phúcNhiều bạn đã lầm tưởng hạnh phúc là sự thoả mãn về nhục dục, gắn tình yêu với tình dục bất chính. Hãy một lần nhìn lại bản thân để nhận ra "Đâu là hạnh phúc đích thực!"
Hạnh phúc luôn là niềm vui, là cảm nhận về những điều thiện hảo. Hạnh phúc không thể tìm thấy trong tội lỗi.
Khoái lạc cũng là hạnh phúc, một khi diễn tả tình yêu vợ chồng và hướng tới tác phẩm tuyệt vời là con cái. Đôi khi cám dỗ đẹp như niềm hạnh phúc (chẳng ai chọn cái xấu vì nó xấu).
Chúng ta không phải nói thêm, không cần phải bàn luận thêm về "Sống thử" mà cần phải thấy được rằng đó là điều đáng lên án trong xã hội và đăc biệt là đối với mỗi người sinh viên công giáo chúng ta. Hỡi các bạn trẻ, chúng ta đừng cố nguỵ biện cho những quan điểm, những hành động, những tư tưởng sai lệch về tình yêu, về "Sống thử".Hãy tập cho mình một kĩ năng sống, đó chính là chìa khoá để các bạn mở và giữ trọn tình yêu của mình.
Nguyễn Đông
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:52)
HUẾ - Nam nữ sinh viên sống thử là vấn nạn nhức nhối, nỗi đau chung của toàn xã hội. Lo ngại hơn, nó đẩy hiện tượng lệch lạc văn hoá này sang một mức độ mới: nhanh hơn, phổ biến hơn và cũng đáng sợ hơn. Theo kết quả khảo sát đời sống sinh viên do Ban Tư tưởng Văn hóa TW, Bộ GD-ĐT và Văn phòng Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của Bộ VHTT phối hợp thực hiện năm 2006 tại 30 trường CĐ, ĐH và TCCN trên toàn quốc thì “sống thử” được coi là biểu hiện đáng lo ngại thứ hai trong đời sống văn hóa của SV, chỉ xếp sau “không chịu học hành, xin điểm, quay cóp”.
Trào lưu sống thử, những mối tình ri đô và phong trào góp gạo thổi cơm chung tiếp tục là mốt của nhiều sinh viên (Theo Vietnamnet). Mong muốn trang bị những kiến thức nhằm giúp các em đối diện vấn nạn này, Trung tâm mục vụ dòng Chúa Cứu Thế đã tổ chức nhiều hoạt động để sinh viên tìm hiểu, học hỏi nhằm đối diện một cách hiệu quả. Buổi sinh hoạt hôm 27/4/2008 tại hội trường dòng Chúa Cứu Thế Huế không nằm ngoài mục đích đó. Nó tiếp nối chuỗi các buổi sinh hoạt “Con là một kỳ quan” do bác sỹ Têrêsa Nguyễn Lan Hải và các cha dòng Chúa Cứu Thế thực hiện liên quan đến vấn đề bảo vệ sự sống con người, phòng chống tệ nạn phá thai.
Buổi sinh hoạt khai mạc lúc 14h chiều Chúa Nhật cuối tháng 4 thu hút gần 800 anh chị em sinh viên Huế đến tham dự. Bằng lối nói chuyện dí dỏm, hấp dẫn kết hợp với nhiều câu chuyện thực tế đời thường; bác sỹ Lan Hải đã cuốn hút người tham dự qua việc thuyết trình về đề tài đang có ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống của họ.
Trước hết, anh chị em sinh viên được vị bác sỹ hiện là thành viên UB Bác Ái Xã Hội thuộc HĐGMVN trình bày về khái niệm “sống thử”, những quan niệm thông thường về lối sống ấy, hiện trạng trong cuộc sống thanh thiếu niên thế giới và Việt Nam. Thật đáng tiếc để biện minh cho hành động của mình có bạn đã ngụy biện rằng nên thử trước xem có thích hợp không để tiến tới hôn nhân thì mới bền vững. Quan niệm như vậy chẳng khác nào nào “Hàng xài không hợp trả lại”, xem chính mình như những món hàng đổi chác, tự hạ thấp phẩm giá chính mình.v.v.
Sống thử mang lại những hậu quả đáng tiếc cho đời sống hiện tại của các bạn trẻ và ảnh hưởng đến tương lai lâu dài không thể nói hết về vật chất và tinh thần. Khi họ sống thử như vậy, nhiều lúc việc ngừa thai nhân tạo thất bại. Cuộc sống sinh viên tạo áp lực xô đẩy họ đi đến các trung tâm nạo phá thai, từ bỏ đứa con thân yêu của mình.Thật đau xót làm sao khi được nghe những thông tin mà bác sỹ đưa ra về con số phá thai tại Việt Nam, một hậu quả của lối sống thử ưa hưởng thụ. Việt Nam là một trong ba quốc gia có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, mỗi năm có khoảng 2,4 triệu ca phá thai trong đó lứa tuổi vị thành niên chiếm 1/5. Những sinh linh nhỏ bé chưa kịp ra đời đã bị giết đi hàng năm tương đương với dân số một tỉnh trung bình Việt Nam. Nhiều miền trên đất nước, những nghĩa trang chôn cất các hài nhi được các nhóm Bảo vệ sự sống thiết lập như ở Sài gòn, Nha Trang, đồi Ngọc Hồ - Huế, Gia Hòa – Vinh và nhiều nơi khác với con số hàng trăm, hàng ngàn ngôi mộ. Và như cha Xuân Đường trong bài “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi....” đã đưa ra hình ảnh thiên thần ở đồi Ngọc Hồ đang ôm mặt khóc. Những thiên thần của các em chưa kịp thực hiện sứ vụ mà Chúa giao cho mình đã bị “thất nghiệp” bởi vì thai nhi đó đã sớm bị loại trừ ra khỏi cung lòng và tình thương của người mẹ.
Đối lập với lối sống thử nói trên là những mối tình trong sáng, thánh thiện, biết hy sinh và tôn trọng lẫn nhau. Nhưng làm thế nào để có tình yêu đích thực đó là một vấn đề quan tâm của nhiều bạn, đặc biệt là những sinh viên nữ. Vị chuyên gia tư vấn nhiều kinh nghiệm của nhóm Bảo vệ sự sống đã trả lời cần phải biết định hướng cho tình yêu của mình, cách cơ bản nhất là phải cố gắng trở nên một người đẹp trong mắt mọi người về ngoại hình, tính cách và nhất là tâm hồn. Bác sỹ Lan Hải phân tích thêm về những thực trạng tình yêu hiện tại đó là yêu sớm, yêu thử, tình yêu văn phòng và lối sống chung không lập gia đình.... Đây là những biểu hiện làm cho tình yêu không đẹp như bản chất của nó trong giai đoạn hiện nay. Qua đó, bác sỹ cung cấp những ngộ nhận về tình yêu, giúp các bạn trẻ tránh những sai lầm thường gặp. Theo chị, để tránh ngộ nhận cần phải soi mình vào tình yêu Thiên Chúa để thấy được tình yêu hiện tại của mình.....Để kết thúc cho phần trình bày của mình, một câu hỏi được bác sỹ đưa ra mà chắc lẽ những ai tham dự buổi sinh hoạt hôm nay đều có thể tự trả lời, tự xác tín cho mình và cho bạn bè: “Sống thử: được gì và mất gì?”
Cùng sinh hoạt với sinh viên trong buổi chiều này còn có Lm – bác sỹ Hoàng Sô Băng. Cha đã kết hợp hài hòa lời chia sẻ về tình yêu thông qua màn ảo thuật với những vật dụng quen thuộc như chiếc khăn, chiếc vòng, tập vở....Xen lẫn các bài chia sẻ, để thêm không khí cho buổi sinh hoạt, các anh chị linh hoạt viên sinh viên Huế đã giúp cho hội trường những lời ca, những vũ điệu, những trò chơi vui vẻ.....
Sinh hoạt cũng là dịp để sinh viên nêu lên những thắc mắc của mình trong tình yêu, hôn nhân, lối sống. Những câu hỏi mà sinh viên đưa ra là những câu hỏi bám sát thực tiễn, những chuyện thường gặp như thái độ với những đòi hỏi xác thịt của người yêu, hôn nhân khác đạo, đời sống gia đình, nạo phá thai. v.v.
Hội ngộ và chia tay là qui luật cuộc sống, còn nhiều và rất nhiều vấn đề để nói nhưng với thời lượng một buổi sinh hoạt không đủ để nói hết những khúc mắc, trăn trở của các bạn sinh viên. Giờ tĩnh nguyện kết thúc buổi sinh hoạt được tiến hành sau giờ ăn tối tập thể ngay tại hội trường. Cả hội trường tập trung hướng về Thánh Thể Chúa với những ánh nến rực rỡ bao quanh. Trong chất giọng êm ấm ngọt ngào của Cha giám đốc Đệ tử viện Phaolô Nguyễn Xuân Đường trên nền nhạc Latinh du dương, trầm bổng; những lời cầu nguyện được cất lên. Đây chính là giây phút lắng đọng tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa nói sau một buổi chiều sinh hoạt sôi động, đầy bổ ích và lý thú.
Như bao buổi sinh hoạt sinh viên khác, người tham dự cũng ra về. Nhưng! điều quan trọng là người sinh viên Huế thu lượm được gì qua buổi sinh hoạt này? Họ đã ra về với nhiều tình cảm, nhiều bài học và kiến thức thực sự bổ ích, lý thú. Quỳnh Hoa - một sinh viên Hà Tĩnh đang theo học ngành Sư Phạm Mầm non tại đây cho biết: “Buổi sinh hoạt giúp tôi chuẩn bị hành trang vào đời sau này, nhận thấy mình cần phải phấn đấu hơn nữa để trở thành một người sinh viên tốt hơn, gần gũi Chúa hơn. Mong muốn có nhiều buổi sinh hoạt hơn nữa với lượng thời gian dồi dào hơn để có thời gian trực tiếp gặp gỡ các chuyên gia tư vấn.”
Và như lời của sinh viên Gioankim Bùi Khắc Nam phát biểu: “Thật hạnh phúc biết bao khi hôm nay chúng con lại được sum họp tại dòng Chúa Cứu Thế thân thương này với sự tiếp đón ân cần của cộng đoàn làm chúng con vơi đi nỗi nhớ cuộc sống xa nhà, những lo toan của các kì thi. Chùm đề tài mà bác sĩ Lan Hải và nhóm Bảo vệ sự sống cung cấp thực sự hữu ích cho chúng con vì nó giúp chúng con nhận ra những điều kỳ diệu mà Đấng Tạo Hóa thực hiện nơi chúng con để giúp chúng con thêm yêu mến và thiết tha tuân giữ giới luật của Ngài. Chúng con xin hết lòng tri ân.”
Ước mong rằng những buổi sinh hoạt về tình yêu được nhóm Bảo vệ sự sống dòng Chúa Cứu Thế tổ chức rộng rãi hơn trong nhiều nhóm sinh viên khắp toàn quốc để góp phần nâng đỡ những sinh viên có kiến thức thực tiễn giúp ích đời sống chính mình và bạn bè trong một môi trường đầy dẫy cạm bẫy, thử thách hiện nay.
Trần Đức Hà - Trần Trung
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 10:57)
Bùi Hữu Thư/VATV2008
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 20:32)
CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG, năm A
Ga 20, 19-23
Xem ra có một cái gì đó vẫn chưa ổn đối với các tông đồ khi Chúa Giêsu bị bắt, bị treo trên thập giá và ngay cả khi Ngài đã sống lại ! Cái chưa ổn, đó là phong ba bão táp trong lòng các tông đồ. Thầy Giêsu, một Vị Thầy đầy uy quyền, làm nhiều phép lạ, đã bị giết chết. Làm sao các tông đồ lại có thể yên lòng, bình chân như vại được ru ? Các Ngài cứ tưởng Thầy Giêsu sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen để rồi các được nhiều đặc quyền đặc lợi. Nhưng đùng một cái, mọi sự đều biến tan theo mây khói. Các Ngài sợ hãi người Do Thái, ở im lìm trong một ngôi nhà tại Giêrusalem, các cửa đều đóng kín và rồi Chúa Phục Sinh hiện đến, thổi hơi ban Thánh Thần cho các Ngài. Cuộc đời các Ngài thay đổi từ đây…
CHÚA PHỤC SINH HIỆN ĐẾN THỔI HƠI, TRAO BAN THÁNH THẦN VÀ 50 NGÀY SAU CHÚA THÁNH THẦN NGỰ ĐẾN KHIẾN CUỘC ĐỜI CÁC TÔNG ĐỒ HOÀN TOÀN ĐƯỢC ĐỔI MỚI:
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại cách rất rõ rệt, sau khi hiện ra, trấn an các tông đồ trong ngôi nhà cửa kín then cài, Chúa Phục Sinh thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho họ. Người nói:”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” ( Ga 20,22 ).Tuy nhiên, năm mươi ngày sau khi Chúa sống lại, vào buổi sáng Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa.Các tông đồ bỗng thay đổi hẳn: sự nhút nhát, sợ hãi biến khỏi các ông. Các ông đã trở nên những chứng nhân hiên ngang rao giảng Tin Mừng. Bởi vì, các tông đồ đã nhận được sự bình an của Chúa Phục Sinh. Sự bình an thật trong tâm hồn. Bình an của Chúa Phục Sinh khiến các tông đồ có thể đối diện với khổ đau và đối diện ngay cả cái chết. Do đó, Chúa Phục Sinh đã truyền lệnh cho các Ngài:” Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” ( Ga 20, 21 ). Các tông đồ được Chúa sai đi. Các Ngài đã hiên ngang, kiên cường vì như bài sách công vụ thuật:” Chính trong ngày lễ trọng đại của người Do Thái, năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Dịp lễ đặc biệt này qui tụ nhiều dân thuộc mọi thứ tiếng về Giêrusalem. Cũng trong ngày lễ vô cùng trọng đại này mà hoạt động của Chúa Thánh Thần được biểu lộ một các rõ ràng. Các tông đồ của Chúa Phục Sinh nói tiếng lạ và nhiều người thuộc mọi ngôn ngữ đều hiểu những gì các Ngài nói. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần tạo nên sự hiệp nhất chứ không như tình trạng con người muốn xây tháp Babel xưa. Còn thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã viết: “ Trong một Thánh Thần chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần “ ( 1 Co 12, 13 ). Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ, an ủi, soi sáng, ủy lạo vv…Chúa Thánh Thần còn được ví như: ” Quả tim mới “ theo ngôn ngữ của ngôn sứ Edêkiên. Hội Thánh của Chúa ở trần gian trong niềm tin của mình Chúa Thánh Thần chính là nguồn sống mới, nguồn sống vô biên.
CÁC TÔNG CHỖI DẬY, RAO GIẢNG VÀ XÂY DỰNG MỘT NGÔI NHÀ CHUNG ĐẦY ẮP TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ HIỆP NHẤT:
Được đầy tràn Thánh Thần, các tông đồ nhất nhất đã chỗi dậy, đã nắm lấy lịch sử của Hội Thánh. Các Ngài đã ra đi khắp tứ phương thiên hạ để đến với muôn dân, xây dựng Giáo Hội huynh đệ và hiệp nhất. Các Ngài đã để cho Chúa Thánh Thần mở toang tâm hồn, mở toang cõi lòng của họ, không còn nhát đảm sợ sệt, không còn xao xuyến hoang mang, nhưng các Ngài đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh và giới thiệu Nước Trời cho nhiều người. Nhờ Chúa Thánh Thần nhờ ngọn lửa tình yêu, các tông dồ đã mau mắn, nhanh nhẹ ra đi làm chứng cho Chúa bất chấp hiểm nguy, bất chấp khó khăn cho dù phải hy sinh tới cả tính mạng của mình. Đi tới đâu, các tông đồ cũng xây dựng giáo đoàn, xây dựng Hội Thánh. Và Giáo Hội của Chúa luôn đầy ắp tình thương, luôn xây dựng nước trời. Lễ Hiện Xuống là một cuộc hiển linh, một sự bầy tỏ Hội Thánh cho thế gian. Công Đồng Vaticanô là một Lễ Hiện Xuống mới. Công Đồng Vaticanô tuyên bố:” Bằng việc liên hệ của mình với Đức Kitô, Giáo Hội là một loại bí tích hay là một dấu chỉ sự hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa và hợp nhất mọi dân nước. Giáo Hội cũng là khí cụ kiến tạo nên một sự hiệp nhất như vậy”.
GIÁO HỘI MỜI GỌI CHÚNG TA LÃNH NHẬN CHÚA THÁNH THẦN:
Như các tông đồ cùng với Mẹ Maria trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện, chờ đón lãnh nhận Chúa Thánh Thần, mỗi người Kitô hữu chúng ta khi được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cũng đang được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng. Mọi Kitô hữu đã có Chúa Thánh Thần luôn được mời gọi làm chứng cho Chúa, bởi vì Hội Thánh là Hội Thánh truyền giáo. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh có nghĩa là đến với những người nghèo, những người neo đơn, đau khổ, những người gặp khó khăn, những người tù bị tù đầy, những người bệnh hoạn tật nguyền. Làm chứng cho Chúa là mở tung cửa lòng của mình ra để cho Chúa ngự. Làm chứng cho Chúa là không nhát đảm chối Chúa khi gặp khó khăn, dám tuyên xưng niềm tin khi phải tuyên xưng niềm tin. Mỗi người Kitô hữu phải có thái độ sám hối, quay về như Phêrô: ” Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy “. Làm chứng cho Chúa là xây dựng sự hiệp nhất giữa nhau, giữa các cộng đoàn, giữa các giáo xứ, giáo họ. Làm chứng cho Chúa là gieo vãi tình thương và bình an của Chúa cho nhiều người. Tình thương và bình an là hoa trái tốt lành của Chúa Thánh Thần. Sự bình an phát xuất bởi Chúa Phục Sinh và tình thương tự hiến do Chúa trao tặng cho nhân loại. Chúng ta cầu xin tái diễn một Lễ Hiện Xuống mới để mọi người hiểu biết sâu xa hơn về Giáo Hội của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến! Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến.
Cách đây hơn 2.000 năm, Thánh Thần của Chúa Phục Sinh bắt đầu ngự xuống trong tâm hồn các tông đồ cách đầy quyền năng. Chúng ta mừng ngày lễ trọng đại này với tất cả niềm tin và tình thương. Xin Chúa Thánh Thần đến trên chúng ta và biến đổi tâm hồn chúng ta hầu chúng ta trở nên những chứng nhân kiên trung của Chúa Phục Sinh.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 20:25)
CHÚA NHẬT THĂNG THIÊN (4/5/08).
Thiên đàng hỏa ngục là đâu?
Ở ngay trên qủa địa cầu đang quay.
Ta luôn có Chúa hằng ngày,
Ngài luôn hiện diện ở ngay lòng mình.
Mỗi khi san sẻ tận tình,
Ái nhân vì Chúa ta hình dung ra.
Ắt lòng sẽ thấy an hòa.
Bình an hạnh phúc khác xa lụy trần.
CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG (11/5/08).
Thánh Thần Thiên Chúa trong ta,
Là nguồn sức mạnh chan hoà thảnh an.
Thánh Thần nguồn mạch khôn ngoan,
Theo Ngài sẽ thắng Satan dẫn đường.
Đường Ngài chỉ lối yêu thương,
Nẻo ngay ắt thoát tai ương cõi trần.
Lợi trần thôi thúc bản thân,
Lụy trần chỉ chuốc lấy phần khổ đau.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI (18/5/08).
Chúa Trời Ngài ở trên trời?
Hay Ngài hiển trị giữa loài thế nhân?
Ta không thấy bởi mắt trần,
Chân thành ắt cảm nghiệm gần sát ta.
Yêu Người mến Chúa thiết tha.
Trọn tình hiếu nghĩa có Cha bên mình.
CHÚA NHẬT LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA (25/5/08).
Máu trong thân thể chính là,
Mạch nguồn sự sống nuôi ta hằng ngày.
Bao người chết đói đó đây,
Vì không lương thực, điều này chứng minh.
Do nhân thế thiếu sẻ tình,
Tình là lương thực dưỡng sinh con người.
Máu Mình Chúa là của nuôi,
Luân lưu huyết quản dưỡng đời tình chung.
Trương Hoàng
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 19:07)
9. Nếu các con muốn được ơn bền đỗ đến cùng, thì nhất định sẽ được.
(Thánh Augustine)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 19:06)
NGỰA CON QUA SÔNGNgựa con và ngựa mẹ cư ngụ bên một con sông đẹp, mỗi ngày ngựa mẹ đều vác lương thực qua sông để đem lương thực cho thôn làng ở phía đối diện.
Một hôm, ngựa mẹ kêu ngựa con đến trước mặt và nói:
“Con ạ, con đã thành một người lớn rồi, nên học giúp mẹ làm chút việc. Hôm nay thì do con đem lương thực đi nhé !” ngựa con nghe xong thì rất phấn khởi, vui vẻ nói: được.
Ngựa con chở lương thực và rất nhanh thì đến bên con sông nhỏ, nó nhìn thấy nước chảy rất mạnh thì trong lòng nghĩ rằng: nước sông sao mà sâu thế này, không biết mình có qua được không ? Khi nó đang còn do dự, thì nó thấy bác trâu đang gặm cỏ bên bờ sông, thế là nó vội vàng chạy đến hỏi:
“Bác trâu, bác có thể nói cho cháu biết con sông này nước sâu bao nhiêu ?”Bác trâu ngẫng đầu lên cười, nói:
“Cháu yên tâm, con sông này nước không sâu đâu, chỉ có ngang cổ chân của bác mà thôi.”Ngựa con nghe xong thì an tâm chuẩn bị qua sông, đột nhiên nó nghe một âm thanh nói:
“Ngựa con, tiên vàn đừng qua sông, nước rất sâu đó !” Ngựa con theo tiếng nói mà đi tới, nhìn thấy một con sóc đang đu ở trên cây lớn, lắc lắc cái đuôi lớn, nói:
“Mấy ngày trước, một người bạn của tớ đùa giỡn bên sông này, vì không cẩn thận nên rơi xuống nước, kết quả là bị nước cuốn trôi mà chết.”Bác trâu nói nước rất cạn, con sóc nói nước rất sâu, ngựa con không biết nghe ai, chỉ có cách là trở về nhà hỏi mẹ, mẹ nó sau khi hiểu sự tình thì dùng lời thành khẩn ý sâu xa nói với ngựa con:
“Vậy thì con có thử đi qua không ? Kinh nghiệm của người khác không nhất định là thích hợp với con !”Ngựa con nghe lời mẹ nói, lại đi đến bên bờ sông, nó thử tiến một bước thì phát hiện nước chỉ đến ngang đầu gối nó mà thôi. Cuối cùng ngựa con cũng qua sông cách thuận lợi, chở lương thực nhắm hướng thôn làng mà đi rất vui vẻ.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Làm việc thì nên suy nghĩ học cách làm độc lập, không thể chỉ nghe người khác, bởi vì kinh nghiệm và ý kiến của người khác không nhất định là thích hợp với mình và công việc mình đang làm, chỉ có chúng ta tự mình suy nghĩ và thử xem sao, mới có thể biết được lý lẽ trong đó.
Có một vài em không muốn làm bài tập ở trường mà chỉ muốn làm bài tập ở nhà, bởi vì các em khi lên lớp thì không nghe lời thầy co giảng, muốn về nhà làm bài tập để có cha mẹ hoặc anh chị làm dùm; cũng có một vài em học sinh luôn cứ nhờ người khác làm bài tập, vì các em đó không tích cực học hành, kết quả là em không theo kịp chúng bạn, thế là nản chí và bỏ học.
Lắng nghe ý kiến của người khác là điều tốt, nhưng không phải tất cả mọi ý kiến đều thích hợp với mình. Tốt nhất là học cách của con ngựa nhỏ là về nhà hỏi mẹ rồi tự mình đi làm thử xem sao.
Các em thực hành:- Nghe lời thầy cô giảng bài khi đến trường.
- Tập cách suy nghĩ độc lập, chỉ lúc nào “bí lù” mới hỏi người khác.
- Cha mẹ là người đáng tin cậy nhất để các em hỏi những điều mà mình muốn biết.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 16:23)
Mẹ Maria trong xưởng thợ Thánh GiuseTháng năm, Thánh Hoa, tháng kính Mẹ Maria, lại trở về không chỉ với bầu trời trong xanh, khí hậu tươi mát dịu dàng, nhưng năm nay ngày mồng 1 tháng 5 đồng thời cũng là ngày Giáo Hội kính trọng thể Lễ Chúa Thăng Thiên và đương nhiên cũng là ngày lễ Thánh Giuse Thợ. Sự trùng hợp đáng yêu của ba biến cố vĩ đại trên là dịp thuận tiện mời gọi tất cả chúng ta cùng đầy lòng yêu mến hướng nhìn cuộc sống của Thánh Gia Thất Na-da-rét.
|
| "Et erat subditus illis" (Lc 2,51) |
Thật ra, về những năm sống ẩn dật của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria và của Thánh Cả Giuse ở Na-da-rét, không một sử liệu nào tường trình lại một cách đầy đủ và rõ ràng, hoặc bằng văn từ hoặc bằng hình ảnh. Chỉ có một hoạt cảnh được trình bày bằng tranh trước đây mấy thế kỷ, đó là hoạt cảnh trong xưởng thợ Thánh Giuse của Cesare Mariani (xem hình kèm đây). Năm 1883, Cesare Mariani đã vẽ bức họa đó trong nhà thờ Thánh Giuse Thợ: Mẹ Maria đứng dựa tay vào bàn mộc trong xưởng thợ của Thánh Giuse, mặc chiếc áo khoác dài mầu xanh da trời và đang âu yếm nhìn Giêsu Con Mẹ đang tập cưa một thanh gỗ, đưới sự dìu đắt đầy tận tình và kiên nhẫn của người cha nuôi Giuse. Nhưng chính thanh gỗ mà trẻ Giêsu đang cưa đục đó lại là một cây thập giá, như dấu chỉ báo trước cái chết đau thương sau này trên Núi Sọ của Người. Dưới bức ảnh được đề hàng chữ bằng tiếng La-tinh:
«Et erat subditus illis» - Và Người tùng phục các ngài! (Lc 2,51).
Mariani là một đại diện của trường phái Rôma có tên là Purismus lịch sử, ngược lại với trường phái Ba-rốc và cổ điển. Đó là một trường phái không muốn chứng minh gì hơn là thực tại lịch sử; nhưng cũng vì thế, tác động do trường phái này mang lại có tính cách lạnh lùng và nhạt nhẽo.
Tuy thiếu đi những hình ảnh về những năm tháng ẩn dật của Mẹ Maria ở Na-da-rét, nhưng qua tác phẩm «Kommentar zum Magnifikat» của ông, chính Martin Luther đã diễn tả một cách rõ ràng về cuộc sống của Mẹ Maria như sau:
«Bà (Mẹ Maria) không khoe khoang tự mãn, không kiêu kỳ vênh vang cho mình đã trở thành Mẹ Thiên Chúa. Bà không đòi hỏi danh dự, nhưng Bà tiếp tục chu toàn mọi công việc trong gia đình như trước kia: Vắt sữa bò, nấu nướng, rửa bát đĩa, quét dọn nhà cửa và làm hết mọi việc trong nhà như một nữ gia nô hay một người mẹ nội trợ, kể cả những việc nhỏ nhặt và tầm thường nhất, như thể bà không hề nhận lãnh được những ân sủng vô cùng trọng đại nào cả. So sánh với các người phụ nữ láng giềng lối xóm, người ta không hề ghi nhận được gì có vẻ cao quý khác lạ nơi Bà hơn trước kia; Bà không yêu sách đòi hỏi gì cả, nhưng Bà luôn vẫn là một người phụ nữ nghèo hèn giữa đám những người đói khổ. Ôi, thật là một con tim đơn sơ và trong trắng biết bao! Ôi, thật là một đứa con tuyệt vời biết chừng nào của cả nhân loại! Làm sao những sự vô cùng trọng đại như thế lại được che dấu trong một con người nhỏ nhoi hèn yếu như thế!» (IV,4).
Lạy Mẹ Maria, chính vì tâm hồn đầy khiêm nhu chân thành như thế của Mẹ, Mẹ đã được Thiên Chúa tôn lên là Nữ Vương của cả trời đất. Xin Mẹ dạy cho chúng con biết sống khiêm nhu như Mẹ, để chúng con luôn xứng đáng là những đứa con yêu của Mẹ và ngày sau được cùng Mẹ về hưởng hạnh phúc Thiên đàng muôn đời. Amen
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 10:07)
Bó bông hoa tháng Năm
Trong thiên nhiên, thời tiết tháng Năm mát dịu, cành lá của cây cối trổ xanh tươi, bông hoa nhú nụ nở tươi thắm, loài Chim chóc, Ong Bướm, Chuồn Chuồn bay chuyền lượn, kêu hót trong khắp không gian… Một sức sống mới vươn lên tô điểm cho khu vườn nhiều mầu sắc rực rỡ.
Niềm vui đời sống đức tin cũng hòa lẫn với thiên nhiên trời đất trong cung cách mừng kính Đức mẹ Maria, mẹ Chúa thiên đình.
Tại sao lại như thế được?
Mầu xanh cành lá cây cối trong thiên nhiên là hình ảnh của sức sống, của niềm hy vọng và cùng hướng chỉ về Đức mẹ Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ sinh hạ Chúa Giêsu.
Cánh hoa nở bung vươn mình trong ánh nắng giữa không gian là hình ảnh tấm lòng mở rộng của Đức mẹ Maria đón nhận ý định của Thiên Chúa để Chúa Giêsu xuống trần gian làm người.
Mầu sắc tươi thắm của bông hoa diễn tả vẻ vinh quang thần thiêng thánh đức của Chúa Giêsu, người con của Đức Mẹ Maria.
Không chỉ ngoài thiên nhiên cây cối bông hoa xanh tươi bung nở vào tháng Năm, nhưng còn trong ý nghĩa suy diễn cho cuộc sống con người nữa: mầu xanh niềm hy vọng và đời sống triển nở.
Nên tháng Năm cũng là Tháng biểu hiệu của tình yêu: tình yêu vợ chồng, tình yêu mẹ cha, mà người tín hữu Chúa Kitô hằng xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ phù hộ cho được bền vững trong sáng nguyên tuyền.
Tình yêu vợ chồng, tình yêu mẹ cha luôn phát triển xanh tươi như lá cành cây cối giữa hai người và nẩy sinh bông hoa tươi thắm kết qủa là con cái.
Tình yêu đó không phải là điều gì có đó để chấp nhận, hay quên lãng lơ là. Nhưng là kho tàng báu vật cao qúy nhất đời con người cần phải được hằng quan tâm trân trọng gìn giữ bằng mọi cách cho lành mạnh tươi đẹp.
Một trong những cách thế đó là đời sống cầu xin tâm linh đạo đức.
Xin hái bó hoa mầu xanh tươi thắm, cùng thắp sáng cây nến đức tin dâng kính mừng Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức Mẹ phù hộ giúp đôi bạn trẻ nam nữ lòng vui mừng đón nhận cùng qúy trọng tình yêu vợ chồng của nhau. Tình yêu vợ chồng là ân đức thửa vườn Trời cao trao tặng đời con người.
Xin kết bó bông mầu đỏ nồng thắm cùng thắp sáng cây nến lòng biết ơn dâng kính Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức Mẹ phù hộ gìn giữ cha mẹ chúng con. Các ngài là ân đức cây cao bóng rợp Trời cao ban tặng cho con cháu.
Xin thu lượm bó bông hoa mầu trắng tươi tốt như giọt sương ban mai, cùng thắp sáng cây nến lòng yêu mến dâng kính mừng Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức mẹ phù hộ giúp các cha mẹ đón nhận con cái là ân đức hoa qủa Trời cao ban tặng cho gia đình, xã hội và Giáo hội.
Xin bện bó bông hoa mầu vàng cùng thắp sáng cây nến lòng cậy trông dâng kính Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức mẹ phù hộ gìn giữ con em bạn trẻ đang lứa tuổi phát triển. Họ là ân đức hạt giống trong sáng tạo của Thiên Chúa.
Xin quấn vành bông mầu tím cùng thắp sáng cây nến Chúa Phục sinh dâng kính Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức mẹ phù hộ cho những linh hồn đã qua đời được đón nhận ánh sáng sự sống lại như lòng họ tin tưởng mong muốn. Họ là ân đức tạo vật được cứu chuộc trong khu vườn sáng tạo của Thiên Chúa.
Tháng Hoa kính Đức mẹ Maria
LM. Nguyễn Ngọc Long
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 10:04)
Trong tương quan
40 ngày sau lễ Chúa Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời.
Nhưng Trời là gì ? Phải chăng Trời ở xa tít vượt khỏi tầng mây xanh?
Bài tường thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế ký viết:Thiên Chúa làm ra cái vòm ở trên và gọi vòm đó là trời. ( St 1,6).
Xưa nay hễ nói hay nghĩ đến trời chúng ta hướng tầm nhìn con mắt, hay ngón tay chỉ lên vòm trên cao đó.
Nhưng trời theo cách hiểu của đức tin không là nơi chốn hình thể địa lý, mà là trong tương quan.
Trời trong tương quan, là sự liên đới ràng buộc trọn vẹn giữa con người với Thiên Chúa của mình. Thánh Giáo phụ Augustino khi suy niệm về đời sống vĩnh cửu đã có tâm tình: „ Chính Thiên Chúa là nơi chốn cu ngụ của chúng ta“.
Lễ mừng Chúa Giêsu về trời mang ý nghĩa, Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, hóa thân làm người, đã cất nhắc bản chất con người tự nhiên của mình vào trong tương quan tình yêu kết hợp với Thiên Chúa Cha.
Như thế, Ngài tạo lập ra một không gian cho những ai tin theo Ngài, như Ngài đoan hứa: Ngài về trời trước dọn chỗ cho mọi người: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở…Thầy đi đến đó trước để dọn chỗ cho anh em“ (Ga 14,2).
Hình ảnh tâm tư này phải chăng cũng là hình ảnh tâm tư của con người chúng ta khi phải sống xa quê nhà, lòng hằng mong ước hướng về quê cũ?
Quê hương của ta không phải chỉ là nơi chốn đã sinh ra, cùng cư ngụ lâu năm, nhưng còn là của những liên đới đan bện vào nhau: xã hội cùng gia đình.
Quê hương cũng không phải chỉ là hình thể địa lý với ngôi nhà, đường xá, cầu cống, ruộng vườn…nhưng còn là điều gì tinh thần thiêng liêng nữa: cung lòng tình mẹ cha.
Quê hương cũng không phải chỉ là không gian dài rộng vuông tròn, cao thấp…nhưng còn là sự an bình cho thân xác cùng tâm hồn: đức tin vào Thiên Chúa.
Con người phải sống xa khỏi quê hương hạnh phúc thiên đàng, vì do hình phạt tội nguyên tổ gây ra. Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, qua đời sống sự hy sinh chịu chết, rồi sống lại và trở về trời, đã mở ra con đường dẫn đưa con người trở về lại trong tương quan với quê hương thiên đàng đã bị mất: TRỜI.
Lễ Chúa Giêsu lên Trời, 01.Mai 2008
LM. Nguyễn Ngọc Long
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 19:07)
8. Thánh sủng là từ trong tay của Thiên Chúa mà đến, nhưng qua tay Đức Mẹ Maria để đến với chúng ta.
(Thánh Bernard)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 19:06)
CỘNG ĐOÀN VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNHDù cho cộng đoàn rất tuyệt vời, thì cũng không thể trị liệu được căn bệnh hiu quạnh (cô đơn) mà chúng ta mang trên mình, chỉ có sau khi chúng ta phát hiện sự hiu quạnh này có thể biến thành bí tích, thì mới tiếp xúc với sự khôn ngoan; bởi vì bí tích này là thánh hóa, chính là sự hiện diện Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không trở lại trốn tránh sự cô đơn của chúng ta, và nếu chúng ta tiếp nhận vết thương của mình, thì chúng ta sẽ phát hiện đó là con đường để gặp Chúa Giê-su Ki-tô; khi chúng ta không nhờ công việc và hoạt động, hoang tưởng và tạp âm để trốn tránh hiu quạnh, khi chúng ta đối với vết thương của mình mà vẫn giữ nguyên tri giác, thì chúng ta sẽ hội kiến được Thiên Chúa.
Ngài là Đấng thi ân và an ủi, là Đấng đáp trả lại lời khóc than của chúng ta; khóc than của chúng ta phát xuất tự trong tăm tối cô đơn của chúng ta.
Sinh hoạt cộng đoàn chính là giúp chúng ta không trở lại trốn tránh vết thương quá sâu, lưu lại trong hiện thực của tình yêu. Cộng đoàn giúp chúng ta tin tưởng: nếu chúng ta có thể trở thành chất bổ dưỡng của tha nhân thì trung tâm của sự hoang tưởng và cái tôi sẽ dần dần được chữa lành. Chúng ta là một cộng đoàn được thiết lập trong sự tương thân, do đó mà mỗi người chúng ta đều có thể trưởng thành, đều có thể đem vết thương của chúng ta mở ra trước mặt Đấng vĩnh hằng, để Chúa Giê-su có thể thâu qua nó mà hiển hiện chính mình Ngài.
Tác giả: Ôn Lập Thành
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. dịch từ tiếng Hoa.
---------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
[email protected] [email protected]
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 19:04)
NÚI THÁI SƠN SO SÁNH CAO THẤP Núi Thái Sơn ở đông nhạc, núi Hoành Sơn ở nam nhạc, núi Hoa Sơn ở tây nhạc, núi Hằng Sơn ở bắc nhạc, núi Tùng Sơn ở trung nhạc, hợp lại gọi là “ngũ nhạc”. Thái Sơn là đầu của ngũ nhạc, địa vị trong cụm núi tự nhiên có quyền uy.
Trước đây thời nhà Đường, đại thi nhân Đổ Phủ đã làm thơ ca ngợi:
“Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu.” Trăm ngàn năm trở lại, Thái Sơn nghe được rất nhiều lời tán tụng, nó không nín được nên có một vài cảm giác lâng lâng kiêu ngạo.
- “Hừm, trong các đỉnh núi cao và nguy hiễm nhất, đẹp đẽ kỳ vĩ nhất, ưu tú hoa lệ nhất, hùng vĩ nhất thì thuộc về Thái Sơn là ta. Ta đưa tay ra là có thể hái được đóa mây trên trời, các anh có thể được như thế không ?”Các ngọn núi nhỏ vội vàng nịnh nọt nói:
“Ngài là chí tôn trong các ngọn núi, chúng tôi làm sao dám so với ngài được ?”Ngọn gió đem lời của Thái Sơn đưa vào trong lỗ tai của quần núi “ngũ nhạc”, mọi người sau khi nghị luận thì quyết nghị bình chọn ra một ngọn núi cao to.
Thái Sơn là người báo danh thứ nhất và nắm chắc là mình nhất định sẽ được quán quân, nó biểu môi nói:
“Thật là có mắt mà không thấy thái sơn, có cần phải so sánh như thế này không ?”Nhưng, kết quả so sánh và đánh giá thì quán quân là thuộc về đỉnh Thánh Mẫu, các đỉnh núi năm mồm mười miệng nói:
“Đỉnh Thánh Mẫu cao 8.848 mét, anh cao 1.524 mét, hai ngọn núi cao thấp cách nhau gần gấp sáu lần, anh à, anh cách quá xa.”Thái Sơn không cam chịu lép vế, nói:
“Vậy thì ta không so với đình Thánh Mẫu, á quân nhứt định là về ta ?”Các đỉnh núi lại cười:
“Ha ha ha, trên thế giới các ngọn núi cao trên 5.000 mét đều có khắp nơi, ngay cả trong “ngũ nhạc” anh cũng không phải là cao nhất mà. Bắc nhạc Hằng Sơn, tây nhạc Hoa Sơn đều cao hơn anh rất nhiều !”Thái Sơn trầm mặc rất lâu rồi thở nhẹ nói:
“Ngoài trời còn có trời, ngoài núi còn có núi, câu nói này thật đúng không sai.” Từ đó về sau, Thái Sơn trở thành khiêm tốn.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
“Thước có chỗ ngắn, tấc có chỗ dài”, ý nghĩa của câu nói này là con người ta ai cũng có cái hay cái dở. Nhân vô thập toàn, phải nhìn thẳng chỗ hay và chỗ kém của mình thì không thể coi trời bằng vung.
Con người ta ai cũng biết cái hay cái dở của mình, nhưng vì kiêu ngạo nên trở thành kẻ mù ngay chính trong con người của mình:
Có những bạn không biết hát, nhưng vì là lớp trưởng nên cũng làm vẻ ta đây có học hát và biết hát như ai, thế là hát trật bậy trong buổi sinh hoạt quan trọng làm cho mọi người cười ồ lên. Các bạn đó không khiêm tốn nhờ người khác hát dùm cho mình.
Có những bạn biết gia mình giàu có nên khi cô giáo dạy gì thì nói: ba mẹ tớ có thuê thầy dạy kèm rồi. Các bạn này không hiểu được buổi học chính quy và học thêm nó khác nhau như thế nào...
Núi Thái Sơn tuy là đứng đầu “ngũ nhạc”, nhưng không phải vì thế mà khoe khoang, bởi vì nó không cao hơn các ngọn núi khác, chẳng qua là vì vị thế của nó tốt nhất trong năm ngọn núi mà thôi.
Các em thực hành:- Khiêm tốn hơn nữa khi gia đình mình giàu có hơn các bạn.
- Khiêm tốn hơn nữa khi mình học giỏi hơn các bạn.
- Luôn cầu nguyện với Chúa cho mình được sống khiêm tốn.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 15:11)
Lễ Chúa Lên Trời/A
Lời trối thiêng liêng của Ðức Giêsu!
(Mt 28,16-20)
Mùa Phục Sinh kéo dài năm mươi ngày. Nghĩa là chúng ta mừng lễ Phục Sinh của Ðức Giêsu suốt năm mươi ngày liền. Vâng, sự Phục Sinh của Chúa là một biến cố vô cùng trọng đại và mang đầy ý nghĩa đối với cuộc sống chúng ta, hay nói đúng hơn, đối với sự cứu rỗi và hạnh phúc viên mãn của chúng ta, đến nỗi chúng ta phải cần một thời gian lâu như thế để «ăn mừng». Và thời gian trọng đại đó đã được Kinh Thánh chia làm ba phần: Biến cố Sống Lại – Lên Trời – Chúa Thánh Thần Hiện Xuống!
Ðức Giêsu chịu đóng đinh đã thắng vượt sự đau khổ và sự chết. Thiên Chúa đã cho Người sống lại trong một cuộc sống mới, cuộc sống trường cửu và bất tử, một cuộc sống chỉ nơi Thiên Chúa mới có. Và từ nơi đó, Người đã gửi Chúa Thánh Thần xuống trên các môn đệ và trên toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta cuộc tạm biệt các môn đệ của Ðức Giêsu và đồng thời chuyển đạt cho chúng ta lời trối thiêng liêng của Người!
Trước hết, Người đã khẳng định: «Thầy đã được ban cho mọi quyền hành trên trời dưới đất!» Ðức Giêsu đã chứng thực vai trò quan trọng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Ðức Giêsu không hành động theo ý riêng, nhưng theo trọng trách Chúa Cha đã giao cho. Vì thế, ngoài Người ra, không có bất cứ ai có được sự tương quan thân tình và chặt chẽ với Chúa Cha như Người với Chúa Cha. Qua Ðức Giêsu, Chúa Cha đã tác động một cách cụ thể trên toàn thể vũ trụ: trên trời cũng như dưới đất! Và qua Ðức Giêsu, chúng ta có thể nhìn thấy được những gì Chúa Cha muốn hiện thực ở trên trời cũng như ở dưới đất.
Tiếp đến, Ðức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người đến bước theo con đường của Người, rửa tội cho họ và dạy cho họ biết sống theo thánh ý Thiên Chúa. Công cuộc truyền giáo của Người, công cuộc dẫn đưa toàn thể nhân loại trở về cùng Chúa Cha của Người chưa hoàn tất. Còn nhiều người chưa tin nhận Thiên Chúa. Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát. Vì thế công cuộc truyền giáo của các môn đệ, của tất cả chúng ta mới được khởi sự. Ðức Giêsu đã để lại cho đoàn môn đệ nhỏ bé của Người một lời trối thiêng liêng, một sứ mệnh vô cùng cao quí, vô cùng to lớn và vô cùng nặng nề.
Ý muốn của Ðức Giêsu là mọi người biết tìm đến cùng Người, đến cùng Chúa Cha, và nhờ thế tìm gặp được sự cứu rỗi. Ðức Giêsu không muốn cho con người bị giam cầm trong sự bất toàn của họ. Người muốn dẫn đưa con người đến sự hoàn thiện, đến sự cứu rỗi, vì Người không thể dửng dưng trước số phận con người được. Người dấn thân cho hết mọi người. Người mong muốn cho họ điều thiện hảo nhất!
Cả chúng ta nữa, những người đã được lãnh nhận phép thánh tẩy, chúng ta cũng muốn cho tất cả mọi người tìm gặp được đức tin vào Thiên Chúa, tìm gặp được sự cứu rỗi. Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng mong muốn cho tất cả mọi người biết sống theo giới răn của Ðức Giêsu, hầu cho sự công bằng được hiện thực trên thế giới và hầu cho tình bác ái không còn là một lời nói đẹp, trống rỗng, nhưng là một sức mạnh có thể biến đổi được cuộc sống chung của nhân loại.
Nhưng chúng ta cũng đã cảm nhận được khả năng nhân loại của chúng ta quá hạn hẹp biết chừng nào! Vâng, nhiều khi chúng ta tự cảm thấy một cách rõ ràng sự bất toàn của mình, khả năng quá yếu kém và quá giới hạn của mình, đến nỗi chúng ta đâm ra thối chí nản lòng và muốn nhắm mắt buông xuôi, để mặc cho mọi sự muốn ra sao tùy ý. Nhiều khi chúng ta tự chợt thấy mình đang trong cơn thử thách như thế. Nhưng trong những giờ phút yếu mềm như thế, tôi lại cảm thấy được an ủi là sứ mệnh trọng đại đó không phải là lời cuối cùng của Ðức Giêsu, nhưng là lời hứa chân thành của Người: «Và đây, Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế!» (Mt 28,20b).
Ðức Giêsu ở cùng chúng ta, ở cùng từng người trong chúng ta. Ðức Giêsu ở cùng tôi! Và Ðức Giêsu ở cùng Giáo Hội của Người, ở cùng cộng đoàn các tín hữu của Người: Trên khắp mọi nẻo đường họ đi, trong tất cả mọi thành công và thất bại của họ. Ðúng như lời Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã nói trong bài giảng dịp đăng quang của ngài: «Ai tin vào Ðức Giêsu, sẽ không bao giờ cô đơn!».
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 11:57)
CON CÁM ƠN CHA,
VÌ CHA LÀ LINH-MỤC.
1. NHƯ MỘT LỜI NHẮC NHỞ.
Nhận lời giảng lễ tạ ơn cho Cha mớì hôm nay làm tôi nhớ lại hơn 4 năm trước đây vào ngày Chúa nhật, 18-4-2004, tôi đại diện Liên Đoàn Công-Giáo Việt-Nam tại Hoa-Kỳ đến dâng lễ tại Giáo xứ Đức Mẹ Lộ-Đức ở Houston, Texas để cám ơn cha sở và giáo dân của giáo xứ nầy đã rộng rãi công đức cho qũy xây cất Nguyện Đường Đức Mẹ La-Vang tại Hoa-Thịnh-Đốn. Sau khi dâng lễ xong tôi cùng với đứa cháu đi xuống cuối nhà thờ để có dịp chào thăm và cám ơn anh chị em giáo dân thì một thiếu phụ tiến đến, nắm tay tôi và nói: “Con cám ơn Cha, vì Cha là linh-mục. Cha cứ là linh mục như vậy mãi nghe, Cha”.
Thiếu phụ này tôi chưa hề quen biết đã cám ơn tôi, vì tôi là linh mục. Hôm đó, một thoáng nghĩ trong đầu tôi: Linh mục được cám ơn vì đã rửa tội, đã làm phép cưới, đã đi kẻ liệt, đã xức dầu, đã làm phép nhà, đã dàn xếp một vụ bất hoà cho một cặp vợ chồng lục đục, đã làm nghi thức an táng cho người chết vv.., nhưng họa hoằn như hôm nay tôi mới được cám ơn vì mình là linh mục. Năm đó (2004), sau 32 năm làm linh mục, lần đầu tiên tôi mới gặp và được nghe một người giáo dân cám ơn vì tôi đã đáp lại ơn gọi làm linh mục.
Rồi cũng từ đó thỉnh thoảng tôi nhớ lại lời “Cha cứ là linh mục như vậy mãi, đừng bỏ cuộc nghe, Cha” như một nhắc nhở của Chúa nhắn cho riêng mình. Cho đến nay, đã sống 36 năm trong thiên chức linh mục cũng giống như những cặp vợ chồng chung sống 36 năm trong cuộc đời làm đôi. Thời gian đầu thì tíu ta tíu tít tạ ơn Chúa đã ban cho mình một người phối ngẫu tuyệt vời, dễ thương, nhưng sau một thời gian chung sống, thay vì tíu tít tạ ơn lại quay ra phàn nàn kêu trách Chúa, sao Chúa lại gởi cho con một người bạn đường như một thánh gía qúa nặng. Phần tôi chưa bao giờ phàn nàn về ơn gọi và lý tưởng linh mục của mình, nhưng thỉnh thoảng tôi tự đặt ra cho mình câu hỏi TẠI SAO CHÚA CHỌN TÔI LÀM LINH MỤC và cũng tự tìm cách trả lời nhờ cuốn sách mang tựa đề “NHỮNG MẢNH VỤN TÂM TÌNH CỦA NỀN TU ĐỨC THỜI ĐẠI MỚI” do cha Phạm Quốc Hưng, CSsR biên soạn.
2. LÀM LINH MỤC HAY LÀ LINH MỤC.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Cha mới JB. Bennet Trần-Thiên-Bình vừa mới được thụ-phong linh-mục sáng hôm qua, 26-4-2008 tại nhà thờ chính toà GP. St. Paul & Minneapolis dưới sự đặt tay của Đức TGM. Harry Flynn. Hôm nay là cơ hội tốt, tôi mượn lại lời cám ơn của một nữ giáo dân trên đây, và xin mạn phép thay mặt qúy vị và anh chị em nói lời chúc mừng và gởi một thao thức, một ước nguyện tới người anh em tôi trong thiên chức linh mục: “Chúng tôi cám ơn Cha Trần Thiên-Bình vì Cha là linh mục. Xin Cha cứ là linh mục như vậy mãi, đừng bỏ cuộc nghe, Cha!”. Xin Cha cứ LÀ Linh mục, đừng LÀM Linh-mục. LÀ Linh mục thì Linh mục liên tục và suốt đời... còn LÀM linh mục thì có lúc LÀM có lúc KHÔNG. Cầu chúc Cha Bình khi nào cũng LÀ linh Mục thánh thiện như ngày hôm nay và suốt đời. Về điểm này, ĐGH Bênêdictô XVI trong chuyến tông du Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ từ 15-20/4/08 vừa qua đã có dịp nhấn mạnh: “Điều quan trọng là cần có những linh mục tốt, thánh thiện hơn là số lượng linh mục đông”.
3. TÌNH CHÚA QUANG PHÒNG
Trọng kính qúy qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Cha JB. Trần-Thiên-Bình trở nên linh-mục hôm nay, đối với tôi qủa là một sự quan phòng đặc biệt của Chúa và là một kỷ niệm khó quên.
Năm 1979 tôi gặp cậu bé JB. Bennet Trần Thiên-Bình vượt biên với cô mình là bà Nguyễn Thị Giang tại trại tiếp-cư Kaitax East Hongkong. Thỉnh thoảng cậu bé Bình làm chú giúp lễ cho tôi. Tôi vào Mỹ tháng Tư, 1980 và sau đó mẹ con và cô cháu bà Nguyễn Thị Giang cũng vào Mỹ, định cư tại vùng Orange County, Cali. Năm 1981 cô Giang của Bình gọi điện thoại cho tôi: “Cha ơi, cha có cách chi giúp cháu Bình được không, vì con thì hay đau yếu, sợ không đủ điều kiện dìu dắt nổi cháu ăn học thành tài theo như nguyện ước của cha mẹ cháu trước khi cô cháu rời Việt-Nam”. Tôi trả lời chị Giang, “nghe chị nói vậy thì biết vậy, cứ từ từ rồi tính”. Sau đó tôi gọi điện thoại hỏi ý kiến Bác Nguyễn Xuân Trường có cách gì giúp Bình được không. Hai bác đồng ý đón Bình vào nhà và hứa sẽ tận tình giúp đỡ. Tôi nghĩ thế là từ nay Bình đã có chỗ tựa. Cuối mùa thu năm ấy, Bác Trường và tôi ra tận phi trường Grand Rapids đón một cậu bé lùn tịt, đầu đội chiếc bêrê đen, kiểu Tàu Hongkong, mang chiếc quần Jean màu xám sậm, tay cầm một xách tay nhỏ đựng quần áo, từ trong phi-cơ bước ra và đem về nhà. Và cũng từ đó bé Bình trở thành đứa con trai út trong gia đình bác Trường và các anh các chị trong nhà cưng Binh như đứa em ruột. Bình tiếp tục được hai bác Trường săn sóc cưng chiều, nuôi cho ăn học từ cấp tiểu học, lên trung học rồi xong đại học. Tốt nghiệp đại học, Bình tìm được việc làm tốt và hợp khả-năng nên tiến thân rất nhanh trên đường nghiệp vụ. Bình đã từng là Business-Manager cho một chi nhánh của một ngân hàng lớn. Thỉnh thoảng gặp Bình, tôi thường nhắc Bình hãy coi hai Bác Trường như cha mẹ của mình, tuy hai bác không có công sinh nhưng có công dưỡng, cho nên con cố gắng: “gần thì rày viếng mai thăm, xa thì thỉng thoảng một năm vài lần”. Khi nào Binh cũng thưa: “Dạ, thưa cha, con đã!”
4. CHIA SẺ NIỀM VUI:
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Cách đây khoảng hơn 6 năm (2002) tôi nhận được điện thoại của Bình báo cho tôi một tin vui: Bình sẽ vào đại chủng viện Giáo phận St. Paul & Minneapolis để làm linh mục. Tôi ngạc nhiên và vui mừng. Ngạc nhiên vì một thanh niên điển trai, với chừng ấy tuổi đời, căng đầy sức sống, đang có việc làm tốt, có luơng cao thì chắc có nhiều cô ngắm nghé, tình nguyện nâng khăn sửa túi, nay dứt được bụi trần để đi tu. Tôi vui mừng, vì tuy Bình không phải là con thiêng liêng của tôi, nhưng là đứa con của giáo xứ Đức Mẹ Lavang tại Grand Rapids, Michigan, sẽ đi tu làm linh mục thì giáo xứ cũng hãnh diện, và lấy làm vinh dự. Kể từ năm 2000, giáo xứ Đức Mẹ Lavang tại Grand Rapids đặt ra một chiến dịch cầu nguyện cho mỗi gia đình, mỗi dòng họ có một ơn gọi tu trì mới, thánh thiện, và ước mơ của giáo xứ là kể từ năm 2000 đến năm 2008-2012 sẽ có một chủng sinh xuất thân từ giáo xứ sẽ được thọ phong linh-mục hay một nữ tu khấn trọn. Nay giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực. Chúng tôi cảm tạ Chúa, chúc mừng và cám ơn Cha Bình vì Cha là linh mục.
Những ngưòi có niềm vui to lớn nhất phải kể đến là bà cố và anh chị em của cha mới, bên cạnh đó là hai bác Nguyễn Xuân Trường đã dìu dắt Cha Bình từ lúc còn tấm bé cho đến lúc thành thân, thành nhân hôm nay. Hai bác Trường đây là song thân của một khoa-học-gia Mỹ gốc Việt trẻ tuổi nhất năm 1983, tốt nghiệp Ph.D. vật lý lúc mới 24 tuổì đầu. Hai bác Trường chủ trương đầu-tư trí-thức cho quốc- gia nên nhận bảo-trợ và làm cha mẹ nuôi cho nhiều thanh thiếu niên Việt-Nam tị nạn đến Mỹ, không nơi nương tựa thì căn nhà của bai bác Trường là tổ ấm tình thương, trong số đó có 2 người con thiêng liêng và một đứa cháu ruột của tôi. Trong lúc chủ-trương đầu-tư trí thức cho quốc-gia thì gia đình hai Bác Trường lại trở nên vườn ươm ơn gọi linh-mục cho Giáo Hội. Cha Bình đây là đứa con nuôi thứ hai của hai bác Trường làm linh mục. Người con nuôi đầu tiên của hai Bác Trường chịu chức linh mục năm 4-6-1994 là Lm Giuse Hoàng San Khánh, cháu gọi tôi bằng chú ruột, hiện đang là Chưởng Ấn tại Giáo Phận Honolulu ở Hawai. Ngoài ra trong gia-đình hai Bác Trường cũng có một người cháu ruột linh mục là Cha Philipphê Nguyễn Đình Sự, được hai bác Trường mang theo sang Mỹ năm 1975, chịu chức linh mục ngày 13-6-1987, hiện là cha sở một giáo xứ lớn nhất tại Giáo-phận Grand Rapids, Michigan.
5. CHÚA CHỌN TÔI LÀM LINH MỤC CHỈ VÌ TÔI YẾU ĐUỐI”.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Đây là tư tưởng trong chuơng đầu do một vị Phó Giám đốc chủng viện chia sẻ với các chủng sinh, những đồ-đệ thân-tín của Ngài, sẽ là những linh mục tương lai. Tác giả của câu nói ấy cứ nhắc đi nhắc lại: Phêrô, Mai-đệ-Liên, Âu-Cơ-Tinh, các Tông đồ. .. là những con người yếu đuối, nên Chúa đã chọn. “Chúa chọn tôi làm linh mục chỉ vì tôi yếu đuối”. Câu nói ấy của Cha Phó Giám Đốc chủng viện được Cha Quốc Hưng nhắc đến trong cuốn sách vừa kể qủa đúng cho cá nhân của tôi. 36 năm qua là một chứng nghiệm hùng hồn, bởi vì có nhiều lúc thất bại không cưỡng được, thay vì thành tâm nhìn nhận mình yếu đuối, chỗi dậy bước đi, tôi đã quay ra hạch hỏi và đổ lỗi cho Chúa: “Tại sao Chúa lại chọn con, để con ra nông nỗi nầy?” Sự yếu đuối trở thành bản tính thứ hai gắn liền với con người linh mục của tôi. Nhiều phen tôi đã lỗi phạm điều tôi biết là không nên làm và bỏ không làm những điều đáng ra tôi phải thực hiện theo kinh nghiệm của Thánh Phaolô. Thế mà Chúa vẫn tiếp tục tha thứ và nâng đỡ tôi trong những yếu hèn, hoan lạc với tôi trong những thành công lớn nhỏ. Chỉ vì con yếu đuối nên Chúa đã chọn con. Ôi sao huyền nhiệm và khó hiểu qúa về tình thương của Chúa dành cho một con người mỏng giòn và yếu đuối như con, mong biến con nên món qùa tặng cho thế giới. Liệu thế giới có tiếp ục đ ón nhận con như một món qùa tặng Chúa trao ban không?
6. “LINH MỤC LÀ MÓN QÙA QÚY CHÚA TRAO TẶNG NHÂN LOẠI, NHƯNG TRUNG THÀNH VỚI THIÊN CHỨC VÀ ƠN GỌI LINH MỤC LÀ MÓN QÙA NHÂN LOẠI DÂNG TẶNG LẠI THƯỢNG ĐẾ”.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Tư tưởng nầy của một nhà tu đức tân thời ở nơi chương hai của cuốn sách trích dẫn trên đây hẵn đã làm cha mới giật mình. Vế đầu của tư tưởng nầy thật đúng cho cá nhân cha Bình. Quả tình Chúa đã trao ban thiên chức linh mục cho nhân loại qua Cha Bình như một qùa tặng nhưng không. Còn chuyện “trung thành với thiên chức và ơn gọi linh mục để biến đời mình thành món qùa dâng tặng lại Thượng đế” trong tâm tình tạ ơn thì hiển nhiên Cha Bình sẽ rất lo sợ và xin qúy vị và anh chị em cầu xin cùng Chúa ban cho Ngài ơn trung thành với ơn gọi linh, khởi sự từ ngày hôm qua. Xin cho cha Bình ơn khiêm hạ để tình thương Chúa mãi mãi hiện diện trong Cha.
Ở đây tôi nhớ tới lời hứa của Chúa: “Nầy Ta hằng ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xưa nay ai cũng hiểu câu nói ấy ám chỉ việc Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Nhưng nếu một ngày kia, Giáo Hội không còn ơn gọi làm linh mục nữa, liệu Chúa Giêsu có còn tiếp tục hiện điện trong Bí Tích Thánh Thể nữa không?
Đứng trước liệt qúy vị và anh chị em Chúa hôm nay, tôi có qúa tham vọng không khi nêu lên đề nghị nầy? Ngày 22-4-08 vừa qua ĐGH đương kim chúc lành cho sáng kiến của Thánh Bộ Linh Mục và Tu Sĩ khi Thánh Bộ nầy phát động phong trào MẸ THIÊNG LIÊNG và CHẤU THÁNH THỂ CẦU NGUYỆN CHO SỰ THÁNH THIỆN CỦA LINH MỤC. Qúy vị và anh chị em chưa phải là ông bà cố thực sự, nhưng có dám và vui lòng nhận làm ông bà cố thiêng liêng cho một số chủng sinh, linh mục và hy sinh mỗi tuần một nửa tiếng hay một tiếng đến nhà thờ Chầu Thánh Thể cầu cho các linh mục được thánh thiện? Thời đại nầy, hơn bao giờ hết, cần nhiều linh mục thánh để biến đổi thế giới như lời khẳng định của ĐGH mà tôi có dịp nhắc đến trên đây.
7. “KHỞI ĐI BẰNG YÊU THƯƠNG, KẾT THÚC TRONG YÊU THƯƠNG, NHƯNG CAO ĐIỂM CỦA YÊU THƯƠNG LÀ SỰ HIỆN DIỆN”.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Đây là tư tưởng trong phần cuối của cuốn sách nói trên. Qúy ân nhân, qúy thân nhân nội ngoại và qúy bằng hữu thân sơ đã thương tình mà đến với cha mới trong thánh đường St. Adalbert nầy, tham dự thánh lễ tạ ơn với người con cưng của Chúa, của Giáo Hội, của giáo xứ và của gia đình họ Trần sáng sớm hôm nay. Cá nhân cha mới cảm thấy Chúa đã quan phòng sắp xếp và đã thương tuyển chọn để lãnh nhận hồng ân trọng đại là trở nên linh mục Chúa qua việc đặt tay của Đức Tổng Harry Flynn, Giám Mục Giáo Phận St. Paul & Minneapolis ngày hôm qua. Bởi vậy cá nhân cha mới cậy nhờ và tha thiết xin qúy ân nhân và thân hữu vui lòng đến, cùng hiện diện và chung lời cảm tạ ơn Chúa với Ngài trong thánh lễ tạ ơn nầy. Tân linh mục Trần Thiên-Bình luôn luôn quan niệm và xác tín rằng qúy vị đến được cũng là thương, không đến được cũng là thương, nhưng cao điểm của yêu thương là sự hiện diện. Chính vì lý do ấy mà tôi mạn phép thay Ngài thân thưa với liệt qúy vị mấy lời tâm tư nầy. Có thể vì một lý do nào đó, một số trong qúy vị đó đã dự tính sẽ đến, nhưng vào phút chót đã không đến được, nhưng ngay từ giây phút nầy đã thực sự hiện diện với cha mới trong tâm tình cảm tạ on Chúa “ở đây và bây giờ”. Đây là một biểu lộ trong sự hiệp thông thiêng liêng cao qúy. Sự hiện diện của mỗi qúy vị và anh chị em trong dịp dâng lễ tạ ơn của cha Bình hôm nay thiệt là trân trọng và cao qúy. Đối với cha mới và gia đình, đây là món qùa tuyệt hảo nhất, bởi đây là cao điểm của yêu thương, lột tả hết được tình thương mến của liệt qúy vị và anh chị em Chúa trong gia đình giáo xứ St. Adalbert nầy, muốn nâng đỡ tân linh mục tiếp tục kiên vững trong ơn gọi làm linh mục thánh thiện suốt đời như món qùa thế giới dâng tặng lại cho Chúa.
8. MUỐN CON LÀ LINH MỤC THÌ BỐ MẸ PHẢI LÀ LINH MỤC TRƯỚC.
Trọng kính qúy cha, kính thưa qúy vị
thưa anh chị em và cách riêng kính thưa bà cố,
Thật là một thiếu sót to lớn và rất bất công, nếu tôi không nhắc đến ở đây điểm nầy. Cha Bình trở thành linh mục hôm nay là bông hoa, là nụ kết thành trái từ cây cổ thụ là ông cố John Bennett. Rất tiếc thân phụ của Cha Bình không còn nữa để chứng kiến được những hy sinh to lớn trong kiên nhẫn, những đe dọa liên tục trong vai trò tông đồ giáo dân vào hoàn cảnh VN sau năm 1975 để giữ vững giuờng mối cho một họ đạo bé nhỏ nay trở thành một giáo xứ tương đối có tầm vóc thuộc Tổng Giáo Phận Saigòn. Bên cạnh cây to bóng cả trong sứ vụ tông đô giáo dân ấy, bà cố là hậu phương lớn cho ông cố. Bà cố là người liên tục giữ vai trò trưởng Hội Đạo Binh Đức Mẹ trong nhiều năm kể từ sau năm 1975 cho đến ngày rời giáo xứ thân yêu để sang Mỹ đoàn tụ với con cháu, nhưng lòng trí khi nào cũng gắn liền với giáo xứ mẹ ở Việt-Nam. Những hy sinh to lớn ấy của ông bà Cố đã chung đúc nên linh mục JB. Trần Thiên-Bình hôm nay.
Chúng tôi cầu nguyện cách riêng cho ông cố JB. Bennet và chúng tôi đặc biệt cám ơn bà cố vì bà cố là mẹ của linh mục Trần Thiên-Bình. Không có ông bà cố thì Giáo Hội, Giáo Phận, Giáo xứ và dòng họ Trần không có đuợc linh-mục JB. Bennet Bình hôm nay. Bên cạnh ông bà cố là những người có công sanh và nuôi dưỡng đức tin, thì hai bác Nguyễn Xuân Trường là những người có công dưỡng dục cho cha Bình trở nên linh mục hôm nay. Hai Bác xứng đáng là “ông bà cố nuôi” với tất cả niềm trân trọng, tri ân của những người đã nhờ hai Bác mà thành đạt trong ơn gọi linh mục như Cha Sự, Cha Khánh và cha Bình đây.
9. TÂM HUYẾT ĐÀN ANH GỞI LẠI CHO ĐÀN EM.
Thưa cha Bình thân yêu! Tuổi đời của Cha là 37. Tuổi linh mục của tôi là 36. Đây là tâm huyết của một linh mục đàn anh đi trước cha trong 36 năm kinh nghiệm, xin gởi tặng Cha những món qùa xé lẻ không trọn gói nầy:
1. Trong đời sống mục vụ và rao giảng, xin Cha cầu nguyện nhiều rồi suy nghĩ kỹ những điều Cha muốn nói thì Cha sẽ nói được những điều Cha suy nghĩ.
2. Hãy bám kỹ vào Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn sống của đời linh mục và là chìa khóa mở vào các ngóc ngách của đời mục vụ.
3. Hãy dâng kính Mẹ Maria mỗi ngày một chuỗi Mân côi.
4. Hãy yêu thương giói trẻ thì giới trẻ sẽ mang bố mẹ chúng đến làm việc tông đồ cho Cha.
5. Trung thành với các giờ kinh phụng vụ, nguyện gẫm ban sáng và xét mình ban tối (bằng cách trả lời 2 câu hỏi: Hôm nay tôi đã làm điều gì đúng và hôm nay tôi đã làm điêu gì sai?)
6. Nếu có yếu đuối hãy khiêm hạ nhìn nhận mình bất toàn rồi chỗi dậy từ sự yếu đuối, bắt đầu lại từ đầu.
Đây là những đúc kết được viết ra từ kinh nghiệm mục vụ để giúp tôi, giúp cha trung thành với ơn gọi Linh mục như một món qùa chúng ta dâng tặng lại cho Chúa trong tâm tình biết ơn.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em.
Chúng ta cùng hiệp ý tạ ơn Chúa và tiếp tục cầu nguyện cho cha JB. Trần Thiên Bình được “là linh mục như vậy mãi, đừng bỏ cuộc” như lời chúc nguyện của một nữ tín hữu nhắc nhở tôi ngày 18-4-2004.
Đến muôn đời xin cảm tạ Chúa và cám ơn liệt qúy vị và anh chị em hết thảy.
Muôn vàn trân trọng,
Giảng lễ tạ ơn của cha JB. Bennet Trần-Thiên-Bình, ngày 27-4-2008 tại giáo xứ St. Aldalbert, MN.
LM Phêrô Hoàng-Xuân-Nghiêm
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 10:51)
THĂNG THIÊN, SỰ HƯỚNG VỀ
Sự hướng về bao quát trong thiên nhiên, dường như mọi thọ tạo đều hướng về trời cao; điều này được thấy rõ nét nhất nơi cây xanh thảo mộc. Trong thiên nhiên, ở cõi vật chất, hình ảnh của ngọn núi là bộc lộ sự hướng về trời cao, biểu trưng bằng sự vươn tới. Trong các động vật, sự hướng về biểu lộ trong chu kỳ tiến hóa, từ bậc thấp lên bậc cao. Nơi con người, sự hướng về biểu trưng bằng hình ảnh con người đứng cao đưa hai tay vươn lên cõi trời thăm thẳm.
Sự hướng về luôn là biểu cho mọi sự sống đang bước lên trong ngày đăng quang của hòan vũ. Tạo dựng hướng về ngày đăng quang, không còn là quay về điểm khởi đầu để bắt đầu chu kỳ mới. Vạn vật hướng về theo lối đường thẳng, như biểu tựơng của sự sống trong tiến hóa liên tục, trong hướng chiều vươn lên tới trời cao. Hình ảnh vươn cao mãi rõ nét nhất là hình ảnh của một cây sự sống, Léonard de Vinci diễn tả bằng một phân đọan trong bức họa Nữ Thánh Anne, Đức bà Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng. Cây sự sống vươn thẳng, hằng năm thay mùa trút lá, cuộc hóan cải không ngừng được diễn tả bằng sự trút lá để mọc ra những chiếc lá mới, và cũng theo chu kỳ thay lá đó, ngọn mỗi ngày vươn cao. Tự thân, cây xanh đó biểu hiện ba cấp của vũ trụ: Đất - Người - Trời, đó cũng là hình ảnh biểu trưng của Tam Tài gồm ba yếu tố kết thành: Trời - Đất - Người, làm nên một thể thống nhất. Trời biểu lộ tính chất Dương, Đất biểu lộ tính chất Âm, Người so với Trời biểu lộ tính chất Âm, Người so với Đất mang tính chất Dương.
Trời - Đất - Người biểu hiện điển hình cho các bộ ba khác. Trong Đạo Mẫu bộ ba được biểu hiện Trời - Đất - Nước, trong gia đình biểu hiện bộ ba Cha - Mẹ - Con, trong lịch sử biểu hiện bộ ba Không gian - Thời gian – Con người. Trên Trống Đồng Đông Sơn, bộ ba biểu hiện Chim – hươu - người. Bộ ba biến thiên trong kiến trúc có thấy như Tam Quan, trong cảnh quan tổng thể: thiên nhiên - kiến trúc - người. Con số ba biểu hiện tư duy đặc thù số lẻ của người nông nghiệp Phương Nam.
Cây xanh tập trung nơi nó biểu tượng ba cấp độ vũ trụ, rễ bám sâu vào trong đất, khỏang giữa không gian giữa trời và đất là những cành lá vươn dài tỏa rộng, như thế đứng của con người dang hai tay ôm lấy hòan vũ, ngọn trên hết những cành lá là đầu đội trời. Tổng quan nhìn theo cấp độ của con người có thể diễn tả: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, thân đứng thẳng như cây trục của thế giới. Con người là trung tâm của hòan vũ là đỉnh cao của tạo dựng.
Con người tội lỗi cả vũ hòan quằn quại rên siết, bởi vì chân con người không vững để đủ làm trụ đứng cho loài thọ sinh. Khi con người bất hòa với trời, có nghĩa là con người để đầu ngọn cậy chúi đầu xuống đất, hình ảnh này biểu trưng cho sự quằn quại, chứ không còn biểu trưng cho sự hướng về tuyệt đối. Con người là trục thẳng đứng của thế giới khi trục đứng ấy ngả nghiêng thì thế giới chịu sự nghiêng ngả. Sự thực con người đã ngả nghiêng bởi sự lỗi của mình, cho nên cần có một cây đứng vững để con người bám vào làm trụ.
Cần có một cây trường sinh. Cây đó, đã được trồng trong nhân loại là cây trường sinh treo Đấng Cứu Thế. Henri de Lubac đã mượn dòng văn trữ tình của Chrisostome - Giả Danh để diễn tả trong bài giảng ngày Phục Sinh, đã goị cây Trường Sinh đó là: “Vật đỡ vững chắc của Tạo Hóa, mối liên kết của vạn vật, chỗ dựa cho cả trái đất, nơi con người cư trú, sự đan thoa vũ trụ mang tất cả bản tính con người. Được an định bằng những chiếc đinh vô hình của Thần Linh để biểu lộ một ý chí tối thượng; đỉnh đầu đội trời, gốc cây cắm rễ, cánh tay mở rộng đến vô biên ôm lấy hòan vũ”.
Như vậy, là đã có một cây thực sự là trụ đỡ nâng tòan vũ hướng về mà Thiên Chúa đã trồng vào trong nhân thế. Ý chí của con người từ nay không còn biểu lộ sự gục ngã hòan tòan nếu họ biết ngước mắt nhìn lên (Hình ảnh con rắn đồng). Bóng tối là sự đóng chặt, nhốt kỹ, bị xé tan khi con người mở ra để ánh sáng theo tự nhiên của bản chất là tràn vào. Sự vươn lên không mỏi mệt của con người được bảo đảm không hề tắt trong ý chí hướng thượng. Tội lỗi, sự dữ, cái xấu …không giam giữ nổi cũng như không thể đánh quỵ một con người, nếu con người còn ngước mắt nhìn lên.
Sự hướng về được biểu lộ trong ánh mắt nhìn lên, từ nay đã hòan tòan mở ra cho con người một lối thoát, không có gì có thể kìm giữ được nổi một con người khi họ còn biết nhìn lên. Nhìn lên là tư thế của một con người xứng đáng là một con người. Con người nhìn lên để vạn vật được chỗi dậy, nếu con người tin vào khả năng phi thường đó, con người sẽ tiếp tục trở thành trục của thế giới, là đỉnh cao của thọ tạo.
Hướng về, nhìn lên là mở ra một con đường hy vọng, sự hy vọng của một bậc thang bước lên từ hữu hình sang vô hình, mà nhiều nền văn hóa biểu trưng. Cây được dựng lên, họ nhảy múa, ca hát, thực hành lễ hội chung quanh gốc cây nêu ngày lễ. Hình ảnh đó cũng được diễn tả những bằng cây trụ đứng được dựng trong Thánh Đường, trong nhà rông của người dân tộc, trong các Chùa Chiền biểu trưng bằng cây bửu tháp, trong cây sồi của người Celtes, cây Gia của người Đức, cây oliu của người Hồi. Sự hy vọng ở đâu và lúc nào cũng được biểu lộ trong hầu hết các tôn giáo, niềm hy vọng đã thắp sáng sự thành tín.
Sự hy vọng, niềm trông đợi trong niềm tin của Kitô Giáo không dừng tại đó, không chỉ là hướng về mà còn là bay về, không chỉ là bám đất mà là lên trời. Không ràng buộc nào nữa có thể giữ chân con người, đó là niềm hy vọng cuối cùng của vạn vật và con người.
Lên trời hay thăng thiên là một hành vi dứt bỏ hòan tòan mọi quyến luyến trong hòan vũ này để tới nơi hòan tòan mới, hòan tòan không còn tỳ ố. Trong nhân loại đã có một người thăng thiên, dứt bỏ hòan tòan và đến nơi hòan tòan của Tuyệt Đối, con người số một của hòan vũ đó là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Đức Giêsu Kitô, một nhân loại mới được thâu họp. Hạnh phúc và sung sướng tràn ngập trong hòan vũ này chảy lan tràn như sữa và mật trong ngày Chúa Thăng Thiên. Sự dữ đã hòan tòan sụp đổ, không còn có một cơ may nào để giữ chân một con người. Con người đã siêu thăng, sự nguyên tuyền đã được tái tạo vượt xa sự nguyên tuyền trong ngày đầu sáng tạo. Sự trội hẳn đã khơi mầm trong hòan vũ, một nhân loại mới được sinh lại hòan tòan mới trong Đức Giêsu Kitô, nhờ Đức Giêsu Kitô. Đó là niềm tin, sự hy vọng lớn nhất của nhân loại, trong Ngài (Đức Giêsu Kitô) và nhờ Ngài con người và vạn vật thấy mình được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.
Thăng thiên là lối mở về phía vô biên mà Thiên Chúa đã khai mở cho nhân loại, từ đó niềm xác tín trên trái đất này, ngày càng gia tăng khi tuyên xưng mầu nhiệm: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi…”. Thật sự là một mầu nhiệm khi mọi dòng suy nghĩ được bắt đầu sinh ra ở dưới thế, viên mãn ở trên trời, ở nơi Thiên Chúa ngự được hòan tất. Con người từ đó biết rằng sinh ra để sống chứ không để chết, mọi cuộc đời đếu mang một ý nghĩa và giá trị để đòi buộc con người phải tôn trọng sự sống. Như vậy, từ lối khai mở của Thiên Chúa về chốn thăng thiên, con người được mời gọi làm cho tòan vũ này trở nên một nơi đáng sống, cưu mang và thừa hưởng sự sống.
Thăng thiên được diễn tả rất nhiều trong nền hội họa của Kitô giáo, ở đó, diễn tả con người được giải thóat khỏi xác hay chết này bằng những hình ảnh hai tay giơ cao như để cầu nguyện, gối quỳ biểu hiện lời khấn vái, thân mình được nâng lên khỏi mặt đất mà không cần gì để đỡ nâng, những chòm sao kết thành triều thiên đội trên đầu, và đôi khi có những thiên thần cất cánh đưa con người lên không trung. Tất cả những thể loại biểu hiện ấy diễn tả con người lúc nào cũng hướng về nơi tòan thiện, tòan mỹ và chân lý mỗi ngày một hơn trong mọi nỗ lực của trần thế. Có nhiều cấp độ của sự thăng hoa, đó là những bậc thang trên linh đạo, ngày mỗi ngày hòan thiện hơn theo lời mời gọi: “ Các con hãy trở nên hòan thiện hơn như Cha của các con là Đấng Tòan Hảo ngự trên trời” (Mt 5, 48). Trở nên tòan hảo là đánh dấu một khát mong mọc từ đất thấp vươn tới trời cao, và được hòan thành nơi đó. Trong các khát khao của nhân loại đã được nhận lời, được hình thành và là câu trả lời của Thiên Chúa nơi nhân loại, là nơi Đức Maria, Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác. Đó là một sự kiện bảo đảm chắc chắn cho mọi con đường nỗ lực vươn lên trong nhân loại. Tinh thần hóa tuyệt đối của tòan thể con người từ xác thể tới tâm hồn, để thấy rằng thân xác bởi khí huyết này là khởi sự cho thân xác thần thiêng, sự chết của xác thể này là sự nảy mầm cho thân xác bất tử.
Thăng Thiên và cuối cùng để nhận thấy rằng con người là gì mà được Thiên Chúa quá yêu thương, phàm nhân là chi mà Thiên Chúa lại quá bận tâm và nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương con người quá đỗi. Ngài đã dựng nên con và đã không để con đời đời trong sự hư vô, để cho con có và có tất cả.
Lm Giuse Hòang Kim Toan
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 10:44)
LỄ THĂNG THIÊN
GIÁO HỘI THI HÀNH SỨ VỤ MỚI
A. DẪN NHẬP.
Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người chịu chết trên thập tự để chuộc tội cho lòai người, để con người được quyền làm con Chúa và được thừa hưởng Nước Trời. Ngài đã đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, chiêu tập môn đệ, thành lập Giáo hội để tiếp nối công việc của Ngài ở trần gian. Sau khi đã hòan tất sứ mạng một cách hòan hảo, Đức Giêsu trở về cùng Chúa Cha để được hưởng vinh quang mà Cha đã dành cho Ngài. Hôm nay là lễ Thăng Thiên và cũng là ngày bàn giao quyền năng và sứ mạng của Ngài cho các môn đệ và Giáo hội.
Trước khi từ giã các Tông đồ đi về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu trao lại sứ vụ của Ngài cho các ông là loan báo Tin mừng cho muôn dân. Tuy Đức Giêsu hứa sẽ ở cùng các ông cho đến ngày tận thế nhưng Ngài không trực tiếp giảng dạy được mà phải nhờ đến các ông và Giáo hội. Từ đó, Giáo hội phải nhận lấy trách nhiệm tiếp nối công trình của Ngài như Ngài đã dạy: ”Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hiệp thông với các môn đệ được chứng kiến việc Chúa lên trời, ta cùng mang lấy tâm tình và bắt chước công việc các ông sau khi Chúa về trời, đó là “Chúa về trời, ta vào đời”. Ta phải vào đời để làm tròn sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta, đó là “Làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Chúa”(Mt 28,20) bằng đời sống chứng nhân của mình. Đồng thời hãy vui mừng phấn khởi với lời hứa của Chúa: ”Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con… để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thiên đàng là quê hương của chúng ta, nơi Chúa đang chờ đợi. Nhưng dầu sao chúng ta phải nỗ lực không ngừng để tiến tới nơi đó vì “Nuớc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”(Mt 11,12; Lc 16,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 1,1-11: Bài đọc 1 được rút ra từ sách Công vụ Tông đồ của thánh Luca và cũng là tác giả của sách Tin mừng thứ ba. Thánh Luca cho biết Chúa Giêsu kết thúc công việc mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài, nay Ngài về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trước khi về trời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ hai điều:
* Thứ nhất Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Hãy tin tưởng chờ đợi.
* Thứ hai Ngài trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp cùng trái đất.
+ Bài đọc 2: Ep 1,17-23: Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để nhận biết mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, và mở trí lòng ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã lãnh nhận. Đức Kitô đã được trỗi dậy từ cõi chết, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn vật: ”Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,23).
+ Bài Tin mừng: Ga 28,16-20: Thánh Matthêu kết thúc sách Tin mừng của Ngài bằng một bài ngắn gọn tường thuật việc Chúa Giêsu từ giã các môn đệ mà về trời. Ý chính của bài Tin mừng này cũng giống như bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ hãy tiếp nối công trình của Ngài. Tuy Ngài không hiện diện để các ông trông thấy hay nghe thấy nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng một cách thế mới để hoạt động trong Hội thánh. Ngài sẽ còn ở lại với Hội thánh cho đến ngày tận thế. Phần các ông ở lại, hãy thực hiện lời Chúa: ”Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chúa về trời, ta vào đời.
I. ĐỨC GIÊSU VỀ TRỜI.
Sau khi sống lại, Đức Giêsu liên tiếp hiện ra với các môn đệ để vừa xác nhận việc Ngài sống lại vừa để bổ túc việc dạy dỗ các ông.
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ trong thời gian bao lâu ? Thánh Luca cho biết là 40 ngày (các sách ngụy thư nói đến 50 ngày hay 18 tháng), một thời gian khả dĩ cần thiết để kiện tòan việc dạy dỗ các tông đồ.
Hôm nay Đức Giêsu quyết định ra đi vĩnh viễn trong một cuộc hiển linh đầy quyền năng, một cuộc Thăng thiên về nhà Cha trên trời. Có người cho rằng đây là lần hiện ra lần sau hết với 500 môn đệ để mọi người chứng kiến việc Chúa lên trời. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho biết chỉ có 11 tông đồ qui tụ về Galilê để được dạy dỗ và chứng kiến việc Chúa lên trời. Sở dĩ chỉ có 11 tông đồ vì Giuđa đã phản bội Chúa, đáng lẽ phải hối hận và đi tìm gặp Chúa đệ tạ lỗi thì lại đi thắt cổ tự tử (Mt 27,5).
Thánh Matthêu cho biết tiếp: ”Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông (Mt 28,16). Trong Thánh Kinh, núi là nơi mang một tính chất thiêng liêng. Theo thánh Matthêu, các bản văn, lề luật quan trọng đều được ban ra từ trên núi như Thập giới, Tám mối phúc thật (Mt 5,1), Biến hình (Mt 17,1). Núi là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, để tôn vinh và thờ lạy.
Khi thấy Đức Giêsu “Các ông phục lạy Ngài”(Mt 28,17). Thánh Matthêu có ý dùng chữ “Phục lạy”. Động từ này có ý nghĩa thần học chính xác. “Phục lạy” chỉ được dùng cho những ai đã nhận biết phẩm vị của Đức Giêsu và nhìn nhận phẩm vị này qua cử chỉ đó như ba nhà Đạo sĩ đến triều bái Chúa Hài nhi (Mt 2,11), người phung cùi được sạch (Mt 8,2), các môn đệ trên thuyền (Mt 14,33), người đàn bà xứ Cana (Mt 15,25). Hôm nay các ông thờ lạy cách kính cẩn hơn nữa vì Ngài huy hòang trong ánh sáng Phục sinh, vì nơi Ngài “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được trao phó”. Tuy nhiên, cũng có mấy ông còn hòai nghi, nhưng không nói rõ tên ai.
Đức Giêsu tiến lại gần họ và phán: ”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”(Mt 28,18). Đức Giêsu đã chính thức trao quyền hành và sứ mạng của Ngài cho các ông để tiếp tục hòan thành. Hôm nay Đức Giêsu ra đi nhưng là ngày các môn đệ lên đường, họ có nhiệm vụ đi chinh phục thế giới. Chinh phục bằng lời giảng dạy, chinh phục bằng phép rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Hôm nay, sau cuộc bàn giao, Đức Giêsu lên trời, các môn đệ phấn khởi nhìn theo, nhưng các ông còn nghe văng vẳng bên tai lời Chúa kết thúc Tin mừng: ”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Rồi họ xuống núi trở về xây dựng Giáo hội, làm cho Giáo hội thêm vững mạnh và phát triển chờ đợi Ngày Chúa lại đến. Giáo hội của Chúa sẽ đứng vững kiên cường không một thế lực nào có thể làm sụp đổ như lời sử gia Ba lan, ông Henryk Sienkievick, nói: ”Các bạo Chúa cùng với triều đại của họ đều lần lượt tiêu tan – Nhưng con thuyền của người dân chài Galilê cầm lái vẫn hiên ngang lướt sống”. Đấng là chủ con tầu đã chẳng từng nói đó sao (Mt 16,18) ?
II. CHÚNG TA VÀO ĐỜI.
1. Chúa về trời.
a) Chúa Giêsu về với Cha.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ về cùng Cha, Ngài hay nhắc đến Cha Ngài, đến nỗi ông Philipphê đã thưa với Ngài: ”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8).
Sau khi hoàn thành sứ mạng của Cha giao phó là chịu chết chuộc tội cho nhân loại và sống lại để phục hồi cho con người sự sống mới, thì Chúa Giêsu đã lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được đặt làm chủ tể muôn loài: ”Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1,11)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên trời hay mừng lễ Thăng thiên. Theo chữ Nho thì “Thăng” là lên và “Thiên” là trời. Xét theo nghĩa chữ thì “thăng thiên” chính là “lên trời”. Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ? Nói như vậy là Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ đâu có “lên trời” !
Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của tác giả Matthêu. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà người dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là “trời”, cái gì thấp thì gọi là “đất”, tình trạng tiến khá hơn thì gọi là “lên”, lùi tệ hơn thì nói là “xuống”. Như thế, “thăng thiên” hay ‘lên trời” không chỉ một chuyển động trong không gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thế thì được diễn tả là “giáng trần” hay “xuống đất”. Hôm nay Ngài trở về tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì được diễn tả là “lên trời”. Bởi vì, Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang, Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên “ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi “ở dưới đất”.
Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.
Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh tưởng tượng kia để đạt đến ý nghĩa đích thực của việc thăng thiên: đó là Đức Giêsu đã lấy lại vinh quang, Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đặc biệt cho chúng ta (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 215).
b) Có thiên đàng không ?
Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, đó là phần thưởng Cha dành cho Ngài sau khi đã hoàn thành sứ mạng được giao phó. “Lên trời” hay “lên thiên đàng” cũng là một, chỉ khác từ ngữ, còn ý nghĩa vẫn như nhau. Vậy Chúa Giêsu lên trời cũng có nghĩa là lên thiên đàng.
Trước đây Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ việc Ngài ra đi và đi để làm gì trong bài Tin mừng Chúa nhật 5 vừa qua: ”Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thày, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Chúa Giêsu đi dọn chỗ cho chúng ta ở đâu, nếu không phải là ở thiên đàng ? Đúng vậy, Chúa Giêsu lên trời tức là lên thiên đàng như ở trên chúng ta đã nói. Do đó, chúng ta đặt ra hai vấn đề:
* Thiên đàng thế nào ?
Ta không biết rõ Thiên đàng như thế nào, nhưng ta chỉ biết đó là nơi ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh hạnh phúc thiên đàng nói lại cho ta điều họ thử nghiệm như sau:
Các Tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa Giêsu được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông (Cv 1, 9-10).
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan ngây ngất nhìn Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê (Mt 17,1tt).
Còn thánh Phaolô thì thốt lên như sau: ”Người ấy đã được nhắc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
Thiên đàng như thế nào không ai biết và nếu có biết thì không thể nào diễn tả được.
* Thiên đàng ở đâu ?
Ta dùng hai từ “lên thiên đàng” và “xuống hỏa ngục”, hai từ ấy gợi cho chúng ta cái ý nghĩ về một không gian vật chất có thể trông thấy được, sờ mó được. Nhưng đúng ra, thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là một trạng thái của tâm hồn. Tâm hồn ta có thể là thiên đàng, cũng có thể là hỏa ngục. Nếu thi sĩ Nguyễn Du nói “Thiện tâm ở tại lòng ta” thì ta cũng có thể nói: ”Thiên đàng hỏa ngục ở ngay trong lòng ta”.
Truyện: không có thiên đàng
Chính vì hiểu Thiên đàng là không gian vật chất nên ông Kroutchev, thủ tướng của Liên xô cũ, đã nói với ký giả C. Sulberger ngày 5.9.1961 rằng: ”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung, anh YOURI GAGARINE. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu, mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc. Không có chi giống như thiên đàng cả. (Sau đó) chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi đã gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh rằng: ”Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy trông cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về, và anh đã xác nhận lời tuyên bố của Gagarine: ”Hư vô ! Chỉ có hư vô”.
Rồi Kroutchev xoa tay kết luận: ”Cho nên người Cộng sản chúng tôi không tin có đời sau”(Information catholique, ngày 1.10.1961, tr 14).
2. Ta vào đời.
Khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ ngây ngất nhìn lên trời để chiêm ngắm vẻ đẹp của Chúa Giêsu. Các ông đã quên trần gian, đến nỗi hai thiên thần phải hiện đến nhắc nhở cho các ông hãy quay về với thực tại, nghĩa là hãy quay về với đời sống hằng ngày, nhưng lòng vẫn hướng về trời. Vậy, Chúa đã về trời, còn chúng ta vào đời để làm gì ?
a) Để loan báo Tin mừng.
Quang cảnh Chúa Giêsu lên trời đẹp quá, khiến các môn đệ còn ngước mắt lên trời nhìn theo. Các ông ước ao được hưởng vinh quang và vẻ đẹp của Chúa Giêsu như khi Ngài biến hình trên núi Taborê. Còn đang say sưa nhìn trời thì hai thiên thần hiện ra nhắc nhở cho các môn đệ “Sao các ông còn đứng nhìn trời” ? Điều này nhắc nhở cho các ông và mọi Kitô hữu hãy quay trở lại với thực tế trần gian để tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu.
Vậy vào đời để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là gì ? Ta hãy nghe lời nhắc nhở sau cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ ở cùng anh em cho đến tận thế”(Cv 1,11).
b) Để chuẩn bị về quê trời.
Ngày lễ Thăng thiên hôm nay nhắc nhở chúng ta sống tốt lành và hướng lòng ta về trời là quê hương, như thánh Phaolô nói: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).
Quê trời là niềm hy vọng của chúng ta, là động lực khuyến khích chúng ta chấp nhận một cuộc sống đầy gian nan ở trần gian này, nếu không thì những cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô ích. Thánh Ambrôsiô nói: ”Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta đều là ảo tưởng (1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.
Ai muốn lên thiên đàng thì phải yêu mến Chúa và yêu mến Chúa thì phải thi hành lời Chúa như Ngài đã phán: ”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các đều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thi hành lời Chúa là phải đem ra thực hành các điều Chúa dạy; điều này đòi hỏi mọi Kitô hữu phải cố gắng, phải hy sinh, phải dấn thân, phải nép nình vào mà đi qua cửa hẹp, bởi vì Chúa đã nói:”Không phải cứ kêu Lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Cha Ta ở trên trời” (Mt 7,21)
Việc lên trời là việc của từng người, mỗi người phải quyết định lấy, không ai có thể làm thay được. Chúa thương yêu chúng ta thật, nhưng Ngài không áp đặt chúng ta, Ngài không cưỡng chế chúng ta phải về trời, Ngài luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Nhưng dù sao, muốn lên thiên đàng cũng phải có điều kiện như người ta nói:
Lênh đênh trên cửa Thần phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. Ca dao)
Mỗi người phải khéo lèo lái con thuyền của mình trên biển trần gian này mới được yên ổn, giống như ở Thánh hóa, ngày xưa có cửa biển Thần phù (bây giờ không biết có còn không), ở đó có dòng nước xoáy, rất nguy hiểm, người chèo qua đó phải rất cứng tay và khéo léo, nếu không sẽ bị chìm. Người ta lấy câu ca dao này để khuyên mọi người phải sống tốt lành để khỏi hư đi. Người ta rất khéo léo dùng chữ “tu” ở đây. Theo chữ Nho, chữ “tu” thì có nghĩa là “sửa”. Tu thân là sửa mình. Vậy ai khéo tu thân tích đức là người khéo chèo chống thì sẽ nổi, sẽ được rỗi; còn ngược lại thì sẽ bị chìm, tức là phải trầm luân.
Truyện: Ai muốn lên thiên đàng ?
Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị giảng thuyết hỏi giáo dân:
- Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng lên.
Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy, chỉ trừ một người: anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi anh ta:
- Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu ?
Chàng uể oải trả lời:
- Chả đi đâu cả ! Tôi muốn được lên Thiên đang ngay ở đây.
Những người muốn một đời sống dễ dàng thường quên mất sự kiện này là: để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm công việc mà đáng lẽ chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch mà không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 18:58)
7. Thánh sủng của Thiên Chúa, khi chưa được mà cầu thì ắt được; mất đi, cầu thì được lại, được rồi thì luôn gìn giữ không để mất.
(Thánh Bernard)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 18:57)
CÂY DU LỚN VÀ CÂY CỎ XANH NHỎTrên dốc núi có một cây du lớn, dưới gốc cây du mọc một đám cỏ xanh nhỏ.
Một hôm, cây du lớn hỏi cây cỏ xanh nhỏ:
- “Các ngươi coi tớ có cao không ?”
- “Cao.”
- “Có mạnh khỏe không ?”
- “Mạnh khỏe”.
- Có đẹp không.”
- “Đẹp.”Cây du lớn nghe được câu trả lời của đám cỏ xanh nhỏ thì rất là phấn khởi, ưỡn ngực kiêu ngạo nói:
“Đó đều là kết quả công lao của tớ ngày ngày dùng sức lực để làm việc.”Cỏ xanh nhỏ nhìn thấy thái độ kiêu ngạo của cây du lớn, trong lòng có chút khó chịu, nói:
“Cây du lớn ạ, anh không nên kiêu ngạo, nếu không có chúng em thì anh cũng không có ngày hôm nay.”-
“Tại sao không có tụi mày thì tớ không có ngày hôm nay ? Chúng mày chỉ là những cây cỏ nhỏ xíu, còn tớ là một cây đại thụ, tại sao ta không thể rời khỏi các ngươi chứ ?” cây du lớn nói mà mặt mày không vui vẻ.
- “Thật đó, từ khi anh sinh ra cho đến hôm nay, chúng em luôn bảo vệ anh. Khi trời nắng nóng, chúng em giữ nước lại cho anh, không để anh vì nước chưng cất mà bị chết khát; khi trời mưa, chúng em...”Cây cỏ nhỏ nói chưa hết lời thì cây du lớn bèn cất giọng oang oang hùng hổ nói:
“Nói tầm bậy, tụi bây là những cây cỏ nhỏ xíu thì có tài cán gì chứ ?”Cây cỏ nhỏ rất buồn và khó chịu, nó cầu cứu với bà gió đem nó và các anh chị em của nó đi nơi khác. Bà gió cũng không thích kiểu kiêu ngạo của cây du lớn, nên đem các cây cỏ nhỏ qua một nơi khác đất đai phì nhiêu hơn.
Ngày lại ngày, ba năm qua rất nhanh.
Một hôm, mưa lớn trút xuống như thác đổ, trôi hết lớp đất bùn dưới chân cây du lớn, do đó rễ cây phơi bày ra; gió mạnh ào ào thổi đến, thổi luôn cả thân cây du lớn nghiêng ngã một bên không đứng lên được. Lúc ấy, cây du lớn mới nghĩ đến lời của cây cỏ nhỏ đã nói, do đó mà cảm thấy rất hối hận.
- “Cây cỏ nhỏ, cây cỏ nhỏ, mau đến cứu tớ với !” Đó là câu nói cuối cùng của cây du lớn trước khi chết.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Muôn sự vạn vật đều có liên hệ với nhau, không có người nào thoát khỏi sự giúp đỡ của người khác mà tự mình trưởng thành, cho nên chúng ta càng nên phải yêu quý sự giúp đỡ của người khác.
Con cái nhờ sự nuôi nấng của cha mẹ mới được thành tài như hôm nay; bạn bè biết động viên nhau để cùng nhau thăng tiến vươn lên; nhà máy cần phải có công nhân làm việc, nhà máy càng lớn thì công nhân càng nhiều, đó là sự hổ trương để hai bên cùng có lợi và xã hội nhờ đó mà phồn thịnh... Mọi người đều hổ tương với nhau để sinh tồn, và để cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp như ý muốn của Thiên Chúa.
Nếu người học giỏi rồi thì kiêu ngạo không thấy sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè, thì trước sau gì họ cũng sẽ bị loại bỏ; nếu người có tiền của giàu có rồi thì kiêu ngạo không thấy tiền bạc mình có là nhờ nhà máy, xí nghiệp, công ty mà mình đang làm, thì trước sau gì họ cũng sẽ trở thành mối lo cho xã hội...
Thiên Chúa là Đấng rất công bằng, không thiên vị ai, càng có tiền của, càng học giỏi thì càng thấy mình rất cần đến sự giúp đỡ của mọi người...
Các em thực hành:- Luôn khiêm tốn nhận sự giúp đỡ của người khác, cụ thể là của bạn bè..
- Khiêm tốn khi giúp đỡ bạn bè.
- Luôn nhớ cầu nguyện cho những ai đã giúp đỡ mình cách này hay cách khác.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 15:22)
Những viên đạn vô tình!
Vào năm 1866, sau khi nhà Bác học Alfred Nobel, người Thuỵ Điển (1833-1896) mày mò tìm cách làm ra một loại chất nổ mới (dynamite), được thử nghiệm để khai thác các quặng mỏ, và đúng là nhờ sức công phá của nó mà việc khai thác có hiệu quả hơn. Thế nhưng, con người với những tham vọng trong lãnh vực quân sự, liền tận dụng tối đa các kỹ thuật về chất nổ vào “công nghiệp chiến tranh”!
Trước đó rất lâu, khoảng thế kỷ 14-15, người ta đã biết cách làm ra thuốc nổ nhẹ, thuốc súng. Từ những viên đạn thời sơ khai của súng “hoả mai”, nhồi nhét thuốc nổ vào nòng súng bắn từng viên nghe lẹt đẹt, những khẩu đại pháo nặng hàng tấn đặt cố định hay nhẹ hơn được kéo trên bánh xe ngựa, mỗi lần bắn phải châm lửa khói toả mịt mù, rồi đến súng trường bắn hàng loạt, súng cối đặt trên xe tăng, tàu thuỷ, tàu bay và cuối cùng người ta còn gắn nó vào hoả tiễn để phóng đi xa hàng ngàn dặm! Chất nổ theo thời gian quả thực là một phát minh “khủng khiếp”, lợi thật nhiều mà hại cũng chẳng ít, ngay cả người em ruột của ông Nobel cùng với một số nhân công đã bỏ mạng trong xưởng chế tạo chất nổ vào năm 1864. Có lẽ vì thế ông Nobel mới để lại gia tài bạc triệu của ông vào thời đó (khoảng hơn 4 triệu đô la Mỹ), dành cho việc phát giải thưởng đến những ai mang lại hoà bình, phát kiến những điều hữu ích cho nhân loại.
Nói đến bom đạn là nói đến một vật vô tri vô giác mà ai thấy cũng nơm nớp lo sợ, tất nhiên là nó chẳng bao giờ có mắt cả, nó “đi” đâu thì chỉ có người bắn nó biết mà thôi! Có khi người bắn ra cũng chẳng biết nó đi đâu nên mới có người bị…“lạc đạn”! Dân Việt Nam trong thời chiến tranh hầu như ai cũng biết ít nhiều về bom đạn, có những người còn rành nghe, phân biệt được tiếng các loại đạn khác nhau nữa, và cũng có rất nhiều người đã “nếm” mùi bom đạn, trên thân thể còn lưu lại những “vết thương đau” của một thời quê hương điêu linh khói lửa!
Miền Nam thời chiến tranh trước 1975, những “đêm nghe tiếng đại bác” chen lẫn với tràng đạn tiểu liên M16 hay AK54 dòn tan, đã trở thành một bản nhạc “hòa tấu” quen thuộc của người dân trên mọi miền đất nước. Có người đêm nằm ngủ giật mình thức giấc vì một tiếng “xoẹt” trên mái tôn, chẳng biết cái gì, sớm mai thấy mái tôn lủng một lỗ, tìm xem thì thấy một cái mũi đạn bẹp dúm trong góc nhà! Phúc bảy mươi đời là nó không rớt trúng người! Chuyện lạc đạn kiểu đó thì có lẽ rất nhiều trong dân chúng thời chiến tranh.
Ở những thôn làng gần các khu rừng hoang, phải nói là tội nghiệp cho các cô cậu đi bò, hàng ngày lang thang khắp chốn đồng quê, chẳng biết bom đạn đâu mà tránh, đã có em đi lạc vào bãi mìn “quanh năm nằm im chờ …địch” và chẳng may lại vấp phải “thần chết”! Cũng đã có những em thiệt mạng vì trái bom bi, cả đời chẳng biết trái bom bi mặt mũi ra sao, đi bò sát mé rừng thấy một cục sắt màu mè trông đẹp mắt, cầm lên cũng chẳng thấy “động đậy” gì cả, bèn cùng nhau hí hửng liệng chơi, chẳng biết đến “ngày giờ” ra sao mà nó phát nổ. Có em còn nhỏ, lân la chơi sát lũy tre mấy cổng làng thấy lựu đạn gài bằng cây kim găm, chẳng biết nguy hiểm gần kề thò tay rút cây kim để chơi không ngờ lựu đạn nổ!
Đó là chưa kể đến những vùng quanh năm có “đụng độ”, dân làng mang họa vì những quả đạn không biết phân biệt “đâu là địch, đâu là ta”, có thể những người lính cả hai bên trong cơn hăng máu mùi thuốc súng đã bắn bừa trúng đâu thì trúng! Và thật là oan nghiệt, những viên đạn quả đạn được bắn đi từ những hằn thù phi lý, những ý niệm mơ hồ về mục đích đã trật những mục tiêu dự định, thay vào đó là những người dân lành hứng chịu hậu quả!
Năm 1968, chẳng biết “vô tình” hay “cố ý”, một số quả đạn súng cối “phía bên kia” đã rơi vào làng xóm Bình Giã, có những quả “mon men” rơi sát bên hồi nhà, nghe đâu có một hay hai quả đã “tận tình chiếu cố” xuyên mái tranh rớt giữa nhà dân! May mắn là những quả đạn này đã “tịt ngòi” trước khi rơi xuống đất, nên hầu hết không phát nổ! Nếu không thì lần đó chưa biết bao nhiêu chiếc khăn tang được mang lên đầu trong dịp mừng Xuân mới! Bà con Bình Giã tin rằng nhờ ơn trên của Đức Mẹ Maria che chở nên đã bình an vô sự, một Tượng Đài Đức Mẹ đã được dựng lên trong dịp này tại khuôn viên Thánh đường Giáo xứ Vinh Châu, trung tâm xã Bình Giã để tạ ơn Đức Mẹ.
Sau những năm chiến tranh, có lẽ khắp mọi miền trên đất nước Việt Nam đều đầy những vỏ đạn, mảnh bom và cả những quả bom, mìn, lựu đạn…chưa nổ, vùng đất thân yêu Bình Giã cũng không thiếu những thứ đó. Những ngày cuối của cuộc chiến vào tháng Tư năm 1975, súng đạn các loại bị bỏ lại khắp nơi, chẳng ai muốn thu nhặt cái “của nợ” đó để đem về nhà cả, chỉ có lớp choai choai “hí hửng” và “lặng lẽ” lấy đem vào rãy đốt nổ nghe chơi cho vui!
Rất nhiều cu cậu đã vì khoái nghe tiếng nổ của đạn mà phải mang tật nguyền. Trước 1975 đạn M16 ở đâu cũng có, hầu hết các ông, các thanh niên trong làng đi Nghĩa quân, đạn cấp phát cho dư giả, lớp đi bắn chim, lớp mang về để ở nhà, các cậu nhóc chừng mười, mười hai tuổi vớ lấy đi ra vườn ra rãy đốt chơi. Các cậu cạy mũi đạn một viên, đổ bớt thuốc súng ra, nhét cái mũi đạn vào trong các-tút rồi đổ lại thuốc súng cho đầy, một viên khác để nguyên được cắm mũi sâu xuống đất, viên kia đặt chồng lên, hai cái hạt nổ giáp nhau, thế rồi châm lửa, nghe một tiếng nổ của cả hai viên đạn cùng lúc “thật sướng cái lỗ tai”! Viên đạn nằm trên thì bay bổng lên trời, viên nằm dưới thì bể toác ra làm bung cả một mảng đất “thật sướng cái con mắt”!
Một cách thông thường nữa của các cậu là dùng cái súng kéo tay để bắn, lọai súng nhỏ này bằng nhựa cứng của quân đội, dùng vào việc bắn pháo hiệu cầu cứu, cậu nào không có thì biến chế một cây súng tương tự với dây thun kéo “kim hoả” bằng khúc kẽm gai mài nhọn và mấy cái nẹp tre để giữ viên đạn. Bắn lọai súng “tự chế” này phải cạy mũi đạn ra đổ bớt thuốc, nếu không sức nổ làm “toét” các-tút, bung cả “súng”! Mũi đạn chỉ bay đi chừng mươi lăm mét, nhưng vậy là thích quá rồi! Đã có nhiều cậu đã vì táy máy những viên đạn kiểu này mà mấy ngón tay tươm máu, có khi “mất vài lóng”, tệ hại hơn một con mắt không bao giờ thấy lại ánh mặt trời!
Ở những vùng đất quanh vòng rào tre Ấp chiến lược Bình Giã trước 1975, gần những lô cốt cổng làng thì phải nói đã một thời mìn, lựu đạn nằm la liệt, và không ít bò me đã phải khiêng về làm thịt vì đạp phải lựu đạn. Chập tối, bò nhà mình chưa về, mà lại nghe một tiếng nổ phía cổng làng là lo thót ruột, chưa biết bò nhà ai đây? Cha mẹ thấy đã chiều tối mà thằng cu con đi tìm bò chưa về, đã hơi lo lắng, nếu nghe tiếng lựu đạn nổ thì “hồn vía lên mây”, liền bỏ dở công việc đó chạy tất bật ra phía cổng làng để nghe ngóng coi con mình ở đâu! Có khi vừa chạy vừa cầu xin “của đi thay người”, bò có chết thì chết miễn thằng con bình an vô sự là mừng! Đã có lần bà con làng Ba vào lúc chập tối nghe tiếng mìn nổ phía góc Bình Linh (khóm Nhân Hòa) khoảng năm 1973, hai anh em con ông bà C… đi tìm bò về đạp phải mìn, cả hai chết tại chỗ! Thật là thảm thương!
Sau năm 1975, bà con chặt phá hàng rào tre vì cũng không còn cần thiết nữa, lúc đốt cháy những bụi tre, đạn nổ đì đạch, lâu lâu cũng có một quả lựu đạn nổ vang! Nguy hiểm nhất là một số đạn M79 bắn ra mà chưa nổ, mấy quả đạn này nằm rải rác, đã có người phát rãy, cuốc đất trồng cây đúng quả đạn này nó phát nổ làm bị thương, có khi mất mạng. Thời điểm 1975, còn có cả những những quả M72 bỏ rải rác trong các bụi chuối, bờ ruộng rãy, những quả đạn này bị bỏ lại trên đường rút lui của lính trận. Hồi đó, mấy cậu choai choai dọn rãy, thấy M72 trong bụi chuối bèn lấy ra bỏ vào đống cây rồi đốt lửa chờ nổ nghe chơi, ai ngờ quả đạn M72 bị đốt nó không nổ tại chỗ mà chẳng biết sao nó bay đi cả trăm mét rồi mới nổ, may mắn chẳng ai bị gì cả. Rút kinh nghiệm mấy quả sau các cậu chúi đầu đạn xuống đất cho nó khỏi “phiêu diêu” như lần trước!
Lựu đạn thì tìm thấy nhiều hơn, các cậu vặn cái đầu nổ ra, đốt cháy thuốc nổ trong bầu đạn, rồi thả xuống khe suối, sau đó đi dọc khe suối lượm cá bị “say thuốc đạn” đỏ con mắt nằm lờ đờ, có khi nổi lên mặt nước! Có cậu gan dạ hơn, rút chốt thảy xuống mấy vũng nước sâu, lựu đạn nổ xong thì xách bao tới hốt cá!
Lâu lâu tìm được một quả đạn cối 105 ly, các cậu cũng cho vào đống củi rồi đốt, quả này thì đặt đâu nằm đó nổ, chứ không “lang thang” rồi mới nổ như M72, và cũng tìm thấy nhiều hơn loại M72. Nói chung là các cậu mười lăm, mười bảy của những ngày tháng trước 1975 rất quen thuộc với các lọai đạn, và cũng chẳng mấy cậu sợ những thứ “không có trí khôn” đó!
Bom đạn đã gây bao nhiêu cái chết, vết thương tật nguyền cho con người! Vậy mà có một thứ vô tri vô giác cũng mang đầy “mảnh đạn” trong thân mình, để lại những “vết sẹo suốt đời” nữa! Đó là…cây rừng!
Trước 1975, ở cổng chính làng Ba, Bình Giã có một trại cưa máy, xe “be” chở gỗ rừng vể đổ lan ngan nơi mấy khoảng đất trống ngoài cổng làng, trại cưa suốt ngày ồn ào tiếng máy, lâu lâu nghe một tiếng “rẻng” vừa chói tai vừa rờn rợn, làm lũ nhỏ đi bò ghé coi cưa máy giật mình, thì ra giàn cưa máy đụng phải mảnh bom găm trong cây gỗ! Đụng mảnh bom như thế là phải ngừng cưa, thay lưỡi khác, có khi nó làm đứt ngang lưỡi cưa! Mặc dù mấy người thợ cưa rất kinh nghiệm trong chuyện này. Họ xem xét kỹ những cây gỗ, nhìn vết sẹo họ đoán biết có mảnh bom trong thân không, họ dùng búa, rìu khoét chỗ đó để moi cái “của nợ” ra. Trăm lần đúng cũng có một lần sai, và cái tiếng “rẻng rẻng” phát ra là do “sự cố” đó!
Khoảng năm 1978, lúc đó bà con Bình Giã bắt đầu phát rãy trồng trọt, cây gỗ rừng được xe bò chở về làm củi, làm cọc trồng tiêu, cưa xẻ ra làm nhà, các nhóm “cưa líu” của đám thanh niên mọc ra như nấm, chỉ cần một bóng cây, hay che đỡ tấm bạt, là mấy cặp cưa líu xẻ từng khúc gỗ ra thành cột, thành xà…thành ván mỏng để làm nhà, và các thợ cưa líu cũng đã nhiều phen phải khốn đốn vì mảnh bom nằm trong thân cây gỗ!
Đi rừng, nhìn những cây gỗ thẳng băng như Bằng lăng, nhưng lại đầy vết sẹo của mảnh bom, mấy cây này chỉ làm củi, chứ cưa xẻ ra gỗ cũng hư hỏng nhiều. Có khi gặp một cây Gõ đỏ, hay Cẩm lai rất thẳng thớm đẹp mắt, nhìn trên thân cây cũng mang mấy vết sẹo do bom gây ra. Hầu như những khu rừng quanh Bình Giã, không có chỗ nào cây cối không “bị thương” do bom đạn! Chiến tranh để lại cho con người những đau thương, mang những vết sẹo trên thân xác, trong tâm hồn có khi suốt đời người, và ngay cả cấy cối cũng không tránh khỏi những vết tích “khốn khổ” đó!
Ở những vùng quê khác, bà con còn tìm thuốc nổ để bán, bằng cách cưa những trái đạn 105 hay 255 ly hoặc những quả bom nằm nơi đồng ruộng. Có người kể chuyện cưa loại này giống như “cưa cổ Thần Chết”! Nó nằm im chịu cưa là mình sống có tiền, nó mà “vùng dậy” coi như mình đi đời nhà ma! Người kinh nghiệm cưa bom nói, lưỡi cưa sắt phải mới, sắc bén, vừa cưa vừa đổ ít nước cho khỏi sức ma sát gây xẹt lửa phát nổ, và cũng vừa vừa nước thôi, kẻo ướt hư mất một lượng thuốc nhiều! Và không ít người “thiếu kinh ngiệm làm ăn với Tử Thần” đã phải theo chân “Thần Chết” làm đệ tử vì cưa bom đạn kiểu này!
Bà con Bình Giã cũng đã có người mất mạng vì “thuốc nổ” dưới giếng sâu! Giếng cần đào sâu thêm vài mét mới đủ nước tưới tiêu, mà đáy giếng thì lại gặp đá “bàn”, đá khối, chỉ còn cách moi lỗ đặt thuốc nổ thì mới mong đào sâu thêm. Sau khi nổ vài ngày, xuống giếng hốt đá lên chẳng may ngạt thở ngất xỉu dưới giếng, và người ở trên vừa lúng túng vừa chẳng dám xuống giếng cứu, nạn nhân dưới đáy giếng đành phải về “chầu Chúa”! Khí độc từ thuốc nổ còn tích tụ lại dưới đáy giếng rất nhiều đã làm chết người rất mau lẹ!
Đến hôm nay, đã qua đi hơn ba mươi năm sau chiến tranh, nhưng vẫn còn rải rác đâu đó những bom đạn còn sót lại, lâu lâu lại nghe tin người bị thương hay chết vì bom đạn ngoài ruộng rãy. Chỉ có cây rừng, hầu hết đã bị triệt hạ để thành đồng ruộng, nên gỗ vùng Bình Giã không còn, và chẳng bao giờ dân mình có dịp nghe lại tiếng “rẻng rẻng” đau thương của lưỡi cưa líu chạm mảnh bom trong cây gỗ nữa!
Đặng Xuân Hường
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 09:18)
Ông 13
Hải gọi điện thoại hẹn tôi chiều Thứ Sáu đến nhà hàng Hương Quê ở Eden tham dự “tiệc về hưu” của chú Đức do nhóm nhân viên người Việt ở TRW (bây giờ là Northrop Grumman) khoản đãi, và chú ấy “bắt” Hải mời tôi đến cho bằng được vì chính tôi đã “cho” chú ấy công việc ở TRW. Tôi “đánh trống lảng” rằng mình đã quên mất chuyện đó, và cũng không còn nhớ chú Đức mặt mũi ra sao nữa. Hải lên giọng:
- Bố khỉ! Cậu mà quên được “Ông 13” thì cũng lạ thật! Làm sao cậu lại quên được cái ông “13 năm lính, 13 năm tù” hồi đi phỏng vấn xin việc cứ đòi dẫn theo thông dịch viên đó.
- Dỡn cậu tý thôi chớ làm sao tớ quên được chú Đức.
- Thế chứ... Bây giờ bọn mình cộng thêm cho chú ấy một con số 13 nữa nên mới làm tiệc mời cậu.
- 13 gì nữa?
- Thì tính đến ngày về hưu vào cuối tháng 4 này chú ấy cũng làm việc ở đây được 13 năm; do đó, bọn mình gọi chú ấy là “Ông Ba 13”. Thỉnh thoảng chú ấy vẫn hỏi thăm cậu và lúc nào cũng ghi nhớ công ơn của cậu đấy. Phổng mũi nhé.
- Mầu mè! Được rồi, tớ sẽ đến.
Sau khi nói chuyện điện thoại với Hải, hình ảnh “Ông 13” từ 13 năm trước lại hiện về trong trí tôi như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua...
Mùa xuân năm 1995, để chuẩn bị đối phó với vấn nạn Y2K (năm 2000) của máy điện toán, TRW đã giao cho nhóm của tôi mở thêm một phòng LAB ở vùng Fair Lake, Virginia làm việc 24/24 để thử nghiệm máy móc của sở cũng như của nhiều khách hàng là những cơ quan chính phủ và những hãng lớn nhỏ quanh vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Để bảo đảm an ninh cho phòng thử nghiệm, chúng tôi phải thuê thêm một số nhân viên thay nhau “canh gác” và “tuần phòng” suốt ngày đêm.
Vì công việc không đòi hỏi khả năng chuyên môn và cũng không cần phải giao tiếp nhiều với khách hàng nên nhóm anh chị em người Việt trong sở đã bàn nhau liên lạc với mấy hội ái hữu trong vùng Northern Virginia để giúp những cựu quân nhân mới đến định cư theo diện H.O. điền đơn xin việc và sắp xếp cho họ tới phỏng vấn xin làm nhân viên tạm thời để huấn luyện trong vòng 3 tháng trước khi chính thức nhận vào hãng.
Tôi không trực tiếp phỏng vấn những người này, nhưng một buổi sáng, người “supervisor” lo việc phỏng vấn và huấn luyện toán nhân viên anh ninh chạy vội vào phòng tôi xin ý kiến vì có một người cứ nằng nặc đòi gặp “boss” vì người đó không hiểu những câu hỏi bằng tiếng Anh, và anh ta cũng không hiểu người đó cần gì. Tôi chưa kịp hỏi xem đầu đuôi câu chuyện ra sao thì một người Việt Nam hình dáng gầy gò, nước da ngăm đen nhưng ăn mặc rất lịch sự đã xuất hiện ngay sau lưng anh ta, vừa khua tay vừa lên giọng:
- Sir... Me can shoot, fight, kick... no talk English. My friend... translator... outside. Sir, please...
Tôi ra dấu cho người “supervisor” ra ngoài, định lên tiếng mời ông ta ngồi, nhưng chưa kịp mở lời, ông ấy đã đứng thẳng theo “thế nghiêm”, mắt đăm đăm nhìn thẳng vào mặt tôi rồi chậm rãi nói tiếng Anh đứt quãng:
- Sir... Mr. Boss. Me... work hard. Trust me. I want my friend... outside... translate.
Tôi mỉm cười lên tiếng:
- Mời chú ngồi. Chú cứ tự nhiên, cháu là người Việt, không cần thông dịch gì cả. Chú tên gì?
Tôi vừa nói vừa cầm tập hồ sơ người “supervisor” đã để sẵn trên bàn xem vội. Ông ta hớn hở nói lớn:
- Ông... Anh... người Việt hả? Tôi phải gọi bằng gì đây?
- Cháu tên Duy nhưng người Mỹ gọi là John. Cháu chỉ đáng tuổi con cháu của chú thôi, xin chú đừng khách sáo.
- Không được, phải trên dưới thứ tự phân minh chứ. Tôi tên Đức (không phải tên thật, theo yêu cầu của đương sự). Anh làm xếp ở đây, tôi cũng hãnh diện vì mình là người Việt... Anh cứ phỏng vấn tôi như bình thường đi. Tôi chỉ dốt tiếng Anh chứ còn lại “thượng vàng hạ cám” gì tôi cũng làm tất. Tôi mới sang Mỹ được 5 tháng theo diện H.O., đang đi học “ét-eo” (ESL: English As Second Language) và cũng sắp hết trợ cấp rồi nên phải tìm việc làm. Mình là trâu chậm nên uống nước đục! Nếu anh giúp cho được công việc này thì sướng quá... Đời tôi chẳng có gì đặc biệt... 13 năm lính, 13 năm tù... sang đây như câm như điếc chẳng biết làm việc gì. Tôi đi học “ét-eo” mấy tháng rồi mà cứ chữ thầy trả thầy, Mỹ nói Mỹ nghe, tôi nói tôi nghe. Buồn lắm “cậu em” ơi! À, xin lỗi “ông xếp” nhé. Tôi mừng quá nên lỡ lời.
- Chú cứ tự nhiên, không sao cả. Chú kể tiếp đi.
- Thế anh không phỏng vấn tôi à?
- Chú là cựu sĩ quan, dư sức làm “security guard” nên cháu đâu cần phải hỏi gì nữa. Cháu sẽ nói với anh trưởng toán thâu nhận chú với một điều kiện.
- Bao nhiêu điều kiện cũng được. Anh cứ cho biết, tôi sẽ “gồng” hết sức để “hoàn thành nhiệm vụ”.
- Vâng. Cháu sẽ nói với anh trưởng toán sắp xếp cho chú làm từ 3 giờ chiều tới 11 giờ đêm để ban ngày chú tiếp tục đi học tiếng Anh, và sau này tiếp tục học thêm về “computer” ở Đại Học Cộng Đồng để...
- Sao anh lại bắt tôi đi học? Tiếng Anh tôi nhá không vô. Mụ vợ tôi càng học càng tiến còn tôi thì càng ngày càng lụn bại. Anh cứ cho tôi làm với một người Việt Nam, cần gì họ sai bảo tôi bằng tiếng Việt được rồi.
- Nếu chú không chấp nhận điều kiện thì...
Tôi chưa kịp nói hết câu, chú Đức đã đứng bật lên, khua tay phân trần:
- Được. Được. Tôi... tôi... đi học. Anh đừng đuổi tôi, tội nghiệp!
Rồi chú Đức cũng trở thành nhân viên chính thức của hãng TRW. Mới đi làm được mấy tuần, chú ấy đã nổi bật trong đám nhân viên vì gặp ai đi ngang chú ấy cũng đứng thẳng theo “thế nghiêm” để chào, và khi có ai nhờ cậy hay hỏi han việc gì, chú ấy cũng trả lời “yes sir” mặc dầu có những lúc chú ấy không hiểu người ta nói gì! Những người Mỹ trong sở đặt cho chú ấy một cái “nick name” là “Mr. Yes Sir”; còn những người Việt Nam trong sở lại gọi chú ấy là “Ông 13”. Thật ra cái tên “Ông 13” là do tôi đặt cho chú ấy vì hôm đầu tiên chú Đức đi làm, tôi đưa chú ấy đi giới thiệu với anh chị em người Việt trong sở, và khi gặp ai chú ấy cũng lặp đi lặp lại một câu “tôi chỉ có 13 năm lính, 13 năm tù, tiếng Anh thì dốt, nhờ anh (chị) giúp thêm cho nhé!”
Mới đi làm được vài tuần, không biết chú ấy hỏi thăm ai đó nên xin được địa chỉ nhà tôi... và “đùng đùng” đến gõ cửa vào lúc 8 giờ sáng Thứ Bảy. Vợ chồng chú Đức lệ khệ mang 2 chai rượu XO, một hộp bánh và một thùng trái cây đến “tạ ơn” tôi đã giúp chú ấy có việc làm. Tôi “giận” lắm nên sau khi mời vợ chồng chú Đức vào nhà, tôi nghiêm mặt lên tiếng:
- Cháu rất kính phục chú. Trên sở ai ai cũng quý mến nhân cách và thái độ làm việc của chú, nhưng nếu chú không mang mấy thứ này về ngay, cháu sẽ nói với anh trưởng toán “security” cho chú nghỉ việc từ tuần tới.
- Xin lỗi, xin lỗi... Mình là người Việt với nhau mà “xếp”... Cái này là để bày tỏ tấm lòng biết ơn của vợ chồng tôi chứ không phải “hối lộ” gì đâu, xin “xếp” bớt giận.
- Cháu hiểu nhưng chú không thể làm như vậy. Chú thím ghé thăm là quý hóa lắm rồi, đừng mang quà cáp gì hết, bằng không cháu sẽ không bao giờ mở cửa.
- Được, được... Lần sau không dám nữa, nhưng xin “xếp” nhận cho lần đầu nhé.
- Nhất định là không được chú Đức à.
- “Xếp” làm tôi ngại quá, biết làm sao bây giờ?
Tôi phải nói mãi chú ấy mới chịu mang “quà” về!
Gần 2 năm sau tôi rời TRW về làm cho National Geographic nên không có dịp tiếp xúc nhiều với chú Đức nữa nhưng thỉnh thoảng bạn bè ở TRW vẫn kể cho tôi nghe những chuyện vui về chú ấy. Điều tôi vui nhất là chú ấy không những đã “tốt nghiệp ESL” mà còn tiếp tục học lấy bằng A.S. về Computer và trở thành một nhân viên xuất sắc lo việc bảo trì hệ thống máy điện toán ở sở cho tới tuổi về hưu.
* * *
Chiều Thứ Sáu... Kẹt xe... Trời nắng đẹp. Tôi chóa mắt khi bước vào nhà hàng dưới ánh đèn mờ mờ. Nhà hàng chật cứng người... Tôi nhớn nhác tìm kiếm chú Đức và đám bạn. Một bóng người vụt đến phía bên hông. Một vòng tay ôm tôi thật chặt. Một giọng nói nồng ấm bên tai:
- Mừng quá. Mừng quá. Cuối cùng rồi Duy cũng đến. Chú vui lắm. Chú không bao giờ quên được những chuyện ngày đó... Cám ơn, cám ơn Duy đã giúp đỡ và “làm khó” để chú phải đi học và có được việc làm tốt. Đến đây, đến đây. Cả đám chúng nó đang chờ Duy đàng kia kìa.
Chú Đức nắm tay kéo tôi đi ào ào đến một bàn dài trong góc trái nhà hàng. Cả đám nhao nhao bắt phạt vì tôi đến trễ... Chú Đức đã không cho khai mạc vì muốn chờ “xếp cũ” cho long trọng. Chú Đức kể với mọi người về những “cái ngố” của mình khi mới vào làm “security guard” ở TRW, vật lộn với mớ tiếng Anh “ăn đong”, những hiểu lầm “tai hại” vì hai tiếng “yes, sir” và nhất là “cũng oai ra phết” khi “tậu được một mảnh bằng” để trở thành “ông tếch” thứ thiệt. Chú Đức cám ơn đám “bạn trẻ” đã giúp đỡ một “lão H.O.” hết thời hội nhập vào xã hội tân tiến trên đất Mỹ...
“Tôi sẽ không bao giờ quên con số 13 cũng chính là cái tên các bạn vẫn gọi tôi cả chục năm nay. Nó là một con số mà người đời coi là xui xẻo, nhưng với tôi, nó là con số của định mệnh... may mắn. Xin cám ơn các bạn. Và giờ này tôi cũng muốn chia sẻ với các bạn một con số định mệnh khác nữa của đời tôi... Đúng 33 năm trước, khi tôi vừa tròn 33 tuổi thì nước mất nhà tan; và hôm nay, đúng 33 năm sau, tôi được về hưu với đầy đủ quyền lợi của một công dân Mỹ... Tôi là một cựu sĩ quan đã hết thời nhưng tôi tin tưởng nơi các bạn trẻ. Tôi hãnh diện vì các bạn. Tôi vui mừng cho dân tộc Việt Nam vẫn còn một thế hệ trẻ với đầy nhiệt huyết như các bạn...”
Những tâm tình tự đáy lòng của chú Đức đã để lại trong tôi thật nhiều trăn trở... Lại một lần nữa mùa xuân đến, tháng 4 về... nhưng biết đến bao giờ con dân Nước Việt mới có được mùa xuân đích thực trên Quê Mẹ?!
Nguyễn Duy An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 21:35)
Trên một khoang thuyền
Sáng sớm ngày thứ ba của cuộc hải trình, chen chúc trên một khoang thuyền chật hẹp mang bảng số Kiên Giang KG 0603 là hơn hai trăm mạng người đang chập chờn thoáng tỉnh thoáng mê. Đêm qua khoảng mười hai giờ khuya, tự nhiên có người rớt xuống biển, không biết là tại nhảy xuống hay là tại lỡ chân hay là tại chuyện chi. Khi con thuyền đánh một đường vòng quay lại, mặt nước biển đen kịt vẫn đen đặc như bầu trời tối đen. Thuyền đành bỏ đi. Có người nói người đàn ông rớt xuống biển mấy năm nay tính khí khật khùng, bởi người vợ vác đứa con trai duy nhất bỏ đi với người tình vượt biên trong khi ông ta đang bị giam trong trại cải tạo. Bị người ta đạp chết ngộp trong hầm tàu, xác đứa bé tám tuổi bị quẳng xuống biển. Có người nói người đàn ông đang đứng tiểu, lỡ chân. Có người thì thào nói trên biển khoảng nửa đêm về sáng là giờ của nhiều vong linh thác oan trên mặt biển, đi đứng phải cẩn thận, ăn nói phải dè chừng. Câu chuyện về người đàn ông rớt xuống biển vào lúc nửa đêm khơi dậy một thoáng bàn cãi lao xao trên khoang thuyền. Nhưng chỉ năm phút sau, tiếng người lắng xuống, rồi chìm sâu vào lòng khoang thuyền chật hẹp hôi tanh ngột ngạt hơi người.
Thuyền đi được hơn hai ngày rồi. Từ cửa Rạch Sỏi của tỉnh Rạch Giá, trong khi con thuyền chầm chậm vượt qua ngọn đèn hải đăng nhô cao ngay mũi đất, đôi mắt long nhãn của thuyền gỗ cũng như những cặp mắt màu nâu của hơn hai trăm mạng người tóc đen đăm chiêu hồi hộp dõi nhìn ngọn đèn trắng toát đều đặn quay tròn chiếu sáng những khoảng không gian tối đen. Bình bịch, bình bịch, từng nhịp trống đập của trái tim bắt đầu trỗi dậy. Đèn trắng loang loáng chiếu sáng khối nước nhấp nhô đập thêm dồn dập tiếng trống ngực, bình bịch! bình bịch! bình bịch!… Đèn trắng chụp hụt con thuyền một lần! Hụt hai lần! Đèn trắng kiên nhẫn, không bỏ cuộc, quay thêm một vòng nữa, lần này sát gần ngay đuôi thuyền. Nhịp tim của con thuyền gỗ tiếp tục đập bình bịch! bình bịch! Cong lưng vươn tới, thuyền vượt biên lọt thoát qua vòng quay lần thứ bốn, lần thứ năm, rồi lần thứ sáu của ngọn đèn trắng chiếu sáng rực rỡ một khoảng trời đêm đen. Nhìn lại đằng sau lưng là vòng quay lần thứ bẩy, thứ tám, thứ chín của ngọn hải đăng, âm ba của những hồi trống ngực cứ thế giảm dần theo số lần vòng quay của ngọn đèn trắng. Bình bịch! bình bịch! của những trái tim trên một khoang thuyền nhỏ dần nhỏ dần. Thuyền gỗ thở phào, mừng vui. Trong tiếng thở phào bỗng vang lên nho nhỏ có tiếng cầu kinh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn.
Thuyền đánh cá nghĩ thế là xong, vậy là thoát, nhưng không, nửa tiếng sau vận xám không mời không gọi tự động bước chân xuống khoang thuyền. Lần này thuyền gỗ đâm thẳng mũi nhọn vào cồn cát ẩn mình dưới làn nước tối đen. Thuyền vướng cồn cát, tiếng máy rên khừ khự như người ốm dở, chân vịt khục khặc dừng lại thôi những vòng quay. Thuyền đứng yên không nhúc nhích khiến hơn hai trăm mạng người ngó lui âu lo dõi nhìn ngọn đèn hải đăng từ phía xa xa. Thuyền vướng cồn cát! Con gái cũng như con trai trên khoang thuyền yên lặng nhảy ra, cong lưng, hai tay đẩy tới đẩy mạnh! Thuyền không xê dịch. Mọi người tiếp tục đẩy! Thuyền vẫn im lìm! Đẩy tới nữa! Thuyền gỗ cồng kềnh lười biếng nằm ì ra, không rung rinh, không động đậy! Thuyền không chuyển động, trong đêm đen và bóng tối, tiếng thở dài nghe rõ mồn một. Tiếng kinh Phật Bà cứu khổ cứu nạn lại vang lên. Vài người đàn ông bắt đầu ngó nhìn quanh quẩn xì xào nho nhỏ tìm đường tháo lui bỏ chạy.
Thêm một lần nữa, người người lại cong vòng xương sống cúi xuống, lại đẩy, đẩy nữa! Lần này nặng nề rùng mình nhè nhẹ. Cúi đầu! Nín thở! Đẩy nữa! Mặt nước lay động. Thuyền gỗ loáng thoáng xôn xao. Tiếp tục đẩy tới! Thuyền gỗ thở dài trượt mình lướt ra khỏi cồn cát. Mười phút cực nhọc trôi qua, thuyền lại nhẹ tênh. Thoát khỏi cồn cát, thuyền nhả hết ga, nhắm hướng biển Đông cương quyết lao tới.
Vào xế trưa ngày thứ nhất, hai chấm đen nắm tay rủ nhau bất ngờ xuất hiện nơi cuối đường chân trời. Đôi mắt long nhãn của con thuyền gỗ ngước lên dõi nhìn hai chấm đen xa xa, âu lo chờ đợi. Nhưng vận áo xám, đã từng ghé vào hỏi thăm rồi đưa mũi nhọn của con thuyền đâm thẳng vào cồn cát, dường như quyết định đội nón lên đầu rũ áo bỏ đi. Cho nên khoảng một tiếng sau hai chấm đen nơi đường chân trời bỗng dưng nhạt nhòe, rồi chầm chậm loãng tan biến mất nơi đường chân trời.
Đêm khuya đầu tiên của cuộc hải trình buông rơi với một đốm đèn le lói xa tít. Đốm sáng to dần, to dần, rồi bừng sáng trong đêm đen. Thuyền viễn xứ âu lo săm soi dõi nhìn đốm sáng rực rỡ. Người thanh niên mặc áo jean xanh, mũ nỉ đội xùm xụp trên đầu cất tiếng,
— Chắc là tàu vớt.
Người đàn ông tóc điểm bạc đứng bên cạnh thằng Minh càu nhàu,
— Vớt, có mà vớt xác về nhà tù. Giờ này chưa ra tới hải phận quốc tế mà đòi tàu vớt. Tàu đánh cá quốc doanh đó cha nội.
— Nói bậy nói bạ không à! Đừng quên đất có thổ thần, sông có hà bá.
Cả hai, người thanh niên và người đàn ông, không ai dám nói chi sau lời cằn nhằn của một người đàn ông trung niên mặt xương xương khắc khổ. Yên lặng trên khoang thuyền tô đậm lời kinh thuyền gỗ thầm thì to nhỏ, “Phật Bà cứu khổ cứu nạn”. Thuyền hạ ga vặn nhỏ tiếng máy. Tiếng máy nho nhỏ nhún nhường tiếng gió thì thào. Thêm một tiếng đồng hồ trôi qua, đốm sáng rực rỡ mờ dần, mờ dần, sau cùng tan loãng vào trong màn đêm dầy đặc. Thuyền gỗ thở phào nhẹ nhõm hy vọng vận áo xám đã thực sự bỏ đi.
Ngày thứ hai của cuộc hải trình đã trôi qua trong mệt nhọc, bão tố, và với một mạng người nửa đêm rớt xuống chìm sâu vào lòng đại dương.
Sáng sớm ngày thứ ba đã tới, thuyền đang tiến ngang qua Vịnh Thái Lan. Sáng sớm nhưng trời bình minh tối thui bởi bầu trời vần vũ nổi cộm mây đen. Trời bão, bão tố xịt mực đen kịt bầu trời. Trời mây, mây đen ẩm thấp oằn cong trĩu nặng. Trời mưa, mưa trời bong bóng vỡ tan trên những mảng da mốc trắng. Trời gió, gió thổi quăn tít xơ xác sợi tóc màu đen. Giờ này là ngột ngạt và nặng nề phủ chụp những mảng tóc đen mốc khô bởi nắng đại dương và nước biển mặn. Bây giờ là mệt mỏi và lăn lóc ngập phủ trên con thuyền.
Sang ngày thứ ba, hết rồi hồi hộp đứng tim khi vượt qua ngọn đèn hải đăng, mất rồi những căng cứng nghẹt thở khi bị cồn cát cầm chân níu kéo, xa rồi hụt một nhịp tim mắt căng tròn mắt khi bị đốm đen ban ngày và đốm sáng ban đêm săn đuổi. Giờ này là mệt mỏi. Nơi đây là im lìm. Mọi hoạt động trên chiếc thuyền mỏng manh nhỏ bé rơi rớt đọng lại trên cabin với tài công và hai ba người thanh niên da rám nắng, môi ngậm thuốc, mắt đăm chiêu dõi nhìn trời mây sóng nước. Trên trời, mây đen nặng nề đe dọa. Dưới biển, sóng nước nhấp nhổm dâng cao.
Từ dưới sàn thuyền nồng nặc mùi hôi của chất thải ứ đọng và của hơi người đọng lại, thằng Minh vội vàng đứng bật lên. Há to miệng, thằng Minh muốn ói, nhưng ói không được ngoại trừ một cái ói khan không nhớt không đờm. Hít thật sâu vào buồng ngực làn gió biển, thằng Minh hy vọng trấn áp được những lợn cợn đang cồn cào trong bụng. Nhưng sóng vẫn đều đặn nhấp nhô khoang thuyền khiến ruột gan và bao tử của thằng Minh tiếp tục gờn gợn cơn ói. Cơn ói nổi lên, thằng Minh ngồi sụp xuống sàn thuyền, mặt mày xây xẩm, mắt nổ tung đom đóm. Cong vòng cột xương sống, nó lại há to cổ họng, lần này miệng nôn thốc nôn tháo xuống sàn thuyền những vốc nước nhơn nhớt sền sệt màu vàng. Nước ói tanh tưởi văng vào quần áo và thịt da của hai ba người ngồi chung quanh, nhưng mọi người vẫn nhắm chặt mắt lại không buồn để ý. Ói xong, ngồi dựa lưng vào thành gỗ của con thuyền, thằng Minh ngửa cổ lên trời, thở hắt ra, mặt tái xanh lét. Một tay lau lau những dòng nước nhớp nháp còn dính hai bên khóe miệng, tay kia thằng Minh lôi ra chai dầu gió trong túi áo jean, bôi lên cổ họng nổi châm chấm da gà, và hai lỗ mũi đen kịt bụi đường khói xăng. Nhờ mùi hăng hắc của dầu xanh, thằng Minh cảm thấy dễ chịu đôi chút. Tưởng đã yên, thằng Minh vuốt vuốt ngực, đóng chặt nắp chai dầu gió màu xanh lại. Nhưng thật là bất ngờ, lợn cợn nhờn nhợn lại xuất hiện, lần này nhúc nhích nơi màng nhầy bao tử, rồi đẩy thẳng thật nhanh lên cần cổ khiến thằng con trai mười chín tuổi không kịp cúi gập người xuống, cũng không kịp há miệng ói ra. Bị hai bờ môi ngậm kín chặn giữ lại, nước vàng ngập ứ trong cổ họng xịt ra hai bên mép khiến thằng Minh phải há miệng thật nhanh, nhổ ra sàn thuyền những búng nước vàng loang loãng tanh tưởi và chua loét. Vuốt vuốt ngực, thằng Minh mở miệng ngáp ngáp tương tự như người ham ăn nuốt miếng bánh trôi vướng ngay cần cổ. Ôm bụng, thằng Minh bám thành tàu cố gắng đứng dậy, hy vọng trấn áp được lợn cợn trong bao tử bằng cách hít sâu vào buồng ngực làn gió mát lạnh của đại dương. Nhưng mới chỉ được một giây, thằng Minh hốt hoảng ngồi bệt ngay xuống sàn tàu, miệng há to tưởng chừng như sẽ nôn thốc nôn tháo một lần nữa, nhưng không, lần này nó chỉ ợ khan ra toàn hơi nồng nặc mùi tanh lờm lợm.
Mưa tiếp tục nặng hạt buông rơi, thằng Minh cúi xuống nhìn đứa em trai lên mười giờ này mặt mũi hốc hác, đen thui xám xịt, quần áo dơ dáy đang nằm bên cạnh nhấp nhô hơi thở. Tất cả sức lực của tuổi lên mười liến thoắng nghịch ngợm giờ đã khô ran bóc vảy sau gần ba ngày lang thang trên mặt biển, một phần cũng bởi vì thằng Minh làm mất giỏ cói căng phồng lương khô mà má nó đã gói ghém trao cho thằng Minh trước khi dời nhà. Thằng Minh nhớ lại giây phút hai anh em ùa theo đám đông leo lên thuyền lớn. Một tay nắm chặt đứa em, tay kia thằng Minh ôm ghì bị cói. Sau một hồi chen lấn, đẩy được thằng em lên sàn thuyền, nó nhận ra hai lòng bàn tay trống trơn, bị cói đã biến mất! Mất giỏ cói, ngày đầu tiên của cuộc hải trình, hai anh em uống nước sông thùng phi, thằng em ngậm tán đường vàng nho nhỏ xin được từ người đàn bà ngồi bên cạnh. Sang ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba, anh nhìn em, em nhìn anh, cả hai anh em cùng nhịn đói như nhau.
Sóng tiếp tục gầm gừ đe dọa, thằng Minh cúi xuống nhận ra người thanh niên chia chung căn phòng tại khách sạn trong khi chờ đợi xuống bến. Sau một ngày vật vờ ngỡ ngàng trong căn phòng lạ, người thanh niên rủ thằng Minh ra quán uống café. Trời buổi tối tháng Mười Hai gió bấc thổi buồn thiu. Bên ly café, người thanh niên trầm trầm cất giọng,
— Hồi đó, năm 76 tụi tớ thi đậu vào lớp Mười. Lớp hơn bốn mươi học sinh, cả con trai lẫn con gái. Sau hai tuần khai giảng, cô bạn gái từ hồi lớp Sáu đẹp như tranh vẽ bỏ mình chết trên biển Đông.
Người thanh niên nhìn thằng Minh, giọng nhỏ lại,
— Bị cưỡng ép, cô gái lao mình xuống biển.
Khói thuốc trong quán café tiếp tục quyện bay,
— Lớp Mười tiếp nối với thằng bạn bỏ học đi Kinh Tế Mới. Tối tối nền đất mát lạnh trống trơn bốn vách ru ngủ thằng con trai cuộn tròn bên cạnh bọ cạp, rắn hổ, và cạp nong. Có thằng còn xung phong đi Thủy Lợi hy vọng cứu được bố trong trại cải tạo. Bị rắn hổ cắn, thằng bạn Kinh Tế Mới sùi bọt mép, thân xác vùi nông trên nền đất hoang. Thằng bạn Thủy Lợi trở về với một chân. Nó đào mương, cuốc trúng đạn. Lớp Mười Một thuyền vượt biên của Cô Giáo dậy Lý bị tàu Thái Lan húc chìm. Cũng lớp Mười Một, thầy dậy Triết vượt thoát tới Singapore sau hơn một tháng lênh đênh trên mặt biển. Thuyền của thầy Triết nhổ neo với hơn một trăm người. Khi con thuyền được vớt, mùi hôi xác chết bốc cao thấu trời xanh. Trời đang xanh lơ bỗng dưng tối sầm khi tàu dầu Hòa Lan ghé ngang nhìn xuống. Người ngoại quốc mắt xanh nhỏ lệ khóc thương cho những làn da vàng giờ này thối đen. Cô bạn sống sót trong chuyến tàu nói mắt ông thầy đổi màu nâu, pha đậm nét màu vàng bởi những miếng thịt màu đỏ tươi trên một khoang thuyền.
Tử Kỳ long lanh nước mắt, tiếp tục lắng nghe bản đàn cung thương của Bá Nha,
— Hai năm liên tục của lớp Mười và lớp Mười Một, cả lớp thay phiên để tang trắng trong tâm hồn, những vành khăn tang khóc bạn, khóc cô, khóc thầy, và khóc thương cho mình.
Bản đàn cung thương tiếp tục réo rắt những nốt của gam thứ,
— Tháng Mười Hai năm 79, lớp Mười Hai, lệnh Tổng Động Viên mang lên bàn thờ bao nhiêu nhang khói của những linh hồn con trai mới lớn; con trai của thời ngồi chia xẻ với nhau một điếu thuốc bên vỉa hè café Sài Gòn; Sài Gòn của mất tên, của lạc loài, của bơ vơ, và của hờn giận, hờn giận làm người mắt nâu da vàng; thà là không sinh ra.
Thằng Minh tiếp tục nhìn người bạn. Cả hai thôi không nói thêm chi. Khói thuốc tô đậm quán café tựa như những nén nhang dành cho linh hồn những người tuổi trẻ Việt Nam đã bỏ mình thối rữa trên đất Chùa Tháp.
Bản đàn cung thương của bất hạnh cuối cùng thôi ngân dấu giáng (b) đổi sang dấu thăng (#) khi thằng Minh và người bạn mới quen sánh bước trên con đường dẫn về khách sạn. Người bạn mới nói,
— Sang đó, tớ đi học tiếp.
Thằng Minh gật đầu, vỗ vai người bạn,
— Trên vùng đất mới, tụi mình làm lại.
Tối hôm đó, từ khách sạn, người thanh niên và hai anh em thằng Minh được đưa lên hai chiếc ghe nhỏ riêng biệt. Trên mặt biển, thằng Minh gặp lại người bạn đang nôn ọe trong hầm thuyền chật chội, nóng nực, ngột ngạt hơi người và hơi dầu. Người thanh niên mặt trắng nằm dài ngã quỵ. Màu trắng biến mất. Màu xanh xam xám héo hắt trên khuôn mặt vàng úa bệnh hoạn! Thằng Minh nhớ lại những xác chết èo uột nằm vắt ngang ngửa trên người trong chuyến hải trình của hai tháng trước. Nắm cánh tay khẳng khiu của người thanh niên mặt vàng ủng, thằng Minh lay lay, lắc mạnh. Cặp mắt tròng vàng lờ đờ hé mở, liếc nhìn, rồi tiếp tục nhắm lại.
— Có tàu lạ.
Trong bầu không khí yên lặng, tiếng hét từ phía phòng máy của con thuyền vang vọng nghe rõ mồn một,
— Có chiếc tàu bên tay phải.
Nhiều người đứng nhỏm dậy nhìn ra xa xa. Theo hướng tay chỉ, người người nhận ra chấm đen chênh chếch phía bên tay phải đang thoáng hiện thoáng mất. Tiếng kinh trầm trầm trên khoang thuyền ngưng ngang rồi lại tiếp nối cung điệu. Lời kinh càng thêm ngân nga, chấm đen càng lúc càng thêm đậm nét. Từ trong phòng máy, thuyền đánh cá bật giọng chửi thề,
— Chết rồi! Tàu Thái!
Ngay lúc chữ Thái vừa chấm dứt, khoang thuyền nhỏ bé biến dạng. Phụ nữ bế xốc con nhỏ ấn sâu vào trong lòng, tay cởi tháo giây chuyền trên cổ. Đàn ông loay hoay ôm chặt xách tay, tay kia nắn tìm gấu quần viền áo. Thanh niên nhấp nhổm, đứng lên ngồi xuống, ngớ ngẩn nhìn trời. Con gái ngơ ngác nhìn nhau, nước mắt loang lổ ngắn dài. Thiếu nữ chuyền tay những vốc nhớt, trét vào mặt, bôi vào tay, xoa vào ngực, và đắp vào cổ. Mặc cho sóng biển vẫn đang dâng cao, thuyền tỵ nạn tăng tốc độ, ào ào phóng chạy. Sóng biển vươn vai đứng dậy như muốn cản lại con thuyền. Gió trời chu môi thổi mạnh như muốn cầm chân thuyền gỗ. Sóng bạc đầu nhấp nhổm vươn mình lao tới như muốn chận đầu thuyền tỵ nạn. Thuyền gỗ hét to,
— Tát nước! Tát nước bà con ơi!
Tiếng la hét kêu gọi tát nước, tiếng khóc lóc của những người phụ nữ trên khoang thuyền cùng một lúc rủ nhau mở miệng hét to. Thuyền vừa hét vừa bỏ chạy, chạy như bay, chạy như phóng, đáy như không chạm mặt nước. Nước biển trắng xóa bị đầu mũi thuyền chặt đôi tung tóe văng lên ướt đẫm cả một lòng khoang thuyền chật hẹp. Ầm! Ầm! Thuyền đánh cá chúi lên hụp xuống. Giông bão thổi toang rách nát tan thương. Mưa gió ồn ào tô đậm bất hạnh. Biển bao la vẫn nhuộm màu đen xám. Gió trời góp mây đen kịt lơ lửng không trung. Chớp sáng ngoằn ngoèo chạy ngang chạy dọc. Những tiếng sấm! Những cơn gió! Những cơn sóng! Tàu Thái Lan! Giờ này thiên nhiên rủ nhau quay cuồng, nhào lộn chung quanh con thuyền nhỏ bé. Bên kia, tàu Thái vẫn phóng tới, điệu bộ cương quyết. Bên này, thuyền vượt biên vẫn bỏ chạy, điệu bộ tuyệt vọng. Bên kia, những người con xứ Phật chùa vàng nhảy lên hét to. Bên này, nơi cuối mũi, thuyền tị nạn tắt máy buông tay đầu hàng; nơi đầu mũi, những người con gái cuống cuồng bôi thêm dầu mỡ; giữa lòng thuyền, tiếng kinh trầm trầm ngân nga, vẫn là lời kinh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn.
Tàu Thái sáp lại. Những thân thể đen bóng dầu mỡ phóng qua với dao dài nhọn hoắc và súng ngắn khạc lửa. Tay cầm dao, tay cầm súng, ngư phủ Xiêm La tóc dài quăn tít hằn học săm soi khuôn mặt lân bang. Hai phái tính được phân chia rõ rệt. Đàn ông, thanh niên ngồi tụ lại ở đầu mũi thuyền. Đàn bà, con gái, và con nít bị xua đẩy về phòng máy. Ngư phủ Thái tiến đến đám thanh niên. Áo dài tay, áo sơ-mi, áo thung, lột ra. Quần dài, quần tây, quần jean, lột bỏ. Ngư phủ Thái Lan tiến đến người đàn ông tóc bạc đứng bên cạnh thằng Minh, tay trái giơ ra táng mạnh vào mặt ông ta, tay phải giựt đứt sợi dây chuyền vàng lóng lánh trên cổ. Nhét sợi dây chuyền vàng vào túi áo, người ngư phủ quay sang người thanh niên với áo jean xanh và mũ nỉ còn khoác còn đội lùm xùm trên người và trên đầu. Một tay nắm cổ áo jean xanh, tay còn lại, ngư phủ Thái co cụm giáng mạnh vào mặt người thanh niên. Mũ nỉ lùm xùm trên đầu anh chàng rớt xuống, cô gái Việt Nam hiện nguyên hình với tóc dài đen nhánh, nước da trắng xanh, và cặp mắt lạc thần. Ngơ ngác nhìn quanh, cô gái mếu máo, ngồi sụp xuống, bưng mặt khóc. Trước cảnh tượng bất ngờ, ngư phủ xứ Thái phá ra cười to, cười hô hố. Tiếng cười mồi chài lôi kéo thêm nhiều người ngư phủ khác. Một, rồi hai, và sau cùng bao nhiêu ngư phủ của xứ chùa vàng cùng lao tới.
Ngôn ngữ địa cầu trở nên câm đặc nhìn người xứ Thái Lan nắm áo, lôi chân mặc cho những cô gái Việt Nam trên một khoang thuyền la hét, trì kéo!!! Thuyền đánh cá nhắm mắt thở dài thầm thì hy vọng vào lời kinh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn! Giờ này là mùa tuyệt vọng! Bây giờ đang là mùa tang thương! Thời gian đếm nhịp tích tắc, tích tắc, hai tiếng đồng hồ trôi qua. Thuyền đánh cá Thái Lan hững hờ bỏ đi để lại thuyền tỵ nạn một thân một mình bấp bênh phận nghèo trên mặt sóng nước và trên mặt địa cầu.
Bầu trời vẫn tối đen!
Người đàn ông trung niên mặt xương xương bất ngờ xuất hiện, ông ta chỉ thẳng vào mặt của người đàn ông tóc điểm bạc đang đứng bên cạnh thằng Minh,
— Tất cả là bởi vì thằng cha nội này nè. Mở miệng ra là nói tầm bậy tầm bạ không à.
Bị chỉ ngay mặt, điểm ngay tên, người đàn ông tóc muối tiêu nổi khùng, quát to,
— Ông tưởng ông ngon lắm hả. Ngon sao không làm trời làm đất trước mặt hải tặc Thái Lan đi? Ngoài nghề thầy bói nói láo ăn tiền, lường gạt người ta từ bao nhiêu năm nay, ông còn làm được cái gì hay hơn nữa không?
Đôi mắt long nhãn của con thuyền và những đôi mắt nâu của vơi bớt hóa ra chỉ còn sót lại gần hai trăm mạng người trên một khoang thuyền ngán ngẩm nhìn hai người đàn ông đang hung hăng cự lộn, rồi đăm chiêu dõi nhìn bầu trời xám đen như đang tìm kiếm, như đang thắc mắc tự hỏi, “Bao giờ mặt trời sẽ lại tiếp tục buông rơi vàng bạc ngọc ngà long lanh trên sóng nước?”
(Trích trong tuyển tập truyện ngắn Ốc Mượn Hồn của cùng tác giả do Dân Chúa Úc Châu xuất bản năm 2007).
www.nguyentrungtay.com
Nguyễn Trung Tây
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:03)
DÂN MÌNH MÌNH THƯƠNG
Đấu tranh dân chủ, tranh thủ gánh gồng
Dù ai trịnh thượng, vẽ rồng mặc ai
Yêu quê hương thì lòng phải thật thà
Nơi sinh tiên tổ, rứa mà ta thương
Dân mình nghèo khổ, khốn khó mình thương
Dân người giàu có, cao lương kệ người.
QUÊN QUÊ NHÀ
Vì non, vì nước, lừng khừng
Tình non, tình nước xin đừng có quên
Tình nhà, nợ nưóc phải đền
Đừng vui hải ngoại, mà quên quê nhà
THƯƠNG DÂN NGHĨA TÌNH
Thương dân thì thương cho trót
Mến dân thì đừng để sót một ai
Đóng sao cho thật đúng vai
Yêu thương không phải để người tặng khen
Thương yêu chẳng để bon chen
Yêu thương chẳng kể, trắng đen trong tuồng
Yêu đương không thể cúi luồn
Đã yêu yêu cả ngọn nguồn mới thôi
Chứ không trát phấn tô vôi
Thương dân thì phải, thắm sôi nghĩa tình.
Lê Dân Việt
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 00:15)
CẦU NGUYỆN - Prayer
Ảnh của Josephhoa Phạm. ..Xin cúi đầu lặng lẽ
Hát kinh cầu hồn thương nhớ Thuyền Nhân !!!
(Trích thơ Trần Thu Miên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Josephhoa Phạm
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 00:19)
THƠ TRÊN CÁT
Ảnh của Đặng Hà Nội, Brooklyn Park, MN. (Hình chụp tại Mũi Né, VN)“ Em vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh.”
(Trích Ca khúc Một Chút Qùa Cho Quê Hương của Việt Dzũng)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Đặng Hà Nội
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 00:54)
TÂM TÌNH
Ảnh của Sen K. – Philippines Con chim nho nhỏ
Đỏ mỏ xanh lông
Đỏ mồng xanh kiếng
Nó kêu xao xuyến
Kêu cho quân tử nghe cùng
Phải duyên thì kết, phải lòng thì thương.
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Sen K.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 10:38)
HÀNH HƯƠNG ĐẤT THÁNH (phần cuối)
Từ Giêrusalem, chúng tôi khởi hành đi Bêlem lúc sáng sớm. Qua trạm gác Palestine mỗi người trình Hộ Chiếu cho lính gác. Chúng tôi đi qua bức tường ngăn cách 2 nước Israel – Palestine. Bức tường dài 100km, cao 12m, Israel chỉ xây dựng trong một đêm.
BÊLEM Thị trấn Bêlem hiện nay là một trung tâm thương mại, điểm thu hút nhiều khách du lịch, có một khu kỷ nghệ chuyên tạo các vật phẩm lưu niệm mang tính tôn giáo và và truyền thống nổi tiếng, có rất nhiều thánh đường, trường học. Dân số khoảng 50.000 người, thuộc quyềnh quản lý của chính quyền Palestine.
Thị trấn cách Giêrusalem 8km về hướng Nam. Bêlem nằm trên một ngọn đồi đá vôi cao trên mặt biển. Bêlem là một địa danh rất quan trọng vì trong Thánh Kinh đã đề cập tới nhiều lần. Bêlem là nơi an nghỉ của Rakel vợ Tổ phụ Jacob, được chôn cất trên đường vào Ephrata. Đây cũng là nơi Bà Ruth, bà cố của vua Đavid đã gặp ông Boaz và kết hôn với ông. Bêlem còn là nơi sinh trưởng của vua Đavid, chính nơi đây ông đã được tiên tri Samuel xức dầu tấn phong làm vua dân Do Thái.
Theo Thánh kinh, vào thời Giacóp, Bêlem được gọi là Erphrath, nơi chôn cất Rakel (St 35,16,19;48,7). Sau khi chinh phục Canaan, Bêlem thuộc chi tộc Giuđa. Bêlem còn gọi là xứ Giuđa, phân biệt với Bêlem xứ Zabulon (R 1,1). Ong Ibzan làm thủ lãnh bảy năm, khi qua đời được chôn cất tại Bêlem (Tl 12,8-10); ông Emilech, bố vợ bà Ruth là người Etrát thuộc Bêlem (R1,1-2), cũng như chồng của bà Ruth, ông Bôaz (2,1,4). Ong Bôaz sinh Ô bét, Ô bét là ông nội của Đavit (R4, 18-22). Đavit được Samuel xức dầu phong vương (1Sm 16,13- 15) và do vậy Bêlem còn gọi là thành Đavit (Lc 2,4-11). Bêlem là nơi Đấng cứu thế đã hạ sinh (Mt 2,1-7), một thành được xem là nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa (Mk 5,1) sẽ xuất hiện vị cứu tinh dân Israen, vì thế Bêlem đã xảy ra vụ tàn sát các hài nhi Herôđê... (Mt 2,16) Bêlem một thành của dân tộc Dơvulun (Gs 19,15). Đối với Do Thái giáo, Bêlem là quê hương của Đavit, vua Israel trị vì năm 1000 trước CN. Đây cũng là một địa danh linh thiêng của Kitô giáo vì là nơi Chúa sinh ra.
Theo Phúc Âm, Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong một chuồng bò lừa. Theo một cổ truyền mà Thánh Giustinô thế kỷ thứ hai đã nói tới, ấn định nơi đó là một hang đá. Trên hang đá đó Hoàng đế Constantinô đã xây một Vương cung Thánh đường còn tồn tại cho đến ngày nay. Các mục đồng ban đêm canh gác đoàn vật ở cánh đồng chung quanh Bêlem được Thiên thần báo tin và thấy nhiều Thiên thần hát “Gloria in excelsis Deo”. Họ là những người đầu tiên đã đến thờ lạy Chúa Cứu Thế mới giáng sinh.
HANG BÊLEM
Là một căn hầm nhỏ (12mx3m) nằm dưới cung nguyện của Thánh đường Giáng Sinh. Nền thờ được dát bằng đá cẩm thạch. Các cộng đoàn Kitô giáo vẫn luôn thắp sáng các ngọn đèn dầu, xông hương dâng Chúa Hài Đồng. Một chiếc ngôi sao bằng bạc với dòng chữ: “Nơi đây, Đấng cứu thế đã Giáng Sinh”. Hang Bêlem có lẽ là nơi bày tỏ sự hiệp nhất của Kitô giáo, người ta vẫn thường chứng kiến các linh mục, tu sĩ của Công giáo và chính thống cùng dâng lễ với nhau.
THÁNH ĐƯỜNG GIÁNG SINH Một trong những thánh đường cổ xưa theo lưu truyền, Chúa Giêsu giáng sinh trong một hang đá. Thế kỷ thứ hai, thánh Justinô, giáo phụ Originê đều nói đến việc Chúa sinh hạ trong một hang đá. Năm 135, hoàng đế La mã Adrien đã ra lệnh cho dựng tượng thần Adonis tại chỗ để ngăn các cuộc hành hương sùng kính. Khoảng năm 333, hoàng đế Constantin và mẹ ông là Hêlêna đã cho xây một thánh đường trùm lên vị trí thánh đường ngày nay. Thánh Giêrônimô đã ở Bêlem từ năm 384-420. Qua nhiều thế kỷ, Bêlem là nơi đã nảy sinh nhiều cuộc tranh chấp mang tính chất tôn giáo. Thánh đường giáng sinh hiện nay được phân chia làm ba khu vực: Chính thống giáo Hy Lạp; Công Giáo và Chính Thống Armenia. Trên nóc thánh đường, có bốn cây Thánh giá nhỏ nằm sau cây thánh giá lớn biểu trưng cho bốn nước đã tham gia vào đội quân thập tự chinh thời bấy giờ gồm: Pháp, Ý, Đức, Anh.
Từ Thánh đường giáng sinh, chúng tôi đi xuống những bậc cấp, từng người một bước vào trong hang. Để vào bên trong, người ta phải khom mình xuống, vì lối vào chỉ cao 1m và rộng 0,8m. Lối vào có tên là “Cổng khiêm cung” vì khi vào ai cũng phải cúi đầu! Nguyên thuỷ, lối vào rất rộng, sở dĩ hẹp như bây giờ là do Thập Tự Quân dựng nên để ngăn ngừa quân Hồi giáo đang tàn phá các di tích Thánh. Mỗi người lần lượt quỳ gối hôn kính tảng đá ngôi sao bằng bạc ghi dấu nơi Chúa sinh xuống trần hơn 2000 năm trước. Nơi đây được gọi là Động Giáng Sinh, nơi đánh dấu một trang tình sử của Thiên Chúa, ghi nhớ một đêm đông giá lạnh, từ trời cao Thiên Chúa xuống thế làm người, giao hòa trời đất. Thật cảm động và chan chứa hồng ân, môi miệng con được hôn dấu tích thánh thiêng nhất lịch sử - nơi Chúa hạ sinh làm người. Kế bên có Động Sữa, theo tương truyền Đức Mẹ cho Chúa Giêsu bú, vài giọt sữa mẹ rơi ra. Vì thế động sữa là nơi chan hoà tình mẫu tử.
Chúng tôi cùng hát những bài thánh ca Giáng Sinh. Đêm nay Noel về, Hát khen mừng Chúa Giáng sinh ra đời…Hát giữa ban ngày mà cứ tưởng như là đêm thánh vô cùng. Cảm nghiệm tình yêu cao vời của Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại.
Tin mừng Lc 2,1-20 kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Một biến cố tầm thường nhất. Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse - Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền. Các quán trọ đã hết chỗ. Mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo, ở đó không có chỗ trống cho tình người. Họ đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết gió lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai, bà đặt con trong máng cỏ, bạn hữu thân nhân chẳng có ai, chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng, sự kiện chỉ có thế, thật là đơn giản.
Một biến cố vĩ đại nhất. Thế nhưng em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên sai. Người đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Người. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Vĩnh Cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang. Bởi vậy, biến cố giáng sinh bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nỗi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra ? Môt sự kiện táo bạo. Táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi,chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm.Thiên Chúa, Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được.Thiên Chúa,Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình. Thiên Chúa, Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn,giờ đây lại ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ.Quả là sự kiện táo bạo.
Chính Chúa Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Người đến mang sự hoà bình cho nhân loại, tước bỏ khỏi lòng người sự thù hận. Tất cả mọi người là con cùng một Cha, Thiên Chúa nhân lành. Giáo lý quan trọng nhất của Chúa Giêsu là dạy cho mọi người biết Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Chỉ có giáo lý cao đẹp này, chỉ có Tin mừng này mới giải thoát nhân loại khỏi chiến tranh để xây dựng hoà bình.
Hài nhi nằm trong máng cỏ mời gọi con người:
- Hãy mở rộng vòng tay: Đôi tay Chúa giang rộng như muốn ôm tất cả nhân loại, cử chỉ đó nhắn gửi rằng, hãy mở rộng vòng tay tiếp đón mọi người.
- Hãy mở rộng tầm nhìn: Anh mắt Hài nhi đơn sơ trong sáng như muốn nhắn bảo: Đừng chỉ nhìn hạn hẹp vào bản thân mình, hãy biết mở rộng tầm nhìn ra xã hội, ra giáo hội, ra thế giới. Đừng hạn chế tầm nhìn vào lãnh vực vật chất kinh tế, hãy mở rộng tầm nhìn sang lãnh vực tinh thần tâm linh.
- Hãy mở rộng trái tim: Mở rộng trái tim mình ra để đón Chúa sinh vào, để nghe và hiểu Lời Chúa. Lời Chúa nói thì thầm vào trái tim, Lời ấy nhẹ nhàng sâu thẳm.
|
| Nơi thánh Giêrônimô sống để dịch Thánh Kinh |
Trong những giây phút hồng phúc đó, chúng tôi cầu xin cho mọi người trên thế giới được đón nhận giáo lý cao đẹp của Chúa Giêsu. Đó là Tin Mừng cho nhân loại, Tin Mừng dẫn đường soi lối cho nhân loại xây dựng hoà bình trên công lý và tình yêu.
Rời động Giáng sinh, chúng tôi lên phía trên. Trong Nhà thờ Giáng Sinh đang cử hành thánh lễ. Chúng tôi lại đi xuống lối khác để dâng lễ tại nhà nguyện các Thánh Anh Hài. Nơi đây còn có hai nhà nguyện nhỏ nữa, đó là nhà nguyện kính Thánh Gia lên đường trốn sang Aicập, nhà nguyện kính Thánh Giêrônimô (Ngài đã sống nhiều năm tại đây để dịch Thánh kinh từ nguyên bản Hylạp, Hipri, Aram sang tiếng Latinh, bản Vulgata.)
Rời Thánh đường Giáng sinh, chúng tôi thăm cánh đồng chiên nơi Thiên thần báo tin cho các mục đồng.
Những di tích nơi cũng đầy sự thánh thiêng. Các mục đồng chỉ là những người nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc, không học cao hiểu rộng, không danh vọng cao sang, không tiền tài vật chất. Thiên Chúa đến ghé thăm, đem ánh sáng cứu độ đến cho họ. Ba Đạo sĩ Đông phương cũng được Chúa gọi, và họ đã mở lòng ra đón nhận Ngài là Cứu Chúa của họ. Ở Palestine, có những toán du mục quanh năm sống với đàn chiên, người ta gọi là “mục tử sa mạc”. Họ sống giữa thiên nhiên, khi đêm về giá lạnh, họ lùa đàn chiên vào những bộng đá, hoặc những chuồng nằm sau bờ làng. Người Do thái không thích những người chăn kiểu đó, họ nói: “Đừng dạy con làm nghề chăn cừu, thợ cạo, lái đò, hàng xén, vì là nghề của phường trộm cướp. Người pharisiêu không bao giờ mua sữa, mua len của họ, vì sợ phải mua của gian”. Thế nhưng, Chúa sinh hạ làm người, kêu mời họ đến với Ngài.
|
| nơi Thiên thần báo tin cho các mục đồng |
Đêm hôm ấy là đêm bình an, đêm diễm phúc trước hết là các mục đồng, tức là thành phần nghèo khó trong xã hội, bởi vì Chúa đến để đem niềm an vui đến cho họ. Chính những người chăn chiên nghèo hèn mộc mạc ấy được thiên thần loan báo tin vui: “Hôm nay. Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em.” Khi các Mục Đồng canh giữ đàn chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa ( Lc 2, 10 – 12 ). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Mađian và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ.
Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa - Đấng tràn đầy vinh quang thánh thiện sinh ra trong cảnh bần cùng, Đấng là Ánh sáng muôn dân chấp nhận sinh ra trong cảnh tối tăm của hang bò lừa, Đấng là Ngôi Lời sáng tạo hóa thân làm trẻ sơ sinh yếu đuối. Do đó, không lạ gì khi “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không đón nhận” (Ga 1,11). Và chỉ có những người nghèo hèn và bé nhỏ như các mục đồng mới đón nhận sứ điệp: Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha giấu không cho hạng thông thái biết những điều ấy, mà Cha lại mạc khải cho kẻ bé mọn. Vâng, vì ý Cha là như thế! Đấng giàu lòng thương xót đã bị lôi cuốn bởi sự nghèo khó, mời nhân loại đến tựa nương bên máng cỏ như phương thế tốt nhất để nên giống Cứu Chúa, nhờ đó mà mỗi người được quyền làm con Thiên Chúa. Thế giới hôm nay biến chuyển không ngừng và đầy những phức tạp: nhiều triển vọng cho tương lai nhưng cũng đầy những lo âu khắc khoải, yêu chuộng hòa bình nhưng còn quá nhiều chia rẽ, bất đồng, bất công và khủng bố. Dầu có nhiều tôn giáo lớn như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo... nhưng con người vẫn có khuynh hướng mê tín, thích tìm sự lạ, khát khao huyền bí. Thế giới đang không ngừng tục hóa: chối bỏ những giá trị siêu việt để chỉ nhìn nhận những giá trị vật chất, con người sống bằng tính toán lợi nhuận, đánh giá thực tại và đồng loại bằng cân đo đong đếm mà không nghĩ đến phẩm giá con người, hành động dựa trên tự do cá nhân chủ nghĩa mà không quan tâm đến những tiêu chuẩn luân lý đạo đức. Vì thế, thế giới vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm, nghèo tình thương, nghèo chân lý, nghèo công bằng, nghèo tự do, nghèo đạo đức, nghèo vật chất đến nỗi người nghèo vẫn hoàn nghèo và có biết bao gia đình phải túng đói cơ cực kiếm sống hằng ngày bên cạnh sự nhởn nhơ hưởng thụ của tầng lớp giàu sang mê say hưởng thụ... Trong một xã hội như thế, sống đạo quả là khó khăn nếu không nói là lạc lõng và thách đố, vì thực tế đi ngược lại vối Tin mừng của Đức Kitô là Tin mừng của sự sống, của tình yêu, của chân lý, công bằng và huynh đệ.
Thành GiêricôGiêricô là nơi khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy đất hứa. Sách Giôsuê chương 6 kể lại cuộc đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô nổi tiếng với câu chuyện Ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu. Vì tò mò muốn gặp Chúa mà vóc người thấp bé nên ông đã trèo lên cây sung để được thấy Ngài. Hôm đó ông đã được Chúa ghé nhà ông ăn cơm tối: "Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông." (Lc 1, 5). Và “Hôm nay ơn cứu độ đã đến với nhà này”.
Chúng tôi thăm “Cây sung ông Giakêu”. Cây sung to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây 700 năm. Bà cụ Dung hái và ăn luôn ba quả sung. Bà đang bị thấp khớp nên tin rằng ăn trái sung Giakêu sẽ được lành. Chúng tôi liền đặt tên cho bà là “Bà ba quả”, thêm nhiều tiếng cười vui vẻ quanh chuyện trái sung.
Từ cây sung Giakêu đi thêm chừng vài km, chúng tôi đến Núi cám dỗ. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện trong 40 ngày. Thời gian 40 đêm ngày Chúa trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Môsê đã ở trên núi Sinai.
Chúa Giêsu đã chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ, sau khi ăn chay cầu nguyện trong sa mạc. Có ba cơn cám dỗ là ba biểu tượng mọi cám dỗ qua các thời đại.
1- Cám dỗ cơm bánh hay vật chất: Trong hoang địa, dân Do thái kêu ca vì thiếu tiện nghi và lương thực. Chúa cho manna để nuôi họ. Nhưng họ nhàm chán thứ bánh họ ăn hằng ngày. Lương thực nói đây tượng trưng nhu cầu vật chất chúng ta muốn hưởng thụ. Trong cơn cám dỗ vật chất, Chúa Giêsu đã trưng lời sách Đệ nhị luật: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng bởi lời từ miệng Thiên Chúa”. Mặc dù Chúa Giêsu cảm thấy đói, nhưng sự đói khát nghe lời Thiên Chúa còn quan trọng hơn là nhu cầu về cơm bánh. Ngài hơn hẳn dân Do thái xưa, Ngài tìm ý Thiên Chúa hơn là tìm sự thỏa mãn cho riêng Ngài.
2- Cám dỗ về sự thử thánh quyền năng Thiên Chúa: Dân Do thái luôn yêu cầu Chúa ban những dấu lạ điềm thiêng, nhưng Chúa từ chối vì họ không thực tâm tin vào Ngài, mà đơn thuần chỉ để thách thức Chúa. Hôm nay, khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống khỏi đền thờ, Ngài đã trả lời bằng cách trưng dẫn sách đệ nhị luật: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Những gì dân Do Thái khiêu khích Thiên Chúa nơi hoang địa, nơi đây Chúa Giêsu đã chẳng hề làm.
3- Cám dỗ sấp mình thờ lạy ma quỷ: Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, thú vui, vật chất, tiện nghi, sắc dục đem con người xa lìa Chúa và dẫn đi đến chỗ thỏa hiệp, phạm tội. Chúa Giêsu chẳng màng bất cứ điều gì ma quỷ trưng dẫn, kể cả vương quốc nó muốn dâng tặng Ngài. Ngài đã chẳng cúi đầu thờ lạy nó, trái lại Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ngươi chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa” (Đnl 6,13).
Núi cám dỗ " Quỷ lại đem người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy."
Đường lên núi cám dỗ dốc đá, nên phải có cáp treo để đi lên. Hôm ấy, thật đáng tiếc, trục trặc kỹ thuật nên cáp treo không chạy. Chúng tôi chỉ đứng bên dưới nhìn lên với tất cả tiếc nuối không lên đến đỉnh núi. Chúng tôi trở lại chân núi để dâng lễ tại nhà thờ Chúa chịu cám dỗ.
Qumran: Nằm trên bờ tây bắc của Biển Chết, là nơi cư ngụ của các ẩn sĩ Esseni, những người ghi chép các bản văn Kinh Thánh rất cổ xưa vô cùng quí giá cho việc học hỏi Kinh Thánh. Tại đây, năm 1947 hai người chăn cừu đã tình cờ khám ra một hang động có những bình chứa các văn kiện quan trọng này. Các nhà khảo cổ đã mua lại được một số văn kiện ghi chép Thánh Kinh. Họ cũng khám phá ra một tu viện đã bị vùi lấp. Những tài liệu quí giá này được lưu trữ và trưng bày tại một bảo tàng viện lớn của Do Thái là Shrine of the Rock.
Chúng ta được biết nhiều về nhóm Esseni nhờ các bản chép tay phát hiện được từ năm 1947 tại Qumran. Lịch sử và nhất là gốc tích của họ chưa được làm sáng tỏ. Hình như là vào thời kỳ bị nhà Maccabê bắt bớ, con cháu dòng họ Xađốc đã trốn vào sa mạc. Sau đó một cơn khủng hoảng xảy ra trong nội bộ. Những người khô đạo trở về quê quán, còn những người mộ đạo thì đi tới Qumran, nơi đã có mặt những người đầu tiên bị lưu đày. Ở đây họ sống có tôn ti đẳng cấp. Các tư tế, con cháu Xađốc, chiếm giữ một địa vị then chốt. Nhóm Esseni gắn bó với Luật trong sạch tỉ mỉ hơn cả người Pharisiêu và ở một vài điểm, họ còn bảo thủ hơn cả người Pharisiêu. Họ từ chối không dùng bộ lịch của nhà Xêlơxít mà chỉ dùng bộ lịch cũ. Do đó, họ không mừng lễ Vượt qua cùng một lúc với Do Thái giáo chính tông. Để được trong sạch, họ tắm nhiều lần mỗi ngày và nhất là họ không chịu lên Đền thờ, vì theo họ Đền thờ đã ra ô uế kể từ ngày thay bộ lịch và các tư tế không còn thuộc nhà Xađốc nữa. Họ thích lấy đời sống thánh thiện để thay thế cho các lễ phẩm, đợi cho tới ngày Thiên Chúa tái lập việc phụng tự và trả lại cho Đền thờ sự trong sạch nguyên thuỷ.
|
| Hang số 4, phát hiện đầu tiên vê Qumran |
Những dãy núi đá mầu đỏ xám có nhiều hang. Chính ở nơi đây, mùa xuân năm 1947, hai du mục Mohammad el Dib và Ahmad Mohammad thuộc bộ lạc Ta’Amira đã khám phá trong một hang, bây giờ người ta gọi là I Q, bảy cuốn sách hầu như còn nguyên vẹn. Những cuốn sách đó sau ít tháng đã làm chấn động thế giới Kinh Thánh và Cận đông học. Đó là sách Tiên tri Isaia còn nguyên vẹn (I QIsa), sách chú giải (peser) Habacuc (I QpHab), cuốn Luật (Serek) Cộng đồng (I QS). Những cuốn trên đã do American Schools of Oriental Research xuất bản và do M.Burrows phụ trách; một cuốn Tiên tri Isaia thứ hai (I QIsb), sách những Bài ca (Hôdayot: I QH), cuốn Luật chiến đấu (Milhamah I QM) do Đại học Do thái xuất bản và do E. Sukenik phụ trách, một ngụy thư về Sáng thế ký đã hư hại nhiều cũng do Viện Đại học Do thái xuất bản năm 1956. Sau một thời gian tản mát đó đây, bây giờ các cuốn nói trên đều được giữ tại Viện Đại học Do thái ở Giêrusalem. Năm 1949, các nhà cổ học đại diện Bộ Khảo cổ Jordania, trường Kinh Thánh các cha Đaminh Pháp và Bảo tàng viện Palestina bắt đầu cuộc tìm kiếm. Cuộc tìm kiếm đó kéo dài tới năm 1956 và thu được nhiều mảnh cảo bản trong 11 hang khác nhau, nhất là trong hang IV. Các nhà khảo cổ đó cũng khai quật hoang tàn Qumran. Cuộc khai quật này cho ta biết Khirbet Qumran đã là trụ sở của một cộng đồng đông đảo vào thời Hasmônêô (135 - 37 trước Công nguyên) (tiền đúc của Alexandrô Jannêô 103 - 76 trước Công nguyên) và từ năm 4 đến năm 68 sau Công nguyên. Người ta chỉ mới xuất bản những mảnh cảo bản của hang I: D. Barthelemy - T.J. Milik, Qumran Cave I, Oxford 1955; những mảnh cảo bản ở các hang khác mới được nói tới trên tạp chí đó đây. Chúng ta còn phải đợi một thời gian nữa mới được biết tất cả các tài liệu và có thể những du mục còn giữ một số tài liệu quí báu. Họ đã đòi một số tiền khổng lồ để bán các tài liệu mà họ đã lấy được; bây giờ có lẽ họ còn đợi cho lên giá (mỗi phân vuông một Bảng Anh). Dầu sao tất cả các mảnh cảo bản đã tìm thấy, cả các mảnh cảo bản mà những tổ chức khoa học đã bỏ tiền ra mua đều được giữ tại Viện Bảo tàng Jordania và do một nhóm học giả thuộc nhiều quốc tịch và tôn giáo khác nhau khảo sát. Trong những cuộc tìm kiếm văn kiện Qumran, người ta đã khám phá ra hai kho cảo bản khác: ở Murabbaat và ở Khirbet Mird. Nhưng những tài liệu này không liên quan tới vấn đề của chúng ta. Trái lại phải kể vào loại văn kiện Qumran, tài liệu Damas (CD) do S. Schlechter tìm thấy năm 1896 - 1897 trong một hội đường Do-thái ở Le Caire (Ai-cập) và do ông xuất bản: Fragment of a Zadokite Work, Cambridge 1910. Tài liệu này đã là một bí nhiệm cho đến khi người ta khám phá ra những mảnh cảo bản ở hang IV, V và VI Qumran. Những mảnh cảo bản này cho ta biết chắc tài liệu trên là của các ẩn sĩ Qumran.
Biển Chết: Rời Qumran trong gió lộng và nắng chiều vàng nhạt chúng tôi đi Biển Chết. Qua nhiều cánh đồng chà là bạt ngàn, tôi nhớ đến những vườn dừa ven biển Phan thiết, những rừng cao su ngút ngàn ở Đồng nai. Biển Chết nằm trong vùng sa mạc của miền Giuđêa, miền nam Israel, mặt nước có diện tích khoảng 1.020km2, chỗ sâu nhất là 385m. Mặt nước của biển thấp nhất trái đất. Nơi đây không có một sinh vật nào có thể sống nổi vì quá mặn, 33% độ mặn so với các biển khác chỉ có 3%, mặn đến độ có thể nằm đọc báo trên biển. Hằng ngày nước sông Jordan và những dòng sông khác đổ vào đây khoảng 7 triệu tấn nước mang theo một khối lượng khoáng chất đáng kể.
Đến biển chết ai cũng thích tắm và trét bùn lên người. Bùn Biển Chết chữa bệnh được đóng gói bày bán tại nhiều cửa hàng. Tắm ở đây không được để nước vào mắt vào miệng, chỉ cần tắm 10 phút là đủ rát bỏng người. Khách hành hương quá đông, đủ mọi màu da sắc tộc. Người ta bảo rằng đi khắp thế giới mà chưa bồng bềnh trên Biển Chết thì chưa đủ. Trở về Giêrusalem, mỗi người mang theo muối mặn chát trên khắp cơ thể.
Bêtania Một làng nằm ở phía đông nam núi Cây Dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem (Mc 11,1), trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là: El-Azariyeh, “Nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn nấu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khoảng 5.000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khoảng 1 giờ vì phải rẽ nhiều ngã quanh thành phố.
Chúng tôi đến thăm ngôi mộ Ladarô, mộ đục sâu vào đá, mấy chục bước tam cấp đi xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã an nghĩ 4 ngày; thăm căn nhà 3 chị em Matta, Maria và Ladarô ở, viếng nhà thờ dâng kính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Matta trước khi Chúa làm phép lạ cho Ladarô sống lại.
Đứng trước mộ Ladarô, tôi nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11,1-45.
Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: - Ladarô, người Thầy thương mến đang đau nặng. Chúa bảo: Bệnh này không đến nổi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa.
Cho dù Ladarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: - Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình: - Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. Ladarô đã chết nhưng Matta tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Matta: - Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ. Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: - Con có tin điều đó không? Và Matta đã tuyên xưng: - Lạy Thầy con tin, Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha.
Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.
“Ta là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại, là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô Giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin vào thánh giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải thoát, tin vào sự sống và sự sống lại.
Chính vì thế mà tất cả những lời chứa đựng trong Kinh thánh Tân ước được gọi là Tin mừng, Evangélion. Đó là Tin mừng cứu sống mà Chúa Kitô chính là nội dung; nói khác đi, chính Ngài là Tin mừng cứu sống (x.Mc 1,1). Thánh Phaolô thường gọi những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin mừng Chúa Kitô” (x.1Tx 3,2; 1Cr 2,12; 4,4; 8,13; 10,14; Pl 1,27; Rm 15,19). Và chúng ta có thể tìm thấy trong thư gởi giáo dân thành Côrintô một toát yếu về Tin mừng ấy như sau: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cũng như đang nắm vững. Nhờ Tin mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.
Trước hết, tôi đã trình bày lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ 3 đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm 12. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các tông đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.” (1Cr 15,1-8)
Chúng ta còn có thể tìm được những câu toát lược hơn nữa về Tin mừng Chúa Kitô, nhưng trong đó bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu: Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại (x.1Tx 4,14; 2 Cr 13,4; Rm 4,24-25; 8,34; 14,9).
Tin Mừng Cứu Sống chính là Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Chết và sống lại đó là hai sự kiện căn bản không thể tách rời. Không thể có sống lại nếu không chết, trái lại, nếu Chúa Kitô chết mà không sống lại thì nói như Thánh Phaolô “đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng” (1Cr 15,14), nghĩa là vô giá trị, giả dối.
Hai sự kiện trên vì bất khả phân như thế nên thánh Gioan đã liên kết lại trong cái mà Van den BUSSCHE gọi là “biến cố bất khả phân”, biến cố đó là biến cố cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trên thánh giá mà thánh Gioan coi như là chính sự “Thăng Thượng” (Elevatio) của Chúa Kitô (Ga 8,28; 12,32); nói khác đi là chính giờ phút vinh quang của Ngài (Ga 13,31).
Hai sự kiện, chết và sống lại đều cùng một mầu nhiệm Chúa Kitô. Lễ Vượt qua mới, hay là biến cố giải thoát, là môt biến cố bất khả phân. Tuy nhiên trong thực tế, biến cố này, tuy là một biến cố duy nhất nhưng rõ rệt phân làm hai đoạn chính: đó là chiều thứ 6 thụ khổ và sáng Chúa nhật Phục sinh. Vì thế, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là hai giai đoạn của cùng môt biến cố Cứu độ duy nhất.
En Kerem:Chúng tôi đi thăm quê hương thánh Gioan Tẩy Giả. Một ngôi nhà thờ lớn xây trên nơi Gioan được sinh hạ. Cũng như Động Giáng Sinh, nơi đây có một phiến đá ghi nhớ ngày ra đời của Gioan, bên trên có bàn thờ dâng lễ. Chúng tôi thành kính hôn lên tảng đá. Sau đó dâng thánh lễ trong nhà thờ.
Với sự chào đời của Gioan Tẩy giả, nhân loại như đứng trước một thế giới mới, sống động được loan báo bởi niềm vui. Họ hàng bà con đến chia vui. Êlisabét vui. Giacaria vui vì hết câm và dâng lời ca chúc tụng. Nhân loại vui vì đã đến thời kỳ ân sủng: Đấng Tiền hô chào đời dọn đường cho Đấng Cứu tinh xuất hiện ( Lc 1,57-66). Họ hàng đều muốn đặt tên cho trẻ theo dòng tộc. Người ta hỏi ý cha nó. Ông viết tên nó là Gioan theo lời sứ thần đã báo. Gioan có nghĩa là “Chúa ban ơn”. Ông hết câm và nói tiên tri về con mình. Đây là một dấu hiệu. Mọi người kinh sợ: trẻ này rồi sẽ ra sao? Phải đặt tên cho trẻ là Gioan, vì Chúa muốn thế. Điều đó có nghĩa là Chúa đã có chương trình cho nó. Mỗi người sinh ra đều nằm trong chương trình của Chúa và Chúa có chương trình cho mỗi người. Cuộc đời là ơn gọi. Lòng tràn ngập niềm vui, Giacaria xướng lên bài ca vịnh ngợi ca lòng từ bi của Chúa, tóm kết toàn lịch sử Israel từ Xuất hành, Giao ước đến niềm hy vọng giải thoát, cứu độ. Lời kinh làm vang lên sự phó thác bền vững nơi lòng từ bi thương xót của Chúa. Lòng từ bi Chúa đến viếng thăm sự đày ải của con người, ban niềm hy vọng cứu thoát (Lc 1,67-79). Ca vịnh diễn tả cho thấy qua thời gian lâu dài đợi chờ, nay Chúa đến giữa nhân loại, để từ đây ta mang lấy niềm hy vọng về vĩnh cửu. Niềm hy vọng ấy nhắc mỗi người sống cái hiện tại với niềm tin tưởng phó thác. Lòng từ bi Chúa như mặt trời xua tan mọi bóng đêm và dẫn ta đến an bình. Bài ca Bênêđictus được viết bằng nhiều ngôn ngữ trên đá, kín cả bức tường phía ngoài.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú, sống nơi hoang địa vắng người trơ trụi. Nhưng chính nơi đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc Gioan càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng Ong đã kiên nhẫn đợi chờ nhiều năm tháng cho đến ngày Ong nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với Ong. Lời của Chúa đưa Ong ra khỏi hoang địa để đến gặp gỡ con người qua mọi vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Ong nghe đã trở thành Lời Chúa Ong công bố. Tiếng Chúa gọi Ong đã trở thành tiếng Ong mời gọi mọi người.
Gioan đã sống trong dòng lịch sử của Đạo và Đời: Thời hoàng đế Tibêriô, hai Thượng tế Khana và Caipha, một Philatô, tổng trấn Giuđêa tham lam tàn bạo, một Hêrôđê tiểu vương Galilêa,kẻ giết Gioan sau này. Gioan đã đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy để làm trọn sứ mạng Tiền Hô – Dọn Đường cho Đấng Cứu Thế.
|
| Kinh Benedictus bằng tiếng Việt |
Gioan là tiếng nói bất khuất. Vua Hêrôđê Antipas bỏ vợ, kết hôn với bà Hêrôđia, vừa là cháu vừa là chị dâu, một vụ loạn luân được dư luận bàn tán, một số tai tiếng không tha thứ được. Gioan đến trước nhà vua và nói: “Nhà vua không được lấy bà làm vợ” (Mt 14,3-5). Hêrôđê nổi giận truyền tống giam Gioan vào ngục Mechaerus, nhà vua muốn ngăn chặn một tiếng nói quấy rầy hơn là thủ tiêu một đối thủ, nhất là khi đối thủ là người đang có uy tín trong quần chúng. Vả chăng, chính ông cũng phải kiêng nể, hay đến thăm, trò chuyện với Gioan, có thể với hậu ý ve vuốt để cho qua chuyện. Nhưng tại hoàng triều, Gioan có một địch thủ nguy hiểm hơn cả nhà vua ham danh và hiếu sắc. Đó là bà Hêrôđia, từ lâu vẫn tìm cơ hội trả thù. Thánh Marcô đã mô tả tâm lý của các diễn viên trong màn kịch hoàng cung mà Hêrôđia là người chủ mưu và đạo diễn. Ngăn trở chính phải vượt qua là sự do dự của nhà vua trước dư luận quần chúng vốn thuận lợi cho Gioan. Cơ hội đã đến, vào mùa xuân năm 28, khi Hêrôđê Antipas mừng lễ sinh nhật. Từ ngày vua ruồng bỏ con gái vua Arêtas để kết hôn với Hêrôđia là cháu ruột, ông lo sợ một cuộc xâm lăng của bộ lạc Nabaton và có lẽ vì thế ông thường cư ngụ ở Machaerus, để trông chừng biên giới miền nam. Đây là một thành luỹ kiên cố, nhưng cũng là cung điện nguy nga tráng lệ. Nhà vua mời các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng tong xứ Galilêa đến dự tiệc sinh nhật. Theo phong tục thời đó, dạ yến hay biến thành cuồng loạn. Khi thực khách đã ngà ngà, thấy một thành hai, người ta thường cho các vũ nữ vào nhảy múa. Lần này chính Salômê, con gái Hêrôđia đảm nhận việc mua vui. Cô gái mới 15 tuổi nhưng cũng rất lành nghề, làm cho nhà vua, quan khách say mê. Antipas nói với thiếu nữ: “Con muốn gì, trẫm sẽ cho dù là nửa nước!” một lời thề như người Do Thái hay làm. Cô ra hỏi mẹ, người phụ nữ không tham dự trong cùng tiệc. Hêrôđia bảo: “Xin đầu Gioan Tẩy giả đặt trên đĩa này”. Salômê trở vào ỏn ẻn như một lệnh truyền: “Con muốn đức vua ban cho con cái đầu của Gioan đặt trên đĩa”. Hêrôđê hoảng hốt, nhưng việc đã rồi. Ông chần chừ trong khi cả triều thần nhìn ông, xem ông xử trí làm sao. Ông sai vệ sĩ đi lấy đầu Gioan trong ngục Machaerus bên cạnh tư dinh. Người cận vệ trở về với cái đầu loang máu. Nhà vua trao cho thiếu nữ, cô ta đem về cho mẹ. Các môn đệ Gioan Tẩy giả đến lấy xác thầy và mai táng trong mộ (Mc 6,29). Hêrôđia hả dạ vì giết được kẻ thù nhưng nhà vua thì lại lo lắng phập phòng. Để rửa nhục cho con gái bị bỏ rơi, vua Arêtas của người Nabaton, xua quân đánh bại đạo binh của Hêrôđê Antipas. Hơn nữa, hoàng đế Caligula đặt em của Hêrôđia là Agrippa đệ nhất làm vua thay thế và đầy Hêrôđê Antipas đi mãi tới tận xứ Gaule. Người đương thời coi đó là quả báo vì đã dám giết hại một nhà tiên tri, một vị Thánh. Gioan Tiền hô là gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước, một ngôn sứ bất khuất trước bạo quyền, bảo vệ bênh vực cho sự thật, luôn bao dung và khiêm tốn. Cả đời Gioan chỉ có một tâm nguyện là làm người dọn lòng người cho Chúa đến. Dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
|
| Nhà thờ kính Gioan Tẩy Gỉa |
Đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một đường dốc cao để đến Nhà thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ ngũ. Leo lên đúng 66 bậc thang mới đến Nhà thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng tuyệt đẹp. Nhà thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Đức Mẹ. Khi nghe tin bà Isave mang thai, Đức Mẹ đã vượt đường sá xa xôi đến thămvà giúp đỡ. Từ Nazarét về tới En Kerem cũng xa xôi lắm (90 km) và nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ Isave.Nơi đây bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Thiên thần Gabriel chào Đức Mẹ: “Vui lên, hỡi đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Bà Isave khi nghe Maria chào mình, cất tiếng tung hô: “Em thật diễm phúc hơn mọi phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (1,42). Đức Maria được diễm phúc vì Mẹ đã tin vào lời Chúa phán. Giáo hội đã nối kết hai lời ấy làm thành phần đầu kinh Kính Mừng để ca ngợi Đức Maria. Trước lời chúc khen của bà Isave, Đức Maria xúc động, cảm hứng từ bài ca ngợi khen và tạ ơn của bà Anna, mẹ của Samuel, chỉ còn biết dâng lên Thiên Chúa lời kinh ca ngợi Magnificat. Qua lời kinh tán tụng này, Đức Mẹ bày tỏ lòng biết
|
| Dâng lễ tại nhà thờ Gioan Tẩy Giả |
ơn sâu thẳm trước những việc kỳ diệu và trong đại mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi chính bản thân yếu hèn của mình, để qua Mẹ mà đến với toàn dân Thiên Chúa: “Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ Người… Đấng quyền năng đã làm cho tôi những điều cao cả”. Cuộc viếng thăm chan hòa niềm vui. Isave là người đầu tiên, nhờ ơn soi sáng của Thánh thần, nhận ra Maria là Mẹ Đấng Thiên sai, nên thốt lên: “Em có phúc vì đã tin”. Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ khi được hội ngộ với Đấng mà ông sẽ có sứ mệnh dọn đường. Đức Maria hân hoan cất tiếng ca tạ ơn Magnificat. Tất cả đều xuất phát từ niềm tin như ngọn nguồn của niềm vui. Hình ảnh Mẹ vội vã lên đường đem Thánh Thần bình an, đem Ngôi Lời Cứu Thế, đem niềm vui cứu độ chia sẻ cho người chị họ là bản trắc nghiệm cho lòng tin của mỗi người. Tin mang đến niềm vui và chia sẻ niềm vui cho người khác bằng tinh thần phục vụ đến quên mình.
Nhà thờ Đức Mẹ ngũSau kinh cầu nguyện trong Nhà thờ thăm viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ ngũ. Nhìn Đức Mẹ thánh thiện ngũ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức, khóc nghẹn ngào bên Mẹ. Theo truyền thống xa xưa, Đức Mẹ không chết mà chỉ ngũ một giấc rồi Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác. Phụng vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio (an giấc),
Deposotio (an táng), Transitus (qua đời), Natalis (ngày sinh vào Nước Chúa). Tất cả những danh từ đó đựoc dùng để nói tới cái chết của Đức Mẹ. Tiếng « assumptio » (bởi động từ assumere; sumere: cất lấy; ad: kết hợp, đoàn tụ) lúc đầu ám chỉ việc linh hồn Mẹ được vào vinh quang Chúa (giống như các thánh); về sau từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về trời. Giáo hội phân biệt hai từ ngữ « ascensio » áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên trời do quyền năng riêng, còn« assumptio » áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ đựơc đưa về trời. Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: « Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về trời cả xác hồn ». Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rắng Đức Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không đụng tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế Mẹ được cất về trời cả xác và hồn. Nhìn Đức Mẹ ngũ, tôi thấy toát lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp cao quý vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội,vì làm Mẹ Dấng Cứu Thế, vì niềm tin đơn sơ cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thư muối thiêng liêng, lung linh như ánh sáng dịu mát, huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Nhà tiệc ly: Tiếp tục hành hương đến phòng Tiệc Ly để thăm nơi Chúa thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Truyền Chức. Căn phòng nhỏ chừng 40m2, nền cũ kỷ, tường loang lỗ. Nơi đây đã diễn ra bữa băn cuối cùng của Chúa với các môn đệ (Lc 22,14-18). “Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và người yêu thương họ đén cùng.. . nên trong một bữa ăn, Người đứng đậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau ». Chúa dạy bài học yêu thương phục vụ: ”Vậy nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” ( Ga 13, 1-15). Qua Thánh Thể, Chúa tiếp tục nuôi dưỡng nhân loại bằng Mình và Máu Chúa trên hành trình của con người về quê hương vĩnh cửu: “Này là mình Thầy. Hãy cầm lấy mà ăn” (Mt 26:26), và “Tất cả hãy uống. Đây là chén máu Thầy. Máu Tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người để được tha tội” (Mt 26:27-28). Trong đêm đó Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một điều răn mới là « anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”.
|
| Trước phòng lưu trữ Scroll Kinh Thánh Qumran |
Cũng tại căn phòng này, Chúa đã hiện ra hai lần sau khi sống lại. Đây cũng là nơi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các môn đệ nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các tín hữu tiên khởi chọn Núi Sion làm trụ sở chính và xây cất thánh đường này sau khi được người Byzantin nới rộng và gọi là ‘Núi Thánh Sion’ để liên kết Giáo hội tiên khởi với lời tiên tri của Isaia: "Từ Sion sẽ phát sinh lề luật và từ Jerusalem sẽ phát sinh Lời Chúa". Người Ba Tư đã phá hủy Nơi Thánh này vào năm 614. Vào thế kỷ thứ 12 Đạo Binh Thánh Giá lại tái thiết thánh đường khác và trùng tu phòng Tiệc Ly. Năm 1176, người ta đã khám phá ra mộ của Đavit ở nhà nguyện lầu dưới. Chúng tôi lần lượt vào viếng lăng mộ Vua Đavit.
Rời Em Kerem, chúng tôi đi thăm Điện Kinh Thư, nơi lưu trữ những cảo bản Thánh Kinh cổ. Tiếp tục hành trình về Tel Avil chuẩn bị bay về nhà sau gần 10 ngày hành hương Đất Thánh.
B. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ.Một dòng tộc bị nguyền rủaKhoảng 3.000 trước CN, vùng mà người Do Thái (Jew-Israel) và người Palestines đang tranh dành nhau hiện nay, là đất của người Canaan, một dòng tộc được nhắc đến nhiều trong lịch sử và trong Thánh Kinh, nhưng dấu tích còn lại rất ít. Đó là vùng đất phía Đông của Địa Trung Hải. Tại đây, người Canaan đã sống trong những thành phố, trong đó có những thành phố rất nổi tiếng, thường được nhắc đến trong sách vở, như Giêrusalem và Giêricho. Họ đã có chữ viết và một tôn giáo sau này còn tồn tại nơi người Do Thái, và qua người Do Thái, ảnh hướng đến Thiên Chúa giáo và Hồi Giáo.
Theo thánh kinh, các thành phố của người Canaan đã bị người Do Thái huỷ diệt dưới thời của Giosuê (Gs 7-8). Người Do Thái thiêu huỷ thành Giêricho trước, sau đó đến thành Ai. Thánh kinh ghi rõ như sau: “Israel giết chúng, không sót một tên, không để thoát một mống. Vô thành ai bị bắt sống và bị diệt bởi Giosuê” (Gs 7, 22-23). Số người bị giết lên đến 12000 người.
Trở lui lại lịch sử một chút, chúng ta thấy người Canaan và người Do Thái không phải là những người xa lạ. Theo gia phả được ghi trong Thánh Kinh, người Canaan và người Do Thái đều là con cháu của ông Nôe. Sau trận đại hồng thuỷ, ông Noe sống sót với 3 người con là Sem, Ham và Jaspheth người Do Thái thuộc dòng của Sem và người Canaan thuộc dòng của Ham. Dòng dõi của Ham bị ông Noe chúc dữ, vì khi ông Noe uống rượu say và ngủ trần truồng, ông Ham đã chỉ trỏ và chế diễu. Canaan là con của ông Ham. Lời nguyền rủa của ông Noe như sau: “Canana đáng bị nguyền rủa! Nó phải là đầy tớ của anh em nó.”
Rồi ông nói: “chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Sem; Canaan phải là đầy tớ nó! Xin Thiên Chúa mở rộng Japheth, nó hãy ở trong lều của Sem, và Canaan là đầy tớ của nó.”
Dòng tộc Canaan là dòng tộc đầu tiên đến chiếm vùng đất mầu mỡ ở phía Đông Địa Trung Hải nên vùng đất đó được gọi là vùng Canaan. Dòng tộc Philistines – sau này gọi là Palestines – là một trong những dòng tộc thuộc dòng dõi của Canaan, một dòng dõi đã bị ông Noe chúc dữ, sống ở phía Nam vùng Canaan.
Vùng đất hứaAbram thuộc dòng của Sem được Thiên Chúa trọn lãnh đạo dân Do Thái. Khi ông đến vùng đất của dòng Canaan, tức vùng phía Đông của Địa Trung Hải, Thiên Chúa phán: “ ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi.” (St 12,7). Từ đó đất Canaan được gọi là đất hứa của người Do Thái.
Khi nạn đói xảy ra Abram, Abram dẫn dân Do Thái sang Ai Cập, nhưng bị vua Pharao đuổi, ông dẫn dân lên miền Negeb. Sau những trận đánh ác liệt, người Do Thái đã đánh bại nhóm vua Chodorlahomor ở vùng thung lũng Siddim, Thiên Chúa đã lập lại giao ước với Abram, tổ phụ của người Do Thái: “ Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến sông Cả (tức Euphrates), đất của những người Cinietes, Cenezites, Cedmonites, Hethites, Pherezites, Raphaim, Amorrites, Canaan, Gergeites và Jebusites.” (St. 15.19-20)
Do đó, đi đâu thì đi, đến đâu thì đến, nhưng người Do Thái vẫn cố tìm về đất Canaan. Tuy Thiên Chúa đã hứa như vậy, nhưng cuộc chiến đấu trở về và giữ vững vùng đất hứa này rất căm go, nó đã kéo dài trên 5.000 năm và đến nay vẫn còn được tiếp tục.
Đến thời Giacob làm lãnh tụ của Do Thái, khi ông đến thành Bethel của người Canaan, Thiên Chúa lại nói với ông: “tên ngươi là Giacob, nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Giacob nữa, ngươi sẽ được gọi là Israel.” Vậy người đặt tên cho ông là Israel. (St. 35,10-11). từ đó, con cháu của dân tộc Do Thái được gọi là dân Israel. Người Do Thái giữ mãi tên này cho đến bây giờ.
Biên giới Do Thái theo thánh kinhKhi nạn đói lại xảy ra, Giacob dẫn dân của ông đến Ai Cập và ông đã chết tại đây. Cuộc sống của dân Israel tại Ai Cập lúc đầu khá thoải mái và ngày càng lớn mạnh, nên vua Ai Cập lo sợ, đã tìm cách khống chế. Môisê đã làm một cuộc cách mạng, dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập, đi qua biển Đỏ và đến sa mạc Sinai. Sau nhiều cuộc chiến đấu vất vả, họ đến thảo nguyên Moab, gần sông Jordan, đối diện với thành Giêricho, rồi vượt qua sông Jordan vào chiếm đất Canaan. Thiên Chúa nói với Môisê: “ Hãy ra lệnh cho con cái Israel và bảo chúng: khi anh em vào đất Canaan, phần đất rơi vào tay anh em là gia nghiệp, chính đất Canaan với biên giới như sau:
“Phía nam của anh em bắt đầu từ sa mạc Sin, giáp giới Edom. Ranh giới phía nam sẽ khởi sự từ cuối biển muối (Salt Sea), ở mạn đông. Rồi ranh giới đó sẽ vòng xuống phía Nam, lên giốc Acrabbim, đi qua Sin, đến phia nam Cadesbarne, tiến về Hasar-Addar; sau đó từ Asemon ranh giới vòng xuống suối Ai Cập và đến biển.
“Phía tây anh em có biển lớn làm ranh giới. Đó là ranh giới phía tây của anh em.
“ và đây là ranh giới phía Bắc: từ biển lớn, anh em sẽ vạch một đường lên núi Hor, anh em sẽ vạch một đường đến cửa Hamath, ranh giới sẽ đi đến Sedada, rồi chạy tiếp đến Zephrona và chấm dứt ở Hasar-Enan. Đó là ranh giới phía Bắc của anh em.
“sau đó anh em vạch một đường làm ranh giới phía Đông từ Hasar-Enan đến Sepham. Từ Sepham, ranh giới đó sẽ đi xuống đến Ar-Baal, phía đông của Ain. Đi xuống nữa ranh giới đó sẽ tiếp giáp với các đồi phía đông biển hồ Chenereth; rồi biên giới sẽ tiếp tục chạy đến Jordan và chấm dứt ở Biển Muối.
“Đó là đất của anh em với các ranh giới chung quanh.”
Ông Môisê ra lệnh cho con cái Israel: “đó là đất mà anh em sẽ bốc thăm để chia nhau làm gia nghiệp, đất mà Thiên Chúa truyền phải ban cho chín chi tộc và một chi tộc.” (Ds 34, 1-13).
Khởi đầu cuộc chiến giữa Israel và PalestinesGiosuê là người kế vị của Môsê lãnh đạo dân Israel, đã mở những trận đánh lớn để diệt những dòng tộc của người Canaan và chiếm đất Canaan. Khi nghe tin Giosuê đã chiếm thành Giêricho và thành Ai, vua thành Giêrusalem là Adonicsedec và các vua khác đã cầu hoà với Israel rồi liên kết với nhau đánh chiếm miền Nam do người Philistines (tức Palestines) đang chiếm giữ. Các vua ở phía đông sông Jordan cũng bị Israel đánh bại. Cuộc chiến giữa Israel và Palestines bắt đầu từ đó. Thánh kinh cho biết, khi ông Giosuê đã già, vẫn còn nhiều vùng đất lãnh thổ Canaan đang do 5 thổ mục của Palestines chiếm giữ, đó là các vùng Gaza, Azotus, Ascalon, Geth và Accaron. (Gs.13). Các thế hệ nối tiếp của cả hai bên đã tiếp tục chiến đấu để được làm chủ vùng đất này.
Một vài nét đại cương như thế cũng đủ cho thấy rằng mặc dầu dòng tộc Israel và dòng tộc Palestines đều là con cháu của ông Noe, nhưng họ đã tranh nhau vùng Canaan, tức vùng đất màu mỡ phía đông Điạ Trung Hải, bằng những cuộc chiến tranh đẫm máu và bất khoan dung, kéo dài đã trên 5000 năm và đến bây giờ vẫn chưa dứt.
Thăng trầm qua lịch sử Khoảng năm 722 trước công nguyên, người Babylon đã đánh chiếm vùng Canaan và phá huỷ thành Giêrusalem của người Dothái và bắt người Do thái phải lưu qua Babylon.(Trong cổ sử, Babylon là một quốc gia ở vùng Mesopotania, giữa sông Tigris và sông Euphrates, ngày nay là khoảng từ Iraq đến vịnh Ba Tư). Tuy nhiên, người Do Thái vẫn được cho giữ quốc tịch và tôn giáo riêng của họ. Năm 539 TCN, Đại đế Cyrus của Ba Tư chinh phục được Babylon, người Do Thái được trở lại vùng Judea, khu vực của người Palestines. Mặc dầu bị đặt dưới sự bảo hộ của Ba Tư, người Do Thái vẫn được phép xây dựng thành Giêrusalem và sống với tôn giáo riêng của họ.
Vào năm 333 TCN, Đại đế Alexander đã chiếm vùng đất Palestines, nơi người Do Thái đang cư ngụ. Đại đế này và những người kế vị ông đã không thành công trong nỗ lực đồng hoá người Do Thái bằng tôn giáo và văn hoá Hy Lạp. Năm 141 TCN, dân Do Thái đã nổi dậy thành công và thiết lập một nước Do Thái độc lập, nhưng sau đó lại bị Đại đế Pompey của La Mã đến đánh chiếm và cai trị. Thời gian Chúa Giêsu giáng sinh và truyền đạo là thời gian Do Thái đang bị người La Mã đô hộ.
Trong thời gian từ năm 66-73 và năm 132-135 sau công nguyên, dân Do Thái đã tổ chức hai cuộc nổi dậy chống người La Mã nhưng không thành công, nhiều người Do Thái bị hành quyết hay bắt đi làm nô lệ. Người theo Do Thái giáo cấm đến viếng thăm Giêrusalem. Dưới thời Đại đế Constantine, Giêrusalem và vùng đất Palestines trở thành nơi hành hương của Thiên Chúa giáo.
Năm 638, Hồi giáo đánh chiếm Palestines và Giêrusalem. Thành Giêrusalem bị biến thành thánh địa đầu tiên của Hồi giáo. Các tín đồ Hồi giáo mỗi khi đọc kinh thường quay mặt về Giêrusalem. Sau này thánh địa của Hồi giáo được chuyển về Makkah và Medina. Người Do Thái bị buộc phải chọn hoặc theo Hồi giáo và nộp cống hoặc chết. Nhiều người Do Thái vượt qua khó khăn bằng cách sống thầm lặng, hoặc di cư đến những nơi khác để tiếp tục sinh sống và giữ đạo của họ.
Năm 1517 Đế quốc Ottomans của Thổ Nhĩ Kỳ chiếm vùng Địa Trung Hải, cai quản đất Palestines trong gần 400 năm. Nhà cách mạng Ai Cập là Mohammed Ali đã thực hiện hai cuộc nổi dậy trong hai thập niên 1830 và 1840 nhưng không thành công.
Quyết tâm trở về của người Do Thái.Năm 1897, Theodor Herzl (1860-1904) đã đi khắp nơi vận động một phong trào gọi là Zionimus (hay Zionism hoặc Sonisme), thường được gọi World Zionist Organization để đưa người Do Thái trở về “đất hứa” của họ trên vùng Canaan ngày xưa. Sion là tên của hòn núi thánh ở phía đông Giêrusalem, nơi tượng trưng tinh thần của người Do Thái. Phong trào này trước được thành lập tại Châu Âu, về sau lan ra rộng khắp nơi.
Sau đại chiến thứ I (1917-1918), khối Arập đã giúp Anh đánh bại Đế quốc Ottomans và chiếm vùng Palestines, vì Anh hứa sẽ trao trả độc lập cho các dân tộc Arập. Nhưng Anh cũng đã hứa như vậy với người Do Thái. Do đó, khi kí kết hiệp ước với Pháp và Nga năm 1916 tại Sykes-Picot, Anh tuyên bố sẽ chia vùng này thành hai vùng, đặt dưới sự cai quản của đồng minh. Ngày 2.11.1917 Ngoại trưởng Anh là Arthur James Balfour đã đưa ra một tuyên bố nổi tiếng, hứa sẽ cho thành lập một quốc gia Do Thái tại đất Palestines. Năm 1922 Anh chính thức chia vùng Palestines làm 2 khu vực, phần phía tây được giao cho người Do Thái, phần phía đông cho hình thành một quốc gia mới lấy tên là Transjordan do Abdullah cai quản. Abdullah là người A-rập bị khối A-rập trục xuất. Tính lại, phần đất của Do Thái chỉ bằng 22% phần dành cho người Transjordan. Năm 1946 Anh trao độc lập cho Transjordan và tạo thành một nước Palestines - Arập mới.
Khối Arập đã phản đối mãnh mẽ sự phân chia này. tướng Azzam Pasha, Tổng thư ký Liên Đoàn Ả Rập tuyên bố sẽ mở “Jihad” (tức thánh chiến) đẻ chiếm lại. còn Hajamin nói: “tôi tuyên bố một cuộc thánh chiến. hỡi những người anh em hồi giáo! Hãy giất người Dothái! Hãy giết tất cả chúng!”.
Không làm gì được trước tình trạng này, năm 1947 Anh đưa vấn đề cho liên hiệp quốc giải quyết. ngày 29-11-1947, đại hội đồng liên hiệp quốc đã họp và quyết định 2/3 phiếu thuận, chia phần phía Tây phe Aletresttine cho người Do Thái. phần đất này chỉ có 25% là màu mở còn 75% là sa mạc. người Ả rập cương quyết chống lại, Jordan đem quân chiếm phía đông Giêrusalem và một phần lớn ở phía tây sông Jordan, thu hẹp lãnh thổ Dothái lại.Ai Cập đem quân chiếm dãy Gaza và bao vây phía nam Giêrusalem. mặt sdầu bị mất mát lớn như thế, Dothái vẫn tồn tại.
Cuộc trở về đầy gian khổ.Trong khi cuộc chiến xảy ra, trên đất Arập có khoảng 870.000 người Dothái đang sinh sống. Nhiều cộng đồng của họ đã có cách đây khoảng 2500 năm. những người Dothái này bắt đầu bị khủng bố, tài sản của họ bị tịch thu. Khoảng 600.000 người Dothái đã phải từ bỏ vùng của người Arập, trở về định cư tại vùng dành cho người Do thái. nhiều người Do Thái đã thoát khỏi cuộc tàn sát của Đức quốc xã trong thế chiến thứ II cũng quay về.
Năm 1948, do sự khuyến khích của các lãnh tụ ARập, khoảng 720.000 người ARập di cư ra khỏi vùng đất dành cho ngưòi Do thái. Các lãnh tũ A Rập Chúa sẽ đưa họ về sau khi đánh bại Dothái. thủ tướng Dothái Đavítd Ben-gurion đã khuyến khích người Ả Rập ở lại và hứa không làm hại họ nhưng họ cứ đi. khối A Rập thành lập những trại tỵ nạn cho người Palestines chung quanh vùng lãnh thổ dành cho người Dothái và người Palestines để chống lại Dothái.
Ngày 7-1-1949 một hiệp ước ngưng bắn đã được ký kết giữa Dothái với Aicập, Syria, Libanon và Tansjordan (sau này đổi thành Jordan), nhưng tới lúc đó Dothái đã chiếm thêm được khoảng 50% phần đất đã đựơc Liên Hiệp Quốc giao cho, gồm vùng phía tây vùng gallile làm thành một hành lan rộng lớn xuyên qua trung tâm Palestines tới Jerusalem và một phần của Jerusalem. Nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục.
Tháng 4-1950 Jordan chiếm thêm West bank và Ai Cập chiếm vùng Gaza, nhưng không nước nào dành cho người Palestines quền tự trị. Hai vùng Juđea và Samaria đưỡc xác nhập vào Jordan. Đây là hai vùng được dùng làm địa bàn để thực hiện các cuộc khủng bố người Dothái. Họ đã thành lập một tổ chức gọi là FATAH (hay Fatek hoặc Fedayee) để khủng bố dân chúng Dothái. từ 1949-1956 đã có khoảng 1300 thường dân Dothái bị giết. Aicập phong toả hải cảng Eliat làm Dothái gặp nhiều khó khănm trong việc giao thông với ngoại quốc. ngày 29-10-1956 Dothái liền mở cuộc tấn công vào khối A Rập. Anh và Pháp cũng mở cuộc tấn công Ai Cập để giải toả kênh đào Suez. Nhưng các cuộc xung đột vẫn tiếp tục.
Sự xuất hiện của PLO và Yesser ArafatNăm 1964 tổ chức giải phóng Palestines (Palestines liberation Organistion- PLO) đã được thành lập dười sự tài trợ của Liên Đoàn A Rập để traanh đấu lấy lại phần đất mà họ cho rằng Dothái đã chiếm của họ.
Yesser Arafat có cái tên khá dài là Mohammed Yesser Abddul-Raouf Qudwa Al-Husseini, sinh ngày 24-8-1929 tại Cairô (có sách nói là tại Jerusalem). Ông có người vợ tên là Suha At-Taweel và mọt ngưòi con gái tên là Zahwa. Ông tốt nghiệp bằng kỹ sư canh nông năm 1951 tại đại học King Fuad ở Ai Cập. Năm 1958 ông tham gia tổ chức Fatah chống lại người Dothái. Năm 1967 tổ chức Fatak liên kết với tổ chức PLO và năm 1968 ông được bầu làm chủ tịch tổ chức PLO.
Năm 1970 lực lượng PLO đã đụng độ đẫm máu với lực lượng của Jordan và bị trục xuất qua lebanon. Năm 1982, khi Do Thái tấn công Lebanon, khoảng 12 000 quân võ trang của PLO di chuyển đến Syria và các nước A-rập khác và đặt bộ tư lệnh tại Tunisia. Bộ tư lệnh này đã bị Do Thái phá huỷ năm 1985.
Năm 1974, Hội nghị thượng đỉnh của khối Arập họp tại Moroco đã công nhận PLO là tổ chức đại diện chính thức của người Palestines.
Cuộc chiến 6 ngày.Năm 1967 các nước Arập quyết tâm đánh bại Do Thái. Syria từ cao nguyên Golan pháo kích liên tục vào các thành phố của Do Thái. Ngày 15 – 5- 1967 lực lượng của Ai Cập tiến chiếm Sinai. Các nước Jordan, Iraq và Arập Saudi cũng đem quân phong toả Do Thái. Tổng thống Nasser của Ai Cập tuyên bố: “mục tiêu của chúng tôi là tiêu diệt Do Thái…”. Trước tình trạng này, ngày 5-6-1967, với võ khí tối tân được Hoa Kỳ cung cấp Do Thái đã mở cuộc tấn công Ai Cập và kêu gọi Jordan đứng ngoài cuộc chiến, nhưng Jordan từ chối. Ngày 8-6-1967, Do Thái đánh bại trận Jordan và chiếm vùng Juda và Samaria. Sáng 9-6-1967 Do Thái đánh bại quân Syria trên cao nguyên Golan… chỉ trong 6 ngày, quân Do Thái đã chiếm trọn bản đảo Sinai, dảy Gaza, vùng Judea, và Samaria, và cao nguyên Golan. Qua các cuộc thương lượng, một cuộc đình chiến đã được thiện hiện, nhưng Do Thái không chịu rút ra khỏi tất cả những vùng họ đã chiếm được. Khối Arập dùng chiến dịch khủng bố để tiếp tục chống lại Do Thái. Năm 1973, Ai Cập và Syria lại mở cuộc tấn công Do Thái nhưng thất bại.
Một giải pháp cho Palestines.Tháng 11-1988, Hội Đồng An Ninh quốc gia Palestines họp tại Algiers, tuyên bố thành lập một nước Palestines độc lập và lấy Giêrusalem làm thủ đô. Hội đồng cũng quyết định sử dụng nghị quyết số 242 và 338 của Liên Hiệp Quốc về quyền tự quyết của người Palestines để làm căn bản cho cuộc thương thuyết hoà bình. Sau những cuộc thương thuyết gây cấn và kéo dài, Do Thái và PLO đã kí hiệp ước hoà bình ngày 13-9-1993 trong khuôn viên toà Bạch Ốc của Hoa Kỳ, trước sự chứng kiến của tổng thống Clinton và hai cựu tổng thống George Bush và Jimmy Carter. Theo hiệp ước này Do Thái thừa nhận quyền tự trị của người Palestines trên vùng Gaza và West Bank, bắt đầu là tại thành phố Giêricho. Ngày hôm sau, Do Thái lại ký hiệp ước sống chung hoà bình với các quốc gia Arập. Ngày 28-9-1995 hai bên đã trở lại Washington kí hoà ước chính thức công nhận quyền tự trị của Palestines trên vùng West Bank.
Tính sổ lại, chúng ta thấy sau nhiều cuộc đấu tranh đẫm máu và cam go, Do Thái đã có một vùng rộng 8.020 dặm vuông trên vùng đất hứa với dân số 5.938.000 người (Do Thái chiếm 82%), trong đó thủ đô Giêrusalem có 550.000 người. Tổng sản lượng quốc gia của Do Thái là 105 tỉ mỹ kim và lợi tức theo đầu người là 18.300 mỹ kim. Đây là một mức tương đối cao. Tại vùng Gaza rộng 140 dặm vuông có 925.000 dân và vùng West Bank rộng 2.270 dặm vuông có 2.500.000 dân. Mặc dầu đã có hiệp ước hoà bình, cuộc chiến vẫn chưa dứt và có thể nói là không bao giờ dứt, vì nhiều người Arập vẫn chủ trương phải tiêu diệt Do Thái.
Do thái cương quyết bảo vệ đất hứa của họ trên vùng Canaan ngày xưa, một vùng đất mà họ đã phải chiến đấu liên tục trong hơn 5.000 năm để chiếm đoạt và bảo vệ. Người Palestines cũng cương quyết bảo vệ mảnh đất mà cha ông của họ đã từng sinh sống trên đó cách đây hơn 5.000 năm trước.
Người Palestines tuy yếu nhưng có khối Arập đứng đằng sau, nhất là khối tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Trước một khối sức mạnh như vậy, Do Thái vẫn đương đầu được vì các lý do sau đây:
Lý do thứ nhất là Do Thái có những võ khí tối tân nhất thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Mỗi năm Hoa Kỳ viện trợ cho Do Thái khoảng 3 tỷ 500 triệu Mỹ kim về quân sự. Có thể nói, hầu hết các võ khí tối tân nhất của Hoa Kỳ đều đã được chuyển cho Do Thái, vì Do Thái được coi là tiền đồn của Hoa Kỳ tại vùng Trung Đông. Bất cứ chuyện “ngổ nghịch” nào xảy ra trong khối Arập, Do Thái cũng có khả năng can thiệp ngay tức khắc. Nếu không có Do Thái đóng trụ ở đó, các nước Arập sẽ liên kết lại và bất thần giáng hoạ cho Hoa Kỳ cả quân sự lẫn kinh tế. Ngoài ra sự lớn mạnh cuả Do Thái bắt buộc các quốc gia Arập lại bỏ tiền ra mua vũ khí cho Hoa Kỳ canh tân canh tân liên tục để bất trắc đây là một mối lợi lớn của Hoa Kỳ.
Lý do thứ hai là khối người Do Thái lưu vong trên thế giới, nhất là tại Hoa Kỳ, luôn yểm trợ cho người Do Thái ở quê hương. Tại Hoa Kỳ hiện có 6 triệu người Do Thái, ở Châu Âu có khoảng 2 triệu 200 ngàn người (đa số ở vùng Liên Xô cũ), Pháp có 6.000 người, Anh có 3.000 người, Đức 50.000 người,…. Trong những người Do Thái lưu vong này có những người rất giàu có hoặc đang giữ những chức lớn trong chính quyền tây phương như Henry Kissinger, Joseph Liebeman…, những người Do Thái lưu vong đã vận động hậu trường rất giỏi để các nước phương tây luôn yểm trợ Do Thái.
Lý do thứ ba là người Do Thái có một niềm tin bất diệt nơi Thiên Chúa Yahweh, Đấng luôn che trở và bảo vệ và bên vực dân tộc Do Thái. Họ tin chắc dân tộc Do Thái nhất định phải toàn thắng. Từ năm 638, Hồi giáo đã mở cuộc thánh chiến chiếm toàn khối Arập và phía Bắc Phi Châu biến vùng này thành những quốc gia Hồi giáo. Họ buộc người Do Thái phải chọn: “hoặc theo Hồi giáo và nộp cống hoặc phải chết”. Nhưng đa số người Do Thái vẫn giữ đạo của họ.
Ngoài ra, dù ở đâu trong hoàn cảnh nào, ngươi Do Thái vẫn gắn bó với nhau và sống cho quê hương. Họ lại là những người rất thông minh, có đầu óc thực tế, cương quyết, chịu khó làm và hoạt động có phương pháp, các lãnh đạo có chiến lược và chiến thuật. Thiếu những đặc tính đó, người Do Thái lưu vọng đã bị đồng hoá từ lâu và ngày về sẽ không có.
Người Palestines biết mình là kẻ yếu, không thể đương đầu nổi Do Thái, nhưng họ không chịu ngồi yên, họ dùng vũ khí của kẻ yếu là khủng bố để chống lại. Thêm vào đó là sự trợ giúp và xúi biểu của các thành phần Arập chống lại Do Thái và chống Hoa Kỳ. Do Thái dĩ nhiên không bao giờ chịu ngồi yên cho kẻ địch chơi thọc nách như thế. Chiến thuật của Do Thái là thỉnh thoảng mở cuộc hành quân “lùng và diệt địch” ngay trên những sào huyệt của những tổ chức khủng bố, phá đi tiềm lực của chúng về cả võ khí lẫn con người. Sau những cuộc hành quân “lùng và diệt địch” như thế Do Thái tin rằng nếu muốn phục hồi lại, người Palestines phải có một thời gian rất dài, trong thời gian đó Do Thái sẽ được bình an.
(Theo tài liệu của sử gia Lữ Giang; thamkhảo: Our visit to the Holy Land, Fr.Peter R. Vasko, OFM; The Holy Land, Palphot).
Israel là hình ảnh của Giáo Hội. Kinh Thánh Cựu Ước liên quan rất nhiều đến lịch sử Đất Nước và Dân Tộc Israel. Biết thêm được đôi điều về địa lý, lịch sử Israel để có thêm sự hiểu biết về Cựu Ước và Tin Mừng.
“Những người hiền lành sẽ được đất làm sản nghiệp”,đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bát Phúc,lấy lại Thánh vịnh 37. Hy vọng mọi nổ lực của thế giới của Giáo hội sẽ mang lại hoà bình cho miền đất Thánh Thiêng.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 20:20)
Nhân Ngày 30 Tháng Tư,
Nhìn Lại Thái Độ Một Đồng Minh Nước Úc vốn có rất ít quan hệ với Việt Nam Công Hòa và không đóng vai trò quan trọng gì trong việc quyết định tương lai của nền Cộng Hòa ấy, nhưng có lúc họ cũng đã “lợi dụng” chiến tranh Việt Nam trong thế phòng thủ chiến lược của họ. Nên khi việc lợi dụng ấy không còn đáng giá nữa, cũng như mọi người khác, họ chẳng ngần ngại gì không quay 180 độ. Nhân ngày 30 tháng Tư, thử ôn lại bài học lịch sử năm xưa. I. Liên Đảng và Chiến Tranh Việt-Nam1. Một quyết định ngạc nhiênNgày 29 Tháng 4 năm 1965 (gần đúng 10 năm trước ngày 30-04-1975), Thủ tướng Menzies của Úc chính thức công bố sự can dự của Nước ông vào cuộc chiến ở Việt-Nam. Ông giải thích lý do của sự can thiệp này như sau:
“Việc mất Nam Việt Nam sẽ là một đe doạ quân sự trực tiếp đối với Úc và mọi quốc gia Miền Nam và Đông Nam Á Châu. Ta phải nhìn điều đó như là một phần trong cuộc nam tiến của Cộng sản Trung Hoa giữa Ấn độ và Thái Bình Dương”.
Bốn mươi năm đã trôi qua, đủ để người ta hiểu ra những nguyên động lực đã thúc đẩy ông Robert Menzies đi đến một quyết định quan trọng như thế đối với một quốc gia thực ra không có nhiều quan hệ gắn bó với Úc, một quyết định làm ngạc nhiên không những Việt-Nam Cộng Hòa mà cả người bạn đồng minh, đến lúc đó, vẫn được coi là hững hờ với số mệnh nước Úc, tức chính phủ Hoa-Kỳ.
Dù quân số do ông Menzies gửi qua Nam Việt-Nam ngày 29-04-1965 chỉ là một tiểu đoàn pháo binh với các đơn vị yểm trợ, nhưng đó là một đóng góp hết sức có ý nghĩa. Ý nghĩa đầu tiên đó là lực lượng chiến đấu, trong khi Hoa-kỳ chỉ hy vọng Úc sẽ gửi thêm huấn luyện viên cho Quân Lực Việt-Nam Cộng Hoà. Thực thế, để trả lời cho câu hỏi châm chọc của viên chức ngoại giao Úc (Waller) về các hành động có thể có của Mỹ từ tháng Giêng 1965 trở đi, Bundy đã bực dọc phản pháo bằng cách nhắc đến lời hứa của Úc gửi thêm 30 huấn luyện viên qua Nam Việt-Nam mà mãi vẫn chưa thấy thực hiện. Càng ý nghĩa hơn nữa là kế hoạch này, tuy được Mỹ và quốc hội chấp thuận và chính thức công bố ngày 29 tháng 4 năm 1965, nhưng thực ra đã được đưa ra từ ngày 18 tháng 12 năm 1964, lúc Mỹ chưa chính thức đưa quân tác chiến vào Nam Việt-Nam (thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà nẵng tháng 3 năm 1965). Ý nghĩa thứ hai, đây là lực lượng chiến đấu gồm quân nhân không tình nguyện đầu tiên được gửi ra ngoại quốc trong suốt lịch sử Úc, và cũng là lực lượng đầu tiên gửi ra ngoại quốc tiếp sau lệnh động viên có tuyển lựa (selective compulsory conscription) ban hành năm 1964, nhằm nâng quân số lên 37.000 người. Quân số này là quân số tối đa. Trên thực tế, trước khi lệnh này được ban ra, toàn nước Úc chỉ có hai tiểu đoàn để phòng vệ một lục địa bao la. Số lớn khác đã phải phái qua Mã-Lai và Bắc Borneo. Xem như thế, thì số quân một tiểu đoàn chiến đấu kia qủa là một đóng góp có ý nghĩa. Đơn vị nhỏ bé ấy nhanh chóng phát triển thành một Lực Lượng Đặc Nhiệm (tương đương một Lữ Đoàn) gồm từ ba đến bốn tiểu đoàn với các đơn vị yểm trợ của Thiết Giáp, Công Binh, Pháo Binh và Tiếp Vận cũng như các đơn vị không quân, trực thăng và hải quân. Vai trò của các đơn vị này cũng nhanh chóng thay đổi từ canh gác và phòng bị qua trực tiếp hành quân chống lại Công Sản Việt-Nam. Quân số ấy lên đến cao điểm 8,000 người vào năm 1968-1969. Điều có ý nghĩa khác nữa là quyết định của ông Menzies được toàn dân ủng hộ, kể cả những nhân vật tên tuổi thuộc đảng đối lập như Whitlam, Beazley (Bố) và Benson. Và dù ông Menzies rời khỏi chính trường năm 1965, Chính phủ Liên đảng dưới sự lãnh đạo của Harold Holt vẫn đạt được chiến thắng lẫy lừng vào năm 1966 với một đa số lớn hơn trước nhờ một cử tri vẫn tin rằng cần phải có mặt và tiếp tục hiện diện ở Việt-Nam.
2. KonfrontasiÔng Menzies quả đã đọc được ý nghĩ thầm kín của tuyệt đại đa số cử tri Úc. Thực ra, cái cử tri ấy chẳng mấy quan tâm đến điều ông Menzies chính thức nói ra. Họ không hẳn sợ anh khổng lồ Trung Quốc xa xôi, mà sợ cái anh chàng hàng xóm Nam Dương kế cận. Và ông Menzies khi cam kết đem quân vào Việt-Nam chỉ là bỏ ra một mà nhằm lời cả trăm. Đã đành người Úc rất sợ anh khổng lồ Trung Quốc. Cái biển người Quân Đội Nhân Dân Trung Hoa tràn vào Triều Tiên thập niên 1950 là hình ảnh ít người Úc nào có thể quên được. Nhưng điều họ sợ hơn cả chính là chính sách Konfrontasi (Đương Đầu) của Nam Dương năm 1963 và sự hững hờ trông thấy của Mỹ đối với Hiệp Ước Mỹ Úc Tân Tây Lan (ANZUS) ký năm 1951, một hiệp ước Úc đặt rất nhiều kỳ vọng.
Ai cũng biết sau Thế Chiến Hai, Chính phủ Lao động của Thủ tướng Chiefly rất có thiện cảm đối với yêu sách tự trị của Nam Dương, một phần vì những cam kết sâu xa đối với Hiến Chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter) năm 1941, một phần vì muốn loại trừ ảnh hưởng của Hòa Lan ra khỏi bán đảo này. Điều này khiến ngoại trưởng Nam Dương, Tiến sĩ Subandria, gọi Úc là “bà đỡ của Cộng Hòa Nam Dương”. Nhưng thái độ ấy không được cả Anh lẫn Mỹ có thiện cảm, vì hai cường quốc này, lúc ấy, vẫn muốn Nam Dương tiếp tục nằm trong những bàn tay “thân hữu” (thực dân). Do đó, chính phủ kế tiếp của Liên Đảng, lên cầm quyền năm 1949, đã thay đổi chính sách đối với Nam Dương, nhất là khi thấy sự thỏa hiệp lộ rõ giữa Nước này và Đảng Cộng sản Úc qua vụ Nghiệp Đoàn Công Nhân Bến Tầu từ khước không chịu chất hàng cho tầu Hòa Lan đi Nam Dương. Liên Đảng, vốn không thích chủ nghĩa cộng sản, nên đã ngờ vực bất cứ ai bắt tay với nó. Cảm tình thân Hòa-lan vì thế dâng cao. Có người cho hay Menzies đáng lý ra đã có thể chỉnh đốn được cái thiên kiến hẹp hòi ấy nếu không có vấn đề Tân Guinea (New Guinea) với tầm quan trọng chiến lược của nó. Người Úc vốn không quên năm 1942, khi việc chém giết của người Nhật xẩy ra ngay bắc Port Moresby. Ký ức ấy khiến tân tổng trưởng ngoại giao, P.C. Spender tuyên bố Tân Guinea là “chiếc móc hoàn toàn chủ yếu trong dây xích phòng thủ Nước Úc” và thêm rằng Úc có “bổn phận, bằng mọi phương thế có thể có, đảm bảo rằng tại khu vực đảo kế cận Úc, theo bất cứ hướng nào, không gì có thể xẩy ra mà lại đe doạ cách này cách khác tới Úc được”. Một trong những phương thế ấy dĩ nhiên là việc ủng hộ sự tiếp tục hiện diện của người Hòa Lan tại Tây Tân Guinea (nay là Irian Jaya) như một trái độn chống lại chủ nghĩa bành trướng của Nam Dương. Chính phủ Liên đảng vì thế một mặt hợp tác với Hòa Lan, một mặt vận động (lobby) với Liên Hiệp Quốc làm nản yêu sách của Nam Dương đối với hòn đảo này. Úc làm thế một phần vì chắc mẩm cả Anh lẫn Hoà kỳ đều mặc nhiên ủng hộ sự hiện diện tiếp tục của Hòa Lan tại Tây Tân Guinea. Dù sao, Úc từng ký ANZUS với Mỹ với kỳ vọng cột chặt Nước Mỹ trước nhất và đầu hết vào việc phòng thủ Úc (dù Hiệp Ước chỉ dự trù ba bên “tham khảo” trong trường hợp một trong ba bên bị tấn công. Không như NATO coi cuộc tấn công chống một nước hội viên là tấn công mọi nước khác trong Hiệp Ước). Nhưng các biến cố lúc đó cho Úc thấy sự chắc mẩm của họ không có căn bản: cả Anh lẫn Mỹ đều tiếp tục chở vũ khí đến Nam Dương. Đứng trước sự thật ấy, Úc bắt đầu dịu giọng và mời ngoại trưởng Nam Dương, Subandria, qua Canberra. Thái độ dịu giọng ấy làm dư luận dân chúng phản đối khiến chính phủ Menzies, lúc ấy chỉ nắm được đa số một phiếu tại Hạ viện, phải quay trở lại chính sách cứng rắn cũ. Tuy nhiên, đã quá muộn. Lợi dụng thái độ hoà hoãn của Canberra, Nam Dương đẩy mạnh yêu sách của họ đối với Tây Tân Guinea. Tháng Sáu 1958, Nam Dương cho hay họ không tha thiết đến các phương thế luật lệ nữa, nhưng muốn dùng “tranh đua lực lượng” để giải quyết tranh chấp với Hòa Lan. Tình thế đi vào ngõ bí. Đại Hội Đồng LHQ năm 1961 không giải quyết được gì: chán chường vấn đề, chính phủ Hòa Lan trao nó cho LHQ giải quyết. Nhưng LHQ từ chối. Mỹ và phần lớn các quốc gia khác không muốn ủng hộ bất cứ cố gắng nào nhằm ngăn cản Nam Dương chiếm hữu lãnh thổ này, vì Tiến sĩ Sukarno lúc đó rất có ảnh hưởng đối với Thế Giới Thứ Ba. Mặt khác, lúc ấy cũng là lúc Ấn Độ chấm dứt sự hiện diện thực dân của Bồ Đào Nha tại Goa bằng võ lực. Khi thấy LHQ bất lực, thái độ của cả Nam Dương, Hòa Lan và Mỹ đều thay đổi. Một ngày sau khi Ấn xâm lăng Goa, Tổng thống Sukarno ra lệnh tổng động viên. Ông còn gửi cho TT Kennedy một bức thư đe doạ rằng Nam Dương sẽ sử dụng võ lực, nếu cần, để giải quyết tranh chấp. Chính phủ Mỹ tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh, nên đã kêu gọi hai bên ngồi vào bàn thương nghị. TT Kennedy áp lực Hòa Lan bãi bỏ điều kiện tiên quyết đòi cho dân Tây Tân Guinea được quyền tự trị, và nhận làm trung gian thương nghị. Dù không chính thức từ bỏ điều kiện tiên quyết ấy, nhưng đến cuối năm 1961, Hoà Lan miễn cưỡng phải chấp nhận thực tế trước áp lực quân sự của Nam Dương và áp lực ngoại giao của Mỹ. Kết quả: một thoả ước được ký ngày 15 tháng 8 năm 1962 đặt Tây Tân Guinea (Đông Tân Guinea vốn dưới quyền quản trị của Úc) dưới quyền quản trị của LHQ trong một thời gian ngắn, trước khi trao qua tay Nam Dương. Ngày 17 tháng 8 năm 1963, khi Sukarno tuyên dương “Năm Chiến Thắng”, ông ta biết rằng nạn nhân của ông ta bao gồm luôn nước Úc. Ít nhất ông ta cũng biết rằng từ nay trở đi, nếu có tranh chấp giữa hai nước, ông ta chắc chắn khỏi bận tâm đến phản ứng của người bảo bọc Úc là Nước Mỹ.
Úc chẳng làm gì được trong trận tranh chấp trên chỉ vì cái Lục quân nhỏ bé của mình lúc ấy chỉ gồm 4 tiểu đoàn bộ binh cộng với một ít đơn vị yểm trợ. Năm 1955, Menzies gửi một trong các tiểu đoàn kia qua Mã Lai (Malaya) như một phần trong Lực Lượng Trừ Bị Chiến Thuật Khối Thịnh Vượng Chung.
3. Động ViênSau khi chính sách đối với Tây Tân Guinea thành công, Sukarno áp dụng nó cho tân quốc gia Mã Lai Á (Malaysia), vừa được thành lập từ Mã-lai, Sarawak, Bắc Borneo, Tân Gia Ba và Brunei. Khởi đầu chỉ khẩu chiến, tiếp theo là biểu tình và bạo động chống Anh và chống Mã Lai Á. Cuối cùng là xâm nhập quân sự, vượt qua biên giới, gây rối Bắc Borneo. Anh lập tức gửi quân qua và Úc theo chân gửi qua đó một tiểu đoàn để “duy trì ổn định trong vùng”. Còn lại 2 tiểu đoàn bảo vệ đất liền và nhiều lãnh thổ rải rác khác!
Có điều ông Menzies vẫn được lòng dân. Cuộc bầu cử tháng 11 năm 1963 với chủ đề quốc phòng vẫn đem lại cho ông thêm bẩy ghế nữa tại Hạ Viện. Với chiến thắng này, ông chuẩn bị đối đầu với Nam Dương. Việc đối đầu này chỉ bao gồm những cuộc hành quân chống khởi loạn tại Bắc Borneo. Tuy nhiên, chính phủ Menzies rất lo ngại một cuộc tấn công trực tiếp của Nam Dương vào lãnh thổ mình, nhất là Tân Guinea. Thực vậy, tháng 5 năm 1964, nhân khi kêu gọi “21 triệu chí nguyện quân” lên đường đè bẹp Mã Lai Á, Sukarno cảnh cáo Úc đừng nhúng tay vào vì đây là vấn đề của riêng người Á Châu; nếu Úc cứ nhúng tay vào, thì Úc hoàn toàn chịu lấy trách nhiệm. Tại quốc hội, một cuộc tranh luận nổ ra là trong trường hợp Nam Dương tấn công, liệu Mỹ có vì hiệp ước ANZUS mà can thiệp không. Ông Menzies mạnh miệng nói là có. Nhưng phần đông vẫn lo sợ là không (dù tháng 12 năm 1963, Sukarno phải giật mình khi thấy một phần Hạm Đội 7 diệu võ dương oai ngay ngoài khơi Nam Dương và Dean Rusk doạ sẽ nại đến Hiệp Ước ANSUZ, khi quân đội Úc và Tân Tây Lan bị liên lụy). Chính trong bầu khí ấy, dự luật động viên đã được đệ trình quốc hội ngày 10 tháng 11 năm 1964, nâng ngân sách quốc phòng lên thêm 41 triệu bảng và nâng số quân lên 37.000 người.
Người Úc vốn không thích chi tiêu nhiều về quốc phòng. Họ muốn các đồng minh của họ gánh đỡ. Bất đắc dĩ, họ mới phải thắt lưng buộc bụng như lần này. Bất đắc dĩ này, có người cho, là do áp lực của Mỹ trước nhu cầu chiến tranh Việt-Nam. Úc thường bị Mỹ chỉ trích là chuyên dùng những phương cách rẻ tiền để mời gọi sự can dự của Mỹ. Chính vì vậy năm 1962, Dean Rusk nhắc khéo Barwick (ngoại trưởng Úc) về sự hiện diện của 8,000 quân nhân Mỹ ở Việt-Nam, trong khi số quân nhân của Úc là không. Cho nên, khi nghe tin Úc ra lệnh động viên, Rusk rất hài lòng và hứa sẽ phúc trình cho Johnson tin gia tăng ngân sách quốc phòng của Úc. Đàng khác, ngày 24 tháng 11 năm 1964, Hasluck và Howson đã đích thân trao sắc lệnh động viên của quốc hội cho Hoa Thịnh Đốn. Chính Hasluck minh xác với các ký giả rằng tình hình ở Lào và Việt-Nam nguy kịch hơn cả Konfrontasi. Và để chứng minh điều ấy, Menzies phái một tiểu đoàn chiến đấu qua Việt-Nam, quá cả lòng mong đợi của Mỹ, với lời giải thích hoàn toàn phù hợp với đường lối của Hoa Thịnh Đốn lúc bấy giờ.
Các nhà bình luận Úc ngày nay như Peter Edwards, Frank Frost, Gregory Pemberton…phần lớn không tin ông Menzies nói thật lòng mình. Chiến lược của ông thật sự nhằm vào việc cột chặt nước Mỹ vào hiệp ước ANZUS, để phòng khi Sukarno làm ẩu, Mỹ sẵn sàng nhẩy vào chống đỡ, chứ không tơ lơ mơ như trước đây. Và ông vẫn chỉ áp dụng phương cách rẻ tiền để đạt mục đích: một tiểu đoàn, sau này thành lữ đoàn, quá rẻ so với Hạm đội 7 và hoả tiễn liên lục địa của Mỹ. Edwadrs cho hay: vấn đề trước mắt của việc động viên và gia tăng ngân sách quốc phòng là nguy cơ Nam Dương xâm lăng Tân Guinea, chứ không phải Việt-Nam. Tuy nhiên, muốn giải thoát khỏi cái ám ảnh Nam Dương ấy, 37,000 quân và 41 triệu bảng gia tăng ngân sách cũng đâu thấm thía gì so với lực lượng hùng hậu của “địch thủ”, đến lúc ấy ít nhất cũng gồm 60,000 quân với đầy đủ tiềm thủy đỉnh hạng “W”, tuần dương hạm hạng nặng, oanh tạc và chiến đấu cơ tối tân. Điều họ không thực hiện được bằng súng đạn quân số, họ bắt buộc phải trông mong thực hiện được bằng liên minh quân sự (ANZUS). Pemberton vì thế cho rằng: Đe doạ từ Trung Hoa chỉ là một cường điệu (hyperbole). Nam Dương, chứ không phải Trung Hoa, mới là mối lo thực sự và lâu dài. Mục tiêu tức khắc đàng sau cam kết kia (đem quân vào VN) là để thắt chặt thế liên minh với Mỹ quá bên kia những ràng buộc lỏng lẻo của ANZUS. Hy vọng duy nhất có thể khiến Mỹ can dự vào vấn đề Nam Dương là ủng hộ Mỹ tại Việt-nam, như nhận định của bộ trưởng Alan Renouf, một người rất có ảnh hưởng đối với Mỹ: chính sách của Mỹ đối với (vấn đề) Nam Dương không có chi rõ rệt và cứng rắn như người Úc mong muốn; nên cần đạt được một mức độ gần gũi thường xuyên trong các liên hệ với Hiệp Chúng Quốc… để đến lúc ta cần… Hiệp Chúng Quốc sẽ không còn do dự đáp trả như lòng mong đợi của ta. Thái độ Mỹ chung quanh vấn đề Tây Tân Guinea và Bắc Borneo cho Úc thấy rõ họ không có cùng mối lo sâu xa đối với Nam Dương. Mặt khác, cả Anh lẫn Mỹ lúc đó đều không có lợi lộc gì trong việc kình chống Nam-Dương, một nước đang có ảnh hưởng mạnh đối với Thế giới Thứ ba và đang đe doạ quốc hữu hóa các đầu tư ngoại quốc lên đến hơn 5 trăm triệu đô-la. Dù Mỹ cho hay họ hoàn toàn cam kết đối với Úc, nhưng Menzies rất lo ngại khi không thấy dấu hiệu cũng như tuyên bố công khai nào về sự cam kết ấy. Cho nên, như câu ngạn ngữ Ả-rập: “Nếu núi không đến với Mohammed, thì Mohammed phải đến với núi thôi”, Úc đành phải kiếm cách cột Mỹ vào vấn đề bảo vệ Úc. Cơ may thật đúng lúc khi Mỹ đề nghị Úc cung cấp thêm cho Việt-Nam các huấn luyện viên và một ít viện trợ hải và không quân. Như ta đã thấy, Úc nắm ngay cơ hội và làm hơn thế nữa bằng cách đề nghị đưa quân chiến đấu vào, khiến William Bundy, Phụ tá Bộ Ngoại Giao Mỹ, phụ trách Đông Nam Á, mừng hết chỗ nói vì ông ta chỉ mong Úc cung cấp huấn luyện viên mà thôi.
Như trên đã nói, một tiểu đoàn với các đơn vị yểm trợ thật nhỏ so với cam kết của Mỹ, một siêu cường quân sự và ngoại giao. Ông Menzies đã làm theo khuyến cáo của bộ Ngoại giao Úc: cam kết của Úc đối vớiViệt-Nam trong tương lai sẽ là một giá nhỏ để mua cam kết lớn hơn của Mỹ đối với ANZUS. Một nhà bình luận khác kết luận: Cộng Hòa Việt Nam không bao giờ là mối quan tâm thực sự, tư lợi (self-interest) xét cho cùng mới là điều chủ yếu.
II. Đảng Lao Động và Chiến Tranh Việt-Nam4. Đất lở 1966Chính sách của Menzies được khá nhiều nhân vật thuộc đảng Lao-Động ủng hộ. Lúc ấy, Lao Động chia thành ba nhóm: nhóm về phe với chính phủ, như trên đã nói, gồm Whitlam, Beazley và Benson, trong khi Calwell, Cairns và Fraser đứng giữa, còn Uren, Cameron và Johnson thì cực lực chống đối. Năm 1980, Clyde Cameron có viết cuốn China, Communism And Coca-Cola mục đích thuật lại ba chuyến viếng thăm Trung Quốc năm 1977, 1978 và 1979 của phái đoàn quốc hội Úc do ông cầm đầu. Nhân khi đề cập đến cuộc tranh chấp võ trang giữa Trung Quốc và Việt-Nam, Cameron có giành một chương nói về Đảng Lao Động và vấn đề Việt-Nam, trong đó, ông xác nhận Whitlam, lúc đó là phó của Calwell, lãnh tụ đối lập, đứng về phía chính sách Liên Đảng. Cameron thêm rằng, đến năm 1966, Calwell ra mặt chống đối điều ông gọi là “cuộc chiến tranh dơ bẩn và không thể thắng được này” và ông biến việc triệt thoái tức khắc và vô điều kiện các lực lượng Úc thành một vấn đề tranh cử. Whitlam không đồng ý với lãnh tụ của mình. Mười một ngày sau khi Calwell đọc diễn văn chính sách, ông viết một bài trên tờ Sydney Daily Mirror cho rằng chính phủ Lao-Động sẽ “gửi quân chính qui” qua Việt-Nam, sau khi tham khảo hai chính phủ Mỹ và Nam Việt-Nam. Một tuần lễ sau khi bài báo kia xuất hiện, Whitlam nhắc lại chủ trương của ông tiếp tục để lực lượng Úc tại Việt-Nam. Lúc ấy cuộc tranh cử đang bước vào tuần lễ cuối cùng, cả Đảng Lao-Động lên cơn sốt. Truyền thông và Đảng Tự Do chĩa mũi dùi vào vụ chia rẽ công khai giữa Lãnh tụ và Phó Lãnh tụ Lao Động. Chiến dịch tranh cử của Đảng ra tả tơi. Calwell không thể làm gì khác hơn là tái khẳng định chính sách của Đảng. Chưa bao giờ người ta thấy sự rạn nứt to lớn như thế nơi một đảng chính trị. Lao-động dĩ nhiên không mong chiến thắng lần này, nhưng sự chia rẽ kia đã khiến cho sự thất bại của họ trở thành đất lở (landslide). Ngoài vụ thất bại của chính Whitlam năm 1975, chưa bao giờ Lao-Động thua đau như thế kể từ thập niên 1930.
5. Một trăm tám mươi độViệc Whitlam được bầu làm lãnh tụ sau cuộc bầu cử 1966 không làm thái độ ông thay đổi chút nào đối với vấn đề duy trì các đơn vị chính qui Úc tại Việt-Nam. Tuy nhiên, tháng Giêng 1968, ông qua Việt-Nam lần nữa để gặp Ellsworth Bunker, Đại sứ Mỹ và tướng Westmoreland. Theo Graham Freudenberg, phía Mỹ hết sức nhồi nhét tuyên truyền Whitlam. Westmoreland cho ông hay: không một nơi nào trên lãnh thổ Việt-Nam Cộng Hòa mà Việt Cộng lại có thể sống sót quá 24 tiếng đồng hồ. Từ Việt-Nam, Whitlam ra lệnh cho Lance Barnard chuẩn bị một cuộc họp ‘Nội Các Bóng Tối’ bất thường tại Sydney một ngày sau khi ông về tới nơi. Cameron cho hay ai cũng hồi hộp chờ tuyên bố giật gân của Whitlam. Nhưng không, ông cho hay muốn được nghe các thành viên trong ban lãnh đạo thảo luận về chiến thuật cho kỳ họp Mùa Thu của Quốc hội. Mọi người chưng hửng. Có người đồ đoán rằng biến cố Tết Mậu Thân, xẩy ra trong thời gian Whitlam lưu tại Việt-Nam, đã làm ông mất tin tưởng vào khả năng của Mỹ và do đó khiến quan điểm của ông quay một vòng 180 độ. Ông định nói nhưng quá mắc cỡ nói ra không được! Phải chờ đến 1972, lúc phần lớn công luận phản đối sự can dự của Úc vào chiến tranh Việt-Nam, quan điểm chống chiến tranh Việt-Nam của Whitlam mới công khai được trình bầy và đạt thắng lợi qua cuộc tổng tuyển cử năm đó.
Có điều sự trở mặt của Whitlam thật là triệt để. Nó không những chỉ đụng đến lực lượng Úc, mà đụng đến cả bản chất và danh dự của Việt-Nam Cộng-Hòa. Tháng 3 năm 1975, Tổng thư ký Bộ Ngoại giao là Alan Renouf phúc trình rằng: “tiếp tục kêu gọi tôn trọng Hiệp Định Paris chỉ ‘phục vụ mục tiêu của Sài-gòn mà thôi (tức là duy trì việc phân đôi Việt-Nam, vốn không phải là mục tiêu của Hà-Nội, và nhất định không thể là mục tiêu của Úc), và không nhìn nhận rằng áp lực quân sự là cách duy nhất thay đổi được hiện trạng”. Vì tin C.I.A. cho hay Sài-gòn có thể thất thủ trong vòng một tháng, nên ngày 2 tháng 4, Gough Whitlam cho phép Bộ Ngoại giao ra chỉ thị cho các đại sứ Úc tại Sài gòn và Hà-nội gửi thư cho hai chính phủ Nam Bắc. Thư cho miền Nam chỉ gồm 196 chữ, chủ yếu nói rằng trừ khi lời kêu gọi thống nhất của Hiệp Định Paris được thi hành, việc sớm chấm dứt chiến tranh sẽ không có được. Thư gửi miền Bắc có khác: dài 499 chữ. Thư này kêu gọi tái thống nhất và thêm rằng: “chúng tôi lượng giá thấy Thiệu không cho thấy dấu hiệu gì là sẵn sàng làm điều đó, và chính phủ Úc hiểu cảm thức thất vọng khi phải dùng lại áp lực quân sự đối với Thiệu, mặc dù chúng tôi không thể làm ngơ biện pháp ấy. Trong vấn đề này, chính phủ Úc tin rằng hiệu quả sẽ rất thuận lợi nếu Chính Phủ Lâm Thời (PRG) cho người ta thấy rõ những cuộc hành quân quân sự gần đây có mục đích gây áp lực cho việc tuân giữ các điều khoản chính trị từng bị làm ngơ của Hiệp định Paris và những cuộc hành quân ấy sẽ chấm dứt khi Sài-gòn đưa ra các bảo đảm thoả đáng thi hành các điều khoản chính trị kia”.
6. Phù ThịnhPhù thịnh là lẽ thường tình. Tuy nhiên, ngày 10 tháng 4, khi Malcolm Fraser, trong buổi chất vấn chính phủ tại Quốc hội, tố cáo Whitlam thiên vị Hà-Nội, Whitlam lại chối mà cho rằng ông ta không gửi hai bức thư đó mà là Bộ Ngoại giao, vả lại hai bức thư đó hoàn toàn có nội dung như nhau. Khi Fraser đòi coi hai bức thư, thì Whitlam từ chối. Trong khi ấy, Hà-Nội tăng cường cuộc Nam tiến của họ. Ngày 20 tháng 4, Đại sứ Úc tại Sài-gòn gửi một điện báo mật cho Whitlam cho hay Sài-Gòn sắp sửa thất thủ và “một trận đánh đẫm máu và vô vọng” sắp sửa xẩy ra. Tuy nhiên Đại sứ G.J. Price tiên đoán “một kết liễu nhanh chóng và tức tưởi cho sự hiện hữu của Sài-gòn trong tư cách thủ đô của Việt-Nam Cộng Hòa”. Ông khuyến cáo triệt thoái toàn bộ Tòa Đại sứ vào cuối tuần. Điện báo tiếp: “Như tôi đã nói sẽ có thể có hai nguy hiểm chính đối với các người Úc nếu họ tiếp tục lưu lại Sài-gòn. Nguy hiểm thứ nhất là bị thương trong các cuộc oanh tạc và đánh nhau nếu xẩy ra cận chiến trong thành phố. Nguy hiểm thứ hai là trong khoảng giữa lúc quân đội Việt-Nam Cộng Hoà ngưng kháng cự và lúc quân đội Bắc việt tiến vào. Một vài ngày hỗn loạn có thể kéo dài trong đó mọi người Tây phương (caucasians) có thể lâm nguy, không do đoàn quân xâm nhập mà do đoàn quân thất trận. Phần lớn vì lý do này, mà người Mỹ đã hoạch định một cuộc thao diễn quân sự để che chở cho việc triệt thoái sau cùng toà đại sứ của họ. Cho nên tôi nghĩ rằng dù khó nói tôi cũng phải cẩn trọng mà yêu cầu cho toà đại sứ Úc được triệt thoái qua Bangkok hay Singapore chờ đợi các diễn biến. Tôi sẽ khai triển thêm điểm này”. Trong điện báo, ông đại sứ yêu cầu phái trực thăng Hercules của Không quân Úc qua Sài-Gòn chở nhân viên tòa Đại sứ, các cư dân Úc, các nhà báo Úc và những người khác. Ông muốn toàn bộ nhân viên toà Đại sứ bao gồm cá nhân ông được di tản hạn chót là 24 tháng 4. Ông lo ngại cho số phận các nhân viên địa phương cùng với các thân nhân hay các người vợ lấy viên chức Úc và yêu cầu được quyền cho “bất cứ ai có thông hành Úc” được bao gồm trong kế hoạch di tản.
Điện báo mật trên cùng với bản sao hai bức thư gửi Hà-Nội và Sài-Gòn ngày 2 tháng 4 lọt vào tay báo Sydney Morning Herald. Hai bức thư gửi Hà-nội và Sài-gòn khiến Tờ bào kêu gọi Fraser tìm mọi cách hạ bệ chính phủ Whitlam. Bài xã luận ngày 30-04-1975 của báo này được Graham Freudenberg trích lại trong A Certain Grandeur. Ông cho hay đây là một trong những bài xã luận dài nhất của tờ báo kỳ cựu nhất nước Úc. Tuy nhiên, Ông chỉ trích một phần như sau: “Thủ tướng đã nói láo với Quốc hội. Ông đã lừa dối nhân dân Úc. Ông đã lạm dụng lòng tin cậy của họ đối với ông… Tính cách hai mặt của ông đã bị phanh phui một cách đáng bị kết án do việc công bố (không có phép) các chỉ thị mật do Ông Whitlam gửi cho các Đại sứ của chúng ta tại Hà-nội và Sài-Gòn. Việc công bố này đem ra công khai xì-căng-đan chính trị trầm trọng nhất từ ngày có Liên Bang. Điều có liên hệ đi sâu hơn những câu hỏi về sự chính xác và đúng đắn trong chính sách ngoại giao của Ông Whitlam… Vấn đề quan hệ ở đây là tính đáng tin cậy của Thủ tướng và chính phủ của ông. Bản văn của các bức thư cho thấy Ông Whitlam không đáng được tin cậy. Chúng tôi tin rằng giờ đây Ông Fraser có nghĩa vụ rút lại cam kết của ông không buộc Chính phủ phải tổ chức tổng tuyển cử… Cần phải dùng mọi phương thế hợp pháp buộc Chính phủ phải trả lời trước toà án nhân dân… Dọc dài suốt thời kỳ tồi tệ này, Thủ tướng đã nói một đàng làm một nẻo. Ông đã dối trá để ngăn không cho Quốc hội và nhân dân biết điều ông làm và hướng ông dẫn chính sách ngoại giao của Úc đi đâu. Hành động của ông là hành động che đậy (dissimulation) và lừa dối (dupplicity). Cả ông lẫn chính phủ ông đều không còn đáng tin cậy nữa. Một chính phủ không còn tin cậy được, lạm dụng quyền lực và thẩm quyền giữ bí mật của mình là một chính phủ tự làm mất quyền cai trị của mình. Cần phải hạ bệ nó”.
Bài xã luận tiếp tục tấn công Whitlam đã chỉ cho Hà-nội cách “làm thế nào đánh lừa dư luận thế giới” và lần lữa không chịu đưa ra các chỉ dẫn liên quan đến việc người Việt-Nam muốn xin tị nạn tại Úc. Những điểm trên cho thấy rất rõ thái độ mà người Việt thường gọi là ăn cháo đá bát của Whitlam, nếu không nói là của cả chính phủ Lao-Động lúc ấy. Thực vậy, bình luận về chính sách của Whitlam, Cameron, lúc ấy là Bộ trưởng Lao-động và Di trú, cho hay ông ta hoàn toàn nhất trí. Vì “Đến ngày 2 tháng 4 năm 1975, Chính phủ biết rõ cuộc chiến gần như đã kết thúc. Theo quan điểm riêng của tôi, bên chính nghĩa đã thắng! (the right side had won!). Quả là thích đáng khi Whitlam thực tiễn đủ để chấp nhận thực tế này là Hà-nội không còn cách nào khác hơn là duy trì áp lực quân sự đối với Sài-gòn nếu muốn chấm dứt sớm cuộc chiến tranh. Whitlam đúng khi hàm ý rằng Chính phủ Úc tin trở ngại chính cho hòa bình là sự ngoan cố của Sài-Gòn… Thật là hợp lý khi ông sớm cho thấy cảm tình ông dành cho Hà-nội” (tác phẩm đã dẫn, tr.228). Cameron cũng nhất trí đối với chính sách di trú áp dụng cho người Việt lúc ấy. Úc là một quốc gia độc lập, họ có quyền áp dụng chính sách di trú thế nào thì đó là thẩm quyền của họ. Ông ta cũng có quyền không tin chuyện “tắm máu”. Nhưng chủ trương rằng “mọi người Việt-nam đều đựơc đối xử cùng y một cách như các ứng viên di trú Âu châu” (tr.229) là đã quên đi cái quá khứ mười mấy năm trời ơn phúc do đoàn quân ít ỏi của Úc tại Việt-Nam đem lại cho thế an toàn chiến lược của Úc, một thế chiến lược ông Menzies đã dầy công xây dựng và các chính phủ kế tiếp tận cho đến ngày nay vô cùng trân quí gìn giữ.
7. Những tên di dân khốn kiếpNói một đàng làm một nẻo. Không biết chính sách di trú đối với ứng viên Âu Châu như thế nào, nhưng Whitlam đã hủy bỏ kế hoạch của Lance Barnard trong việc không vận trẻ mồ côi từ Việt-Nam qua Úc, đồng thời ra lệnh (vượt cả thẩm quyền Bộ Di Trú) không được cứu xét mọi đơn xin cho người Việt-Nam (Đã dẫn, tr.229). Câu nói của Whitlam trả lời Don Willesee ngày 21 tháng 4, khi ông này đến để vận động cho một số người Việt được tới Úc, đủ nói lên tất cả:
“I’m not having hundreds of fucking Vietnamese Balts coming into this country with their religious and political hatreds against us” (tôi sẽ không nhận hàng trăm tên di dân khốn kiếp Việt-nam vào xứ này với lòng thù hận tôn giáo và chính trị của chúng chống lại chúng ta) (Đã dẫn, tr.230). Cameron cũng nhất trí như thế và nói thêm với Willesee: “Tôi thấy không có lý do gì khiến ta lại phải liều mở cửa cho các tên tội phạm chiến tranh” (Đã dẫn, cùng trang). Không biết Whitlam và Cameron muốn ám chỉ ai, nhưng Willesee đã cho họ hay ông ta không muốn xin cho “những khuôn mặt quân sự và chính trị lớn trong chính phủ Thiệu” vì những người này dư sức tự lo liệu lấy được và phần lớn nhất định sẽ qua Mỹ. Ông ta chỉ muốn xin cho những người phối ngẫu Việt-Nam của những người Úc không phải là viên chức. Whitlam miễn cưỡng đồng ý. Được đà, Willesee xin cho những ai liều mình bị “tiền trảm hậu tấu, bị hành hung, bị đối xử tàn bạo, vô nhân, và mất nhân phẩm” được tị nạn chính trị. Ông nhắc Whitlam nhớ lại những giúp đỡ Úc từng dành cho các nạn nhân của cuộc đảo chánh quân sự ở Santiago, gương lãnh tụ Imre Nagy của Hung gia lợi bị Hồng quân Nga ‘tiền trảm hậu tấu’ ra sao năm 1956 dù được chính Liên Sô hứa an toàn. Ông đặc biệt xin cho các công nhân viên người Việt làm việc cho Tòa Đại sứ Úc, vì theo ông, Úc có nghĩa vụ tinh thần giơ tay đón tiếp họ. Nhưng Whitlam từ khước thẳng thừng (Đã dẫn, tr.231). Ông cũng từ khước không cho các sinh viên từng du học tại Úc nhưng sau khi tốt nghiệp đã trở lại Việt-Nam nay muốn nhập cảnh. Cameron tóm tắt những người sau đây được và không được Whitlam chấp thuận. Được: người phối ngẫu Việt-Nam và con cái của người Úc không phải viên chức; người phối ngẫu, con cái, vị hôn thê/phu của các sinh viên Việt-nam đang học tại Úc (cha mẹ không được); công dân Việt-Nam có liên hệ mật thiết với sự hiện diện của Úc tại Việt-Nam và đời sống bị đe dọa có thể đệ trình về Úc cứu xét tùy trường hợp. Không được: các nhân viên địa phương làm việc cho Tòa Đại sứ Úc và gia đình và những sinh viên Việt-Nam tốt nghiệp ở Úc nhưng đã trở về Việt-Nam. Con số ấy (theo Cameron ước tính vào khoảng 1,000) quả là hạn chế. Chỉ sau khi gặp Tổng thống Ford hồi tháng 5, sau hội nghị Jamaica, Whitlam mới nâng con số trên lên 3,000 người.
Rất may, chính phủ Whitlam đã bị Tổng Toàn Quyền Jonh Kerr bãi nhiệm vào tháng 11 năm 1975. Chính phủ Fraser của Liên Đảng Tự Do và Quốc Gia lên cầm quyền, đã kịp thời ra tay cứu vớt làn sóng người đang ồ ạt rời Việt-Nam lên đường tìm tự do, nâng con số người Việt nhập cư Úc lên gấp bội so với con số nhỏ giọt của chính phủ Whitlam. Cái nhìn của Đảng Tự Do có tầm xa rộng và nhất quán hơn. Ít nhất, họ cũng không quên cái nợ chiến lược đối với một đồng minh bất đắc dĩ. Dù sao, ông Malcolm Fraser, thời chiến tranh Việt Nam, vốn là bộ trưởng Lục Quân, nên khi vừa nhậm chức, đã đưa ra đề nghị tiếp nhận mỗi năm 15,000 người tị nạn Việt Nam. Dù con số ấy, trên thực tế có trồi sụt, nhưng trung bình vẫn ở mức 8,000 người một năm. Nhờ thế đến năm 1981, số người tị nạn Việt Nam vào Úc đã lên đến 41,096 người. Mười năm sau, con số lên tới 121,813. Thống kê năm 2001 cho thấy tại Úc, có 154,831 người sinh tại Việt-Nam, nhưng số người nói tiếng Việt lại là 174,236, có thể vì bao gồm các trẻ em Việt-Nam sinh tại Úc. Con số thực tế có thể cao hơn, và người ta thường ước lượng con số người Việt hiện nay tại Úc vào khoảng trên dưới 200,000. Đủ đông để “phát triển ra nền chính trị riêng trong bản sắc văn hóa của mình” như nhận định của Andrew Jakubowics, giáo sư Đại Học Kỹ Thuật Sydney.
Sự trở mặt của Gough Whitlam ngay vào thời điểm 30 tháng Tư 1975 quả là một bất hạnh. Mặc dù các chính phủ Lao-Động sau này đã thay đổi nhiều trong quan điểm đối ngoại của họ, nhưng những tranh luận gần đây về sự hợp tác của Úc trong vấn đề I-rắc cho thấy sự thay đổi ấy chưa thỏa đáng lắm, ít nhất xét về chính sách an toàn chiến lược, một chiến lược mà Frank Frost đã tóm tắt trong ba thuật ngữ: quan tâm cao độ về an ninh, chi tiêu thấp về quốc phòng và lệ thuộc các liên hệ liên minh.
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:17)
NGƯỜI VIỆT NAM CÔNG GIÁO (17)
CHƯƠNG XI: GIÁO XỨ và CỘNG ĐOÀN
Điều 374 Giáo Luật ngày 25.01.1983 quy định:
(1) Tất cả các Giáo phận hoặc Giáo Hội địa phương nào khác đều phải được phân chia ra thành nhiều phần riêng biệt hoặc Giáo Xứ.
(2) Để cổ võ việc săn sóc mục vụ bằng hoạt động chung, nhiều Giáo Xứ lân cận gần nhau có thể hợp lại thành những hợp đoàn địa phương, tỉ như các Giáo Hạt.
I. GIÁO XỨ
Điều 515 Giáo Luật định nghĩa:
(1) Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của Giám mục Giáo phận.
(2) Chỉ duy có Giám mục Giáo phận có quyền thành lập, giải tán hoặc thay đổi các Giáo xứ; tuy nhiên Người không nên thành lập, giải tán hoặc thay đổi một cách đáng kể các Giáo xứ mà không tham khảo ý kiến Hội Đồng Linh Mục.
(3) Một khi đã được thành lập hợp lệ, Giáo xứ đương nhiên được hưởng tính cách pháp nhân theo luật.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong một văn kiện đã nhấn mạnh Ơn Gọi của Giáo xứ là biểu hiện sự gần gũi của Giáo Hội: « Giáo xứ như Giáo Hội, tự mình sống giữa con cái nam nữ của mình. »
« Nếu Giáo xứ xen vào giữa những căn nhà của tha nhân, giáo xứ sống và tác động trong lòng xã hội loài người và liên đới thâm sâu với các ước vọng và thảm kịch của nó… Giáo xứ phải là căn nhà mở rộng đón tiếp mọi người, hay như Đức Gioan XXIII thường nói là ‘giếng nước của thôn xóm’ để mọi người đến giải khát. » (Ơn gọi và Sứ mệnh của người giáo dân, số 26 và 27).
Điều 518 Giáo Luật quy định: « Theo luật chung, Giáo xứ phải có tính cách tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các tín hữu thuộc một địa sở nhất định; tuy nhiên ở đâu thấy thuận lợi, cũng có thể thiết lập các Giáo xứ tòng nhân xét vì lý do lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các tín hữu thuộc về một lãnh thổ hay kể cả vì một lý do nào khác. »
Do đó, trên Quê Hương Việt-Nam, chúng ta chỉ thấy những Giáo xứ tòng thổ và được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương.
Một Giáo xứ tòng nhân.
Giáo Xứ Việt-Nam Paris có thể được xem như là Giáo xứ tòng nhân người Việt đầu tiên trên thế giới.
Ngày 01.10.1947, Giáo Xứ đã được Giáo quyền Tổng Giáo phận Paris chính thức công nhận dưới danh hiệu Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp.
Giáo Xứ đã được manh nha từ 1946, do sáng kiến và góp sức của các Giáo sĩ du học và anh chị em Giáo dân sinh sống tại Pháp vào thập niên 40, sau đệ nhị thế chiến, trong bầu không khí tranh đấu độc lập cho Quê Hương. Đại Hội Toulouse 1946 là một Đại Hội lịch sử của người Công Giáo Việt-Nam tại Pháp dưới nhiều khía cạnh. Nhờ ơn Chúa Thánh Thấn, thành quả của Đại Hội Toulouse là ‘Bản Điều Lệ và sinh hoạt Liên Đoàn’ đã được Giáo Quyền Pháp công nhận năm 1947.
Trong thư ngày 19.02.1952, gởi cho Đức Khâm Sứ Toà Thánh Đông Dương tại Hà nội, Đức Ông Rupp, Cha Chính Tổng Giáo Phận Paris đã mong muốn có một Linh mục Việt-Nam được các Giám Mục Việt-Nam bổ nhiệm để chuyên lo việc thiêng liêng cho người Việt tại Paris.
Với Thư đề ngày 25.10.1952, Đức Khâm sứ Toà Thánh John Dooley tại Đông Dương trả lời cho Đức Ông Rupp hay rằng Đức Khâm sứ đã gặp các Giám Mục Việt-Nam và xin giới thiệu với Đức Tổng Giám Mục Giáo phận Paris và xin Đức Tổng Giám Mục bổ nhiệm cha Pacifique Nguyễn Bình An.
Ngày 24.11.1952, Đức Ông Rupp, Cha Chính Tổng Giáo Phận Paris và Cha thư ký của Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều Vụ đã trả lời cho Đức Khâm Sứ: “Trong buổi hội tháng 10 vừa qua, các Đức Hồng Y và Tổng Giám Mục đã đồng ý ký thác cho cha Pacifique An Sở Tuyên Úy người Công Giáo Việt Nam trên toàn lãnh thổ Pháp. Để chứng tỏ rằng Cha An không chỉ là tuyên úy của Liên Đoàn mà thôi, nhưng còn là Giám Đốc Tổ Chức Truyền Giáo”.
Mặc dầu tự sắc ‘Pastoralis Migratorum Cura’ đã được ban hành từ 1969, nhưng mãi đến biến cố 1975 ở Việt Nam và với làn sóng người Việt tỵ nạn qua Pháp, Giáo Hội Pháp mới nghĩ đến việc áp dụng tinh thần tự sắc vào việc tổ chức lại cơ cấu và sinh hoạt mục vụ cho cộng đồng người Việt tại Pháp. Việc áp dụng này chỉ thành hình cụ thể vào năm 1977 và từ 1986, trong các thư bổ nhiệm Cha Mai Đức Vinh mới rõ rệt dùng chữ ‘Curé de la paroisse Vietnamienne’.
Hiện nay, trên thế giới, nhiều Giáo xứ tòng nhân người Việt cũng đã được Giáo Quyền địa phương công nhận vì được thiết lập cách bền vững trong Giáo phận.
II. CỘNG ĐOÀN
Biến cố đau thương lịch sử 30.04.1975 của Dân Tộc đã khiến hàng triệu người Việt-Nam đã phải liều chết, lìa bỏ Quê Hương thân yêu ra đi, dĩ nhiên trong đó, có người Việt Công giáo. Ngay khi đặt chân đến quốc gia tạm cư, giáo sĩ và giáo dân Việt-Nam đã dâng Thánh Lễ đầu tiên để cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria cùng cầu nguyện cho Quê Hương và gia đình. Hình thức các Cộng Đoàn Công giáo Việt-Nam đã thành hình.
Hai văn kiện căn bản của Tòa Thánh về mục vụ cho người di cư – tỵ nạn là tự sắc « Pastoralis Migratorum Cura » do Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành ngày 30.09.1969 truyền áp dụng tích cực giáo huấn mục vụ của Công Đồng Vatican II đối với dân tỵ nạn, và nhất là những quy định trong Tông huấn « Exsul Familia » do Đức Thánh Cha Piô XII ban hành ngày 30.09.1952.
Chính với tinh thần của hai văn kiện này mà người tỵ nạn Việt-Nam được đón tiếp khắp nơi bởi các Giáo Hội địa phương, và nhờ thế, các Cộng đoàn Công giáo Việt-Nam Hải ngoại được thành hình và phát triển.
Theo ngôn ngữ chuyên môn hay thông thường, Cộng đoàn từ lâu đã mang một ý nghĩa nhất định. Đối với các nhà triết học, xã hội học và luật học, Cộng đoàn gợi lên ý niệm một tập thể. Trên tiêu chuẩn ‘cùng một nòi giống và tiếng nói, cùng một phong tục nhất là những người di cư, lưu vong, tỵ nạn’ thì Giáo luật khuyên các Giám mục địa phương ‘hãy dự liệu mọi nhu cầu thiêng liêng, nên đặt các Tuyên úy để giúp đỡ họ’ (GL 518, 568*). Cho nên, Cộng đoàn Công giáo Việt-Nam là một tập thể người Việt-Nam, đã nhận lãnh bí tích Thánh tẩy và trở nên con Chúa. Vì lý do tiếng nói và phong tục, Kitô hữu Việt được giáo quyền địa phương chấp thuận cho ‘tụ hợp lại với nhau, thông công việc bẻ bánh và cầu nguyện’ (Tđcv 2, 42), ‘chung một lòng một ý’ (Tđcv 4, 332), hầu trở thành ‘một thân thể và một tâm hồn’ (Ep. 4,4) trong Giáo Hội hoàn vũ, để họ cùng nhau phụng thờ Thiên Chúa và làm việc truyền giáo, theo cách thức của người giáo dân.
* Điều 568: Đối với những người vì điều kiện sinh sống không thể được hưởng sự săn sóc thông thường của các Cha Sở, chẳng hạn như những người di cư, lưu vong, tỵ nạn, du mục, thủy thủ, thì tùy mức độ có thể, nên đặt các Tuyên Úy để giúp họ.
Do đó, trên lãnh thổ các quốc gia tạm dung tín hữu Công giáo Việt-Nam, chúng ta thấy đa số những Cộng đoàn tòng thổ và được thiết lập cách tạm thời trong các Giáo Hội địa phương.
Tuyên Úy
Điều 564 Giáo Luật định nghĩa: « Tuyên Úy là một Linh mục được ủy thác việc săn sóc mục vụ cách thường xuyên, ít là một phần nào, của một Cộng đoàn hoặc cho một nhóm tín hữu đặc biệt, và phải thi hành theo đúng quy tắc của luật phổ quát và luật địa phương. »
Tưởng cũng cần nói rõ: Tuyên úy, theo Giáo luật, phải là một Linh mục. Nhưng vì nhu cầu, chúng ta thấy có những Phó tế, Sư huynh hay Nữ tu Tuyên úy, được bổ nhiệm bởi Giám mục với sự chấp thuận của Bề Trên Dòng để coi sóc Cộng đoàn nhưng không được cử hành các Bí tích.
III. VĂN PHÒNG PHỐI KẾT TÔNG ĐỒ VIỆT-NAM HẢI NGOẠI
Truớc làn sóng người Việt được Chính phủ Pháp nhận vào Pháp quốc, ngày 28.05.1976, với tư cách là Giám mục phụ trách về kiều dân Á Châu, Đức Cha André Rousset đã viết thơ cho Linh mục Michel Nguyễn Quang Toán báo tin rằng trước tình hình khẩn trương và bi thương của dân tỵ nạn ba nước Việt Miên Lào, Ủy Ban Mục Vụ Ngoại Kiều yêu cầu Hội Thừa Sai Paris giúp đỡ, Cha Etcharren đã được bổ nhiệm làm việc với hai cha Guillard và Couessin, và xin cha Toán liên lạc với cha Guillard để xác định phận vụ của mình.
Nhiều Giám mục địa phương đã bổ nhiệm Tuyên úy Việt-Nam trong các năm 1975 và 1976.
Đại Hội ngày 21.10.1976 qui tụ trên 30 Linh mục Việt-Nam Nam từ nhiều tỉnh khác nhau về họp tại Toà Tổng Giám Mục Paris, dưới quyền chủ tọa của Cha Trương Đình Hoè, do đại hội bầu lên, để bàn về các vấn đề và hành động mục vụ khẩn cấp cho đồng bào Việt-Nam.
Tại các quốc gia tạm dung người Việt-Nam, Hội đồng Giám Mục cũng đã có phương pháp tiếp nhận người Việt tỵ nạn, thành lập các Cộng đoàn và bổ nhiệm Tuyên úy coi sóc mục vụ.
Riêng tại Pháp quốc, ngày 09.06.1977, Đức Cha Sabin St Gaudens, Chủ tịch Ủy ban Giám mục Ngoại kiều vụ ký văn thư đề cử cha Samuel Trương đình Hoè làm Đại diện các Tuyên úy Việt Nam, để lo cho người Công giáo tỵ nạn. Cuối tháng 09/1978, theo lời mời của Cha Hoè, hơn 30 linh mục, tu sĩ nam nữ đang giúp đở đồng bào tỵ nạn, trong 18 Giáo phận trên nước Pháp về Orsay họp bàn Mục vụ và trù liệu kế hoạch để làm việc chung. Từ đó, Tuyên úy đoàn được thành hình.
Hằng năm, vào tháng 9, các Linh mục và Tu sĩ lo việc Mục vụ người Việt có dịp gặp gở để cùng cầu nguyện, chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận một đề tài mục vụ. Tuyên úy đoàn có 3 ban:
1. Ban Điều hành Trung ương gồm một linh mục Đại diện (nhiệm kỳ 3 năm, có thể lưu nhiệm 3 năm nữa), các cố vấn và một thư ký.
2. Ban Đặc trách Giới Trẻ gồm 4 Tuyên úy (do Đại diện mời) và 4 bạn trẻ được chọn trong Đại hội.
3. Ban Đặc trách Giới Trưởng thành gồm 4 Tuyên úy (do Đại diện mời) và Ban Đặc trách đề cử theo 5 vùng điện thoại.
Tòa Thánh như người Mẹ Hiền đau khổ trước đoàn con hoạn nạn và lưu lạc, nên không bao lâu sau ngày 30 tháng Tư đó, Thánh Bộ Truyền Giáo đã gởi thư đến các Hội đồng Giám mục các quốc gia tiếp nhận nạn nhân Việt-Nam tỵ nạn, yêu cầu lưu tâm đặc biệt giúp đỡ về mục vụ, yêu cầu cho các Linh mục được hưởng mọi quyền lợi thiêng liêng và vật chất, cho các chủng sinh được hội nhập, được thụ huấn và chịu chức, cho các nữ tu các dòng thuộc luật Giáo phận được bảo đảm đời sống tu đoàn, v.v..
Nhưng động lực cuối cùng thúc bách Bộ Truyền Giáo phải kết thúc công việc bổ nhiệm như ý muốn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Trong chuyến công du mục vụ tại Thái Lan tháng 05/1984, Đức Thánh Cha đến thăm trại tỵ nạn Phanat Nikhm. Trước hoàn cảnh nheo nhóc đau thương vật chất và tinh thần của người tỵ nạn Việt-Nam. Đức Thánh Cha đã hỏi Đức Khâm sứ tại Thái Lan có ai đặc trách lo mục vụ cho họ không ? Đức Khâm sứ trả lời ‘Không’, thì Đức Thánh Cha nói: « Họ có quyền được chăm sóc mục vụ như những người tỵ nạn thuộc các quốc gia khác », và truyền cho Đức Khâm sứ làm phúc trình cho Người về vấn đề này.
Thánh Bộ Phúc Âm hoá các Dân Tộc, qua Văn thư Bổ nhiệm Đức Ông Philiphê Trần văn Hoài số 2900/87 ngày 30.05.1987, đảm nhận trọng trách Văn Phòng Phối Kết việc cổ võ Tông đồ cho người Việt-Nam hải ngoại. Văn Phòng đặt tại trụ sở tại Rôma.
Theo Giáo Luật, người Công giáo thuộc bất cứ dân tộc nào, định cư trong một Giáo phận thì thuộc pháp quyền lãnh thổ (juridiction territoriale) của Đấng Bản Quyền Giáo phận ấy. Đấng Bản Quyền có bổn phận đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của người ấy, và ngược lại, người ấy có quyền lợi yêu cầu đòi hỏi, nhưng đồng thời cũng có bổn phận phải chu toàn đối với Đấng Bản Quyền như một tín hữu thuộc về Giáo phận. Thí dụ, hiện nay, người Việt-Nam Công giáo sống trong các Giáo phận của Hoa kỳ, Úc đại lợi, Gia nã đại, Pháp, Đức…, chúng ta phải tuân phục các Đấng Bản Quyền nơi chúng ta đang sống, và Đấng Bản Quyền cũng có bổn phận phải giúp đỡ chúng ta.
Do đó, vai trò của Vị phụ trách Văn Phòng Phối Kết việc cổ võ Tông đồ cho người Việt-Nam hải ngoại thuộc pháp quyền nhân sự (juridiction parsonnelle) vì Giáo Hội Việt-Nam là một xứ truyền giáo và trực thuộc Bộ Truyền Giáo.
Vị phụ trách Văn Phòng Phối Kết có nhiệm vụ tìm cách giúp đỡ cho tín hữu người Việt vừa hội nhập vào các Giáo Hội địa phương đồng thời bảo tồn căn tính, văn hoá, truyền thống và dân tộc tính của mình.
Sự thành lập Văn Phòng Phối Kết đã trùng hợp với thời kỳ chuẩn bị tổ chức ngày Phong Thánh 117 Chân Phước Tử Đạo Việt-Nam, nên Đức Ông Philiphê Trần văn Hoài được cử làm Chủ tịch Ủy ban Tổ chức Lễ Tuyên Phong Hiển Thánh năm 1988.
Từ Văn Phòng ở Rôma, ngày 20.01.2007, Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo đã gởi đến Cộng Đồng Dân Chúa Việt-Nam Hải ngoại loan báo: Qua Văn thư số 5530/06 ngày 16.12.2007 gửi Văn phòng Phối Kết, Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng Trưởng Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc đã loan báo quyết định chấm dứt hoạt động của Văn phòng Phối Kết vì « các giáo hữu Việt Nam tại hải ngoại đã ổn định và hội nhập vào đời sống tại các quốc gia cư ngụ và được các Giám mục địa phương tận tình lo lắng cho các nhu cầu mục vụ. »
Văn Phòng Phối Kết, duới sự phụ trách của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo, đã phụ trách chương trình mục vụ nhân dịp Năm Thánh 2000 và tổ chức ‘Hội Ngộ Niềm Tin Công giáo Việt-Nam Hải Ngoại’ tại Roma từ 24 đến 27 tháng 07 năm 2003, với Chủ đề "Hiệp Nhất Để Sống và Loan Báo Tin Mừng". Ba ngàn tín hữu đã tham dự đến từ Quê Hương và từ các quốc gia có người Việt tỵ nạn.
(Còn tiếp)
Hà minh Thảo
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 02:45)
Các Ngoắt Ngoéo của Thụ Thai Nhân Tạo
Với việc thụ thai trong ống nghiệm (IVF) ngày một trở nên phổ thông hơn, con số các trẻ em có nguy cơ tách ly khỏi người cha của chúng vì thế mỗi ngày càng gia tăng lên.
Thượng Pháp Viện Ái Nhĩ Lan mới đây phán quyết không nhìn nhận quyền làm cha của một người hiến tinh trùng để dùng cho việc thụ thai nhân tạo mà kết quả là con trai ông đã được hạ sinh. Vốn là một người đồng tính luyến ái, người cha này hiến tinh trùng của mình cho người mẹ và người phối ngẫu nữ giới của bà ta, nghĩa là cho một cặp đồng tính luyến ái nữ. Ngày 17 tháng Tư vừa qua, tờ Irish Times tường thuật rằng Chánh Án John Hedigan cho rằng cặp đồng tính luyến ái nữ phải được coi là một cặp “vợ chồng sống chung với nhau” (a de facto couple) với đầy đủ quyền lợi theo Công Ước Nhân Quyền Âu Châu.
Thành thử, vị chánh án này đã bác khước quyền giám hộ hay quyền thăm viếng của người cha theo sinh học, là người trước đó đã nạp đơn xin hưởng các đặc quyền ấy. Các tường thuật của báo chí cho hay rất có thể ông ta sẽ kháng án lên Tối Cao Pháp Viện.
Trong một tuyên bố báo chí công bố cùng ngày, Viện Iona, đặt cơ sở tại Dublin, một tổ chức phi chính phủ rất tích cực trong các vấn đề gia đình, cho hay: trẻ em có quyền được biết cha mẹ chúng, và được cha và mẹ chúng nuôi dạy. David Quinn, giám đốc Viện này, nhận định rằng: “Trong trường hợp này, sự kiện người đàn ông, có tên ‘A’, là một người hiến tinh trùng cũng không có cách chi làm giảm sự kiện ông ta là cha đứa nhỏ và do đó, đứa nhỏ có quyền được biết cha nó và có cơ hội nào đó bất cứ để tiếp xúc với cha mình. Quyền này vốn có sẵn trong đứa nhỏ và quả là ngoại thường khi người ta bỏ qua điều đó vào đúng lúc ta đang xem sét việc tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về các quyền lợi của trẻ em”.
Một trong các vấn đề liên quan đến việc không được biết cha mình đã được một bài báo ngày 19 tháng Tư đăng trên tờ Irish Independent nhấn mạnh. Câu truyện ấy kể lại việc Kirk Maxey đã làm cha một số lượng trẻ em không biết là bao nhiêu qua chương trình hiến tinh trùng trong một thời gian dài, mà ông ta ước tính lên đến khoảng từ 200 đến 400. Bây giờ tuy ông ta đã có con riêng rồi, nhưng Maxey vẫn không vui khi biết rằng trong chòm xóm gần nhà ông, rất có thể có đến 100 bé gái gần bằng tuổi con trai ông, cùng cha như con trai ông, nhưng chẳng có ý niệm gì về ông cả.
Mồ Côi
Trong một bài nhận định viết cho số báo ngày 19 tháng Tư của tờ Irish Times, Breda O’Brien ghi chú rằng trong mấy thập niên qua, nhiều trẻ em đã bị tách ly khỏi cha mẹ và đưa vào viện mồ côi khi nhà cầm quyền thấy gia đình các em không đủ khả năng chăm sóc các em. Cô cũng cho hay: mấy năm gần đây, phần lớn các trường hợp thuộc chính sách trên đã bị coi là lầm lẫn. Cô đặt câu hỏi: “Như thế, tại sao ta lại không chịu nhìn ra rằng mình đang tạo ra các bất công mới và quả đang phạm cùng những lầm lỗi trong các hoàn cảnh mới này y hệt như người ta đã phạm trong quá khứ?” O’Brien khuyến cáo “Ta cần phải tiến hành một cách hết sức thận trọng đặc biệt vì trong quá khứ, ta đã hiểu quá tệ các nhu cầu của trẻ em”.
Ái Nhĩ Lan không phải là nước duy nhất tạo ra các vấn đề như thế. Tại Anh, nhật báo Telegraph ngày 20 tháng Ba tường trình rằng mới đây có người đàn bà hạ sinh đứa con của chồng sau khi ông ta qua đời được bốn năm. Lisa Roberts cho hay người đàn bà này chắc chắn chồng bà là James hẳn chấp nhận việc hạ sinh đứa con gái của họ. Tinh trùng của người chồng đã được đông đá sau khi ông ta được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vào năm 2004. Ông qua đời cuối năm đó. Theo tờ Telegraph, một số trẻ em tại Anh đã được hạ sinh sau khi cha các em qua đời đã lâu, tiếp sau một án lệ năm 1997, khi Diane Blood khởi tố để được phép sử dụng tinh trùng của người chồng đã qua đời.
Trong khi ấy, tại tiểu bang Victoria của Úc, các đề nghị đang được thảo luận để nới lỏng các đạo luật về IVF, gồm cả các đạo luật liên quan đến việc hiến tinh trùng. Một bài báo đề ngày 16 tháng Hai đăng trên nhật báo The Australian, Myfanway Walker, một phụ nữ được sinh ra do kết quả của IVF và tinh trùng hiến tặng, đã trình bầy chi tiết các chống đối của cô đối với việc hiến tặng tinh trùng này.
Chỉ đến tuổi 20, cô mới khám phá ra sự thật về cha mẹ cô. Nhờ thế, cô đã liên lạc được với người cha theo sinh học của mình, nhưng cô cho hay dù cuối cùng trẻ em đạt được việc ấy chăng nữa, thì đó cũng không phải là một giải pháp có thể chấp nhận được.
Tìm Kiếm Vô Vọng
Dù hiện nay con số các quốc gia bãi bỏ tính nặc danh của người hiến tặng, nhờ thế, các trẻ em có cơ hội liên lạc được với cha hay mẹ sinh học khi các em đã 18 tuổi, nhưng Walker nhận xét rằng các dữ kiện đưa đến việc tiếp xúc kia thường không được các bệnh viện cập nhật hóa thỏa đáng. Mặt khác, chính các người hiến tặng thường cũng tích cực tìm cách tránh né để khỏi bị tìm ra. Như thế, khi trẻ em tới tuổi biết bắt đầu tìm kiếm cha “ruột” của mình, thì việc tìm kiếm ấy thường là không thành công. Walker nói với tờ The Australian rằng Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền Trẻ Em tuyên bố rằng trẻ em có quyền biết căn tính mình. Một quyền như thế chắc chắn bị vi phạm khi một cha mẹ là người hiến tặng, mà lại có quyền dấu tên trong những năm đầu đời của đứa trẻ.
Nhà đạo đức học Margaret Somerville trong một bài viết cho nhật báo Gia Nã Đại, The Ottawa Citizen ngày 17 tháng Chín năm ngoái xác nhận rằng quan điểm của Walker được nhiều người khác vốn cũng được sinh ra qua chương trình hiến tặng tinh trùng ủng hộ. Somerville cho hay càng ngày càng có nhiều trẻ em như thế, nay đã ở tuổi thiếu niên, đang lên tiếng mạnh mẽ chống đối phương cách chúng được sinh ra. Chúng cảm thấy mình như “những trẻ mồ côi sinh học”. Somerville cảnh cáo: ta đang có nguy cơ phân chẻ quyền làm cha mẹ thành các yếu tố vụn vặt về phương diện sinh học, nuôi nấng, xã hội và luật lệ. Việc ấy sẽ gây hại nghiêm trọng cho cả trẻ em lẫn xã hội.
Một nhật báo Gia Nã Đại khác là tờ The Globe & Mail, ngày 13 tháng 11 năm rồi, tường trình việc Liza White khám phá ra con gái Morgan của bà, được thụ thai nhờ tinh trùng hiến tặng, có đến 6 anh chị em “cùng cha” khác mẹ. Sáu gia đình và bẩy đứa trẻ này sống khắp nước Mỹ từ tiểu bang Washington tới Thủ Đô Washington. Cả bẩy đứa trẻ này cùng sinh cách nhau nửa năm, và vào lúc bài báo kia xuất hiện, chúng đều đang học lớp mẫu giáo. Theo tờ The Globe & Mail, các bà mẹ, thẩy đều đồng tính luyến ái, nên chưa biết ai là cha con cái họ và làm cách nào liên lạc với ông ta.
Khủng Hoảng Căn Tính
Kỹ thuật thụ thai trong ống nghiệm cũng đang được sử dụng để tạo ra những loại liên hệ gia đình hết sức dị kỳ. Tờ Sunday Times, ngày 10 tháng Hai vừa qua cho hay: ít nhất có đến sáu bà mẹ tại Anh đã đông đá trứng của mình để các con gái hiếm muộn của họ có thể sử dụng sau này. Những người con gái có khả năng hạ sinh các anh chị em của chính mình ấy sở dĩ thực hiện được việc đó là nhờ kỹ thuật đông đá hiện nay tiến bộ đến độ các trứng của bà mẹ có thể sống lâu đủ để chờ mấy đứa con gái kia đến tuổi trưởng thành và đem ra sử dụng.
Phê phán việc ấy, Josephine Quintavalle thuộc tờ Nhận Định Về Đạo Đức Học Sinh Sản nói với tờ Times: “Đứa trẻ chắc chắn sẽ gặp khủng hoảng căn tính, không tài nào tính ra được mối liên hệ của mình với thân nhân”.
Một trường hợp điển hình khác ở Anh đã được đài BBC tường trình vào ngày 5 tháng Mười năm ngoái. Một ông già nặc danh 72 tuổi đồng ý hiến tặng tinh trùng của mình để có “cháu nội”. Ông cụ hiến tinh trùng của mình cho con trai và nàng dâu là những người không có khả năng thụ thai qua chương trình IVF.
Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo từng lên tiếng chống lại các nguy cơ của IVF, trong đó có nhắc đến quyền một đứa trẻ được sinh ra bởi một người cha và một người mẹ, và quyền được biết họ (Số 2376). Sách này nói thêm “Đứa trẻ không phải là một đồ vật nợ nần ta, nhưng là một hồng phúc, ‘một quà phúc tối cao của hôn nhân’ (số 2378). Cho nên, bản văn viết tiếp: “Không được coi đứa trẻ như một món tài sản”. Các nguyên tắc ấy thường rất dễ bị làm ngơ, gây thiêt hại không những cho đứa trẻ mà cho cả xã hội như một toàn bộ.
Viết theo Cha John Flynn, LC, Zenit 27-04-08
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 02:39)
Sự nâng cao tinh thần
(Thánh Bonaventura: Itinerarium mentis in Deum)Sau hai năm rưỡi được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền VII Dòng Phan-xi-cô, Bonaventura, tên thật là Johannes Fidanza (1221-1274), đã lui vào trong nơi thanh vắng Alverna, một ngọn núi thuộc dãy Appenin ở Toakana, không cách xa Caprese, nơi sinh trưởng của nhà danh họa Michelangelo. Chính nơi đặc biệt này, nơi thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi được in năm dấu thánh, Bonaventura đã soạn thảo tác phẩm thời danh:
“Itinerarium mentis in Deum“ (Con đường tầng cấp tinh thần dẫn về cùng Thiên Chúa), một tác phẩm rất xứng đáng được liệt vào hàng các tác phẩm tư tưởng sâu sắc nhất ở thế giới Kitô giáo Tây phương.
|
| Triết-thần học gia nổi danh: Thánh Bonaventura |
Bonaventura trình bày con đường hành trình của tinh thần tiến về cùng Thiên Chúa như là một sự bay lên cao của tinh thần. Và một thị kiến cho thấy rằng sự bay lên cao đó của tinh thần được Thiên thần Sê-ra-phim có các cánh, dưới vóc dáng một người mang năm dấu thánh như nơi thánh Phan-xi-cô, Đấng sáng lập Dòng, hiện ra và hướng dẫn. Sáu cánh của Thiên thần Sê-ra-phim tương ứng với sáu cấp bậc của sự nâng cao tinh thần, mà qua đó linh hồn đạt tới sự an bình trong việc chiêm ngắm Thiên Chúa. Ở đây, trước hết linh hồn hướng ra bên ngoài, để đi tìm những dấu ấn của Tạo Hóa trong vũ trụ, sau đó quay lại với tinh thần trong chúng ta, và sau cùng là vượt lên khỏi chúng ta để nhận ra được Thiên Chúa trong yếu tính đặc trưng của Người.
Cuối cùng, một bước đi thứ bảy, đó là sự đạt tới tình trạng chiêm ngắm trọn vẹn và sự bình an vĩnh cửu. Điều đó có nghĩa là tất cả mọi khát vọng mong muốn nhận thức đều không cần thiết nữa; hay nói rõ hơn, con người không cần phải mong muốn đạt tới bất cứ điều gì nữa, vì đã đạt tới được tột đỉnh của sự trọn hảo.
Động tác nhận thức đó, tức động tác hướng dẫn từ dưới thấp lên trên cao, từ ngoài vào trong, từ tạm thời tới vĩnh cửu, làm phát huy những khả năng của bản chất con người. Ở đây Bonaventura đã so sánh toàn thể các sự vật, trong đó bao gồm cả chính linh hồn con người, tác nhân nhận thức, với một chiếc thang, mà nhờ đó chúng ta có thể bước lên cùng Thiên Chúa, tương tự như chiếc thang trong giấc mộng của Tổ phụ Gia-cóp (x. St 28,12tt). Tuy nhiên, nếu
“chiếc thang Gia-cóp“ đó bắc qua các sự vật, thì Bonaventura giới hạn nó lại trong hai bậc thang đầu, tức: dấu ấn và hình ảnh. Bậc thang cuối cùng, tức bậc thang – được tượng trưng bằng cặp cánh trước của Thiên thần Sê-ra-phim – dẫn đưa linh hồn thiêng liêng bước ra khỏi chính mình để chiêm ngưỡng nguyên lý đệ nhất, tương ứng với hai danh xưng đầu tiên của Thiên Chúa: Sự hiện hữu và sự thiện hảo; trong khi đó ngược lại, một sự tạo hình trực tiếp, nghĩa là một sự tạo hình ưu tiên thì cần phải nhờ đến ánh sáng của chính chân lý vĩnh cửu.
Bước đầu tiên trong việc phân tích sự nhận thức của tác phẩm
“Itinerariums“ nối tiếp hoà nhịp với bậc cấp nền tảng đầu tiên theo cách thức sự khởi đầu của thế giới, của đại vũ trụ, vào trong linh hồn chúng ta, trong tiểu vũ trụ. Tại đây linh hồn nhận thức được các sự vật phức tạp. Nhưng những sự vật thâm nhập vào trong linh hồn không phải theo bản thể của chúng, nhưng nhờ phương tiện những hình ảnh trực cảm của những sự vật đó qua các cổng giác quan. Cũng chính qua cách thức này, toàn thể thế giới sự vật thâm nhập được vào trong linh hồn con người qua các cổng giác quan.
Nhưng chính bậc cấp nền tảng thứ nhất - tức bậc cấp bao gồm hai cánh thấp nhất của Thiên thần Sê-ra-phim – không bị giới hạn trong những sự vật có thể tri giác được bằng giác quan, nhưng còn bao gồm cả những sự vật tinh thần nữa. Tính cách tổng quát của dấu ấn Tạo Hóa trong vũ trụ được tham chiếu theo ba nguyên nhân tính sáng tạo, vì Thiên Chúa là:
• nguyên nhân tác động,
• nguyên nhân mô phạm
• và nguyên nhân mục đích.
Tác động đi lên - từ dấu ấn cho tới chỗ khám phá ra chính Thiên Chúa - của một sự lùi dần từ các sự vật lên đến nguyên lý đệ nhất cũng tương ứng theo cùng cách thức như thế. Theo Bonaventura, đó chính là sứ mệnh của
“nhà siêu hình học chân chính“, tức rời khỏi sự chiêm ngưỡng
“hữu thể từ một hữu thể khác, theo một hữu thể khác và vì một hữu thể khác“ để đạt tới một
“hữu thể từ chính mình, theo chính mình và vì chính mình“, và đó là điều bao hàm nội dung ý nghĩa về nguyên ủy, về căn nguyên và về mục đích.
Ngay tại sự khởi đầu bậc cấp nền tảng thứ hai tiếp theo sau đó - bậc cấp tương ứng với hai cánh giữa - là sự dẫn đưa quay trở về chính mình. Cùng với những lời của Augustinô, Bonaventura đòi hỏi hình ảnh:
“Vậy, hãy quay trở lại với chính mình và hãy nhìn xem: Tinh thần ngươi đang yêu chính mình một cách hết sức nồng nàn. Nhưng nó sẽ không thể yêu chính mình được, nếu như nó không nhận ra được chính mình, và nó sẽ không thể nhận ra chính mình được, nếu như nó không hồi tưởng được những gì đã xảy ra cho mình; bởi vì chúng ta chỉ nhận thức được những gì đang hiện diện trong ký ức của mình mà thôi.“ Đây là điều Bonaventura đã giải thích rõ ràng qua một sự phân tích khả năng nhận thức được đặt cơ sở trên chân lý.
Sau cùng, sự phân tích nhận thức – được thực hiện trong hai giai đoạn – dẫn tới sự nhận thức hữu thể đệ nhất, tức hữu thể thuần tuý nhất, chân thực nhất và trọn vẹn nhất, nghĩa là hữu thể tuyệt đối, một hữu thể chiếm giữ sự ưu tiên kép: Hữu thể đệ nhất vừa trong trật tự nhận thức và vừa trong trật tự hiện hữu. Và chính hữu thể đó đi qua trí năng của chúng ta như là hữu thể đầu tiên và cũng là hữu thể luôn luôn được suy tưởng trước tiên trong tất cả những gì chúng ta nhận thức và suy tưởng. Hữu thể đó là thực tại tuyệt đối, là hữu thể Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa vậy.
Như thế, tinh thần đã khám phá trong chính nội tâm mình điều - mà theo bản tính nó - luôn luôn là chính nó, dù nó không ý thức được điều đó. Vì thế, Bonaventura đã nói đến một sự mù loà đầy bí ẩn khó hiểu; đó là khi tinh thần chúng ta không nhận thức được điều gì đã xảy ra trong nó, tức là điều mà khi thiếu nó, thì người ta chẳng nhận thức được bất cứ điều gì cả. Vậy, mặc dầu đối với Bonaventura sự tri thức về hữu thể trọn hảo của Thiên Chúa là nền tảng cho mọi nhận thức của con người, nhưng để có thể đạt tới được sự nhận thức về Thiên Chúa, con người cần phải nhờ vào sự chiêm ngưỡng thế giới tạo vật; bởi vì hữu thể Thiên Chúa – xét như là điều kiện tiên thiên của khả năng nhận thức của con người -, trí năng con người có thể nhận thức được một cách chung chung mà thôi, chứ không thể thấu hiểu trọn vẹn được. Nói cách khác, trí năng con người có thể minh chứng và xác tín được sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn không thể giải thích được một cách trọn vẹn yếu tính hay sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Nguyên tắc nền tảng sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa qua công trình sáng tạo như thế là một sự tri thức về hữu thể, mà nhờ đó các sự vật không chỉ mang trên mình ý nghĩa của chính mình, nhưng chúng - xét như là những phản ánh sự sáng tạo – còn giới thiệu nguyên bản sáng tạo theo từng cách thức hiện hữu cụ thể của chúng. Điều đó có nghĩa là sự tương quan giữa các tạo vật với Thiên Chúa dựa theo mức độ:
• dấu vết,
• sự phản ánh,
• và sự tương tự.
Bonaventura đem áp dụng cách thức trình bày sự tương quan đó vào trong việc diễn giải về lãnh vực Thiên Chúa Ba Ngôi và Kitô học: Ngôi Lời Thiên Chúa, xét như là sự biểu lộ hoàn hảo của Chúa Cha, là nguyên bản vĩnh cửu của tất cả mọi tạo vật, và tất cả những tạo vật, qua mức độ hoàn hảo của chúng, phải được coi như là phản ánh sự vinh quang của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả mọi tạo vật xuất phát từ Thiên Chúa qua Ngôi Lời, và qua mầu nhiệm nhập thể làm người, Ngôi Lời đã hoàn toàn đảm nhận chức vụ trung gian của mình một cách trọn vẹn.
Như vậy, sự quay trở về cùng Thiên Chúa được giới thiệu như ba con đường cùng song hành và gắn liền với nhau:
• con đường thanh luyện,
• con đường chiếu sáng
• và con đường hoàn thiện.
Chính con đường sau cùng này quyết định toàn diện cuộc sống tinh thần con người và dẫn tới sự hoàn thiện của tình yêu Thiên Chúa cũng như dẫn tới sự huy hoàng rực rỡ của chân lý. Đó chính là con đường mà thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi đã trải qua để nên giống Đức Kitô chịu đóng đinh về cả tinh thần lẫn thể xác. Nhưng để đạt tới được sự hoàn thiện cuối cùng trên con đường dẫn tới
“sự bình an vượt trên tất cả mọi tư duy“ thì chỉ có ai biết loại bỏ được tất cả mọi cách thức suy luận theo các phạm trù của trí năng nhân loại và biết vượt ra khỏi sự tri thức khả tri,
“đó là khi người ấy sử dụng cách thế hiệu lực có thể thắng vượt được tất cả để vượt ra được khỏi chính mình, tức khi người ấy nâng mình lên trên chính mình.“ Bonaventura diễn tả hành động „transcensus“ đó như một cái gì được nắm bắt, được tách ra và được đưa lên cao trong
“lãnh vực thuộc khuynh hướng tri thức và tình cảm.“ Đồng thời chứa đựng trong đó sự minh triết hoàn hảo, tức một ơn của Chúa Thánh Thần bắt đầu trong sự nhận thức và kết thúc trong tình cảm, đó là ơn mà
“không một ai ý thức được, nếu người ấy không cảm nhận được ơn đó.“ Trong sự đi lên này thì chính Đức Kitô là đường, là cửa, là thang và bạn đồng hành. Qua đó, ý niệm vượt qua có được ý nghĩa Kitô học. Đó chính là hành động – mà khoa thần bí học sau này giải thích là sự loại bỏ hoàn toàn ý riêng – sẽ dẫn đưa chúng ta, sau khi đã chết về mặt tinh thần, tới sự phục sinh: tức trở nên một con người mới! Chính qua hành động đó, thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi – sau khi rời bỏ miền núi Alverna, nơi thánh nhân được in năm dấu thánh - đã trở nên mẫu gương trong việc chiêm ngắm trọn vẹn.
______________________
Sách tham khảo: Bonaventura: “Pilgerbuch der Seele zu Gott“ (Itinerarium mentis in Deum). Eingeleitet, übersetzt und erläutert von Julian Kaup. Kösel Verlag, München 1961.
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 08:16)
Hà NỘI - Phóng viên AFP cho biết: hôm nay thứ Ba (29/04)ngọn đuốc Thế Vận Hội đi qua Thành Phố Sài Gòn, và có hai người biểu tình chống Trung Cộng đã bị bắt tại Hà Nội lúc họ phản đối Thế Vận Hội Bắc Kinh.
Ngoài khu chợ, hai thanh niên giơ băng biểu ngữ màu đen có dòng chữ « Bắc Kinh 2008 », trên biểu ngữ có vòng biểu tượng Thế Vận Hội dưới hình dạng vòng còng tay, họ đã bị bắt một cách nhanh chóng sau khi nhiều công an mặc đồng phục và công an dân sự tiếp cận.
Biểu ngữ này nhóm phóng viên không biên giới thường dùng, nhưng theo phát ngôn viên của tổ chức bảo vệ nhân quyền, hai người bị bắt không thuộc tổ chức nhóm phóng viên.
Cánh sát đã giải tán đám đông và yêu cầu nhóm phóng viên nước ngoài rời khỏi khu vực chợ Thanh Xuân nằm trong khu phố cổ Hà Nội.
Một phụ nữ cũng bị cảnh sát bắt tại Hà Nội.
Liên lac qua điện thoại, cảnh sát cho biết không có biết sự cố, cũng không bình luận về việc bắt bớ không xác nhận số quân đội bị đảng dân chủ Việt Tân tố cáo hôm thứ Ba.
Ngọn lửa Thế Vận Hội đến Việt Nam tối thứ Hai, ngọn đuốc sẽ diễn ra tại Thành Phố Sài Gòn bắt đầu từ 18h30 giờ địa phương ( 11h30 GMT) đặt dưới sự thắt chặt an ninh cao, trong khi đó đã có nhiều lời kêu gọi biểu tình ôn hoà chống Trung Cộng.
Sáng thứ Ba, chính quyền việt nam cộng sản triển khai nhiều cảnh sát ở trung tâm du lịch, thành phố, chính quyền rất bí mật về số lực lượng bảo vệ trật tự được huy động cho sự kiện rước đuốc này.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tố cáo sự đe doạ thường xuyên của « kẻ thù đich », từ này thường được dùng để ám chỉ những người ly khai dân chủ, luôn phá rối trật tự công cộng.
Những cuộc biểu tình hiếm khi thấy trong một đất nước cộng sản, độc đảng, nhưng từ tháng 12 năm ngoái luôn có những cuộc phản đối ở Hà Nội và Sài Gòn tố cáo chính sách Bắc Kinh về vấn đề chủ quyền hai hòn đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
(Nguồn: La Croix)
Đức Long