|
| Tuyên Úy Đoàn VN tại Úc |
Chiều thứ Hai ngày 28/4/08, các linh mục Việt Nam đang làm mục vụ tuyên úy và quản nhiệm cho các Cộng Đồng Việt Nam tại Úc Châu đã qui tụ về trung tâm Đức Mẹ Thuyền Nhân tại Adelaide, Nam Úc để tham dự phiên họp thường niên nhằm mục đích:
-Thắt chặt tình huynh đệ linh mục
-Chia sẻ kinh nghiệm mục vụ nơi các cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu
- Chuẩn bị những giai đoạn gần cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD 2008 vào tháng 7 năm nay.
-Thống nhất những phương hướng mục vụ trong tương lai
-Cầu Nguyện và Chia sẻ đời sống tâm linh
-Sống mục vụ và rao giảng tin mừng
-Sống chứng nhân Phúc Âm
Trong phiên họp, Quý Cha Tuyên Uý thuộc các Tiểu Bang đã chia sẻ những sinh hoạt Mục Vụ địa phương, nhất là cùng nhau suy nghĩ, bàn bạc, và đóng góp cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD 2008, để đón chào các bạn trẻ Việt Nam từ muôn phương về tham dự Đại Hội Giới Trẻ.
Trong phiên họp thường niên năm nay, Quý Cha Tuyên Uý từ các tiểu bang về tham dự gồm có:
Adelaide: Đ/ô Nguyễn Minh Tâm quản nhiệm cộng đồng Nam Úc.
Lm. Nguyễn Viết Huy Sj phó quản nhiệm.
Canberra: Lm. Bùi Xuân Mỹ quản nhiệm cộng đồng thủ đô.
Melbourne: Lm. Huỳnh San quản nhiệm cộng đồng Hoan Thiện.
Lm. Võ Đức Thiện quản nhiệm cộng đồng Vinh Sơn Liêm.
Lm. Võ Thanh Xuân Chủ bút Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu.
Perth: Lm. Nguyễn Minh Thúy quản nhiệm cộng đồng Tây Úc.
Lm. Nguyễn Kim Sơn phó quản nhiệm.
Sydney: Lm. Nguyễn Khoa Toàn tuyên úy trưởng cộng đồng Công Giáo TGP Sydney.
Lm. Paul Văn Chi tuyên úy
Lm. Nguyễn Văn Tuyết tuyên úy
Lm. Dương Thanh Liêm tuyên úy
Sau buổi họp chiều thứ Ba ngày 29 tháng 4 năm 2008. Tuyên Úy Đoàn đã bầu lại Tân Ban Đại Diện với các chức vụ như sau:
Trưởng Tuyên Úy đoàn: Đức ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm (Adelaide, Nam Úc)
Phó Tuyên Úy đoàn: Lm. Phêrô Bùi Xuân Mỹ (Canberra Capital, ACT)
Thư ký Tuyên Úy đoàn: Lm. Raphael Võ Đức Thiện (Melbourne, Vic)
Thủ quĩ Tuyên Úy đoàn: Lm. Paul Chu Văn Chi (Sydney, NSW)
Kết thúc phiên họp các linh mục tuyên úy đã cùng Cộng Đồng Công Giáo Nam Úc dâng Thánh Lễ đồng tế 7.00pm do Đức ông Nguyễn Minh Tâm chủ tế để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban muôn ơn lành cho Quý Cha Tuyên Úy và các cộng đồng Việt Nam trên toàn Úc Châu, cũng như soi sáng cho phiên họp được nhiều kết quả và thành công mỹ mãn.
Trước khi chấm dứt thánh Lễ Đức ông Paul Minh Tâm mời gọi hãy cố gắng bớt chút thì giờ tới tham dư Thánh Lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận cầu cho vong linh tử sĩ đã bỏ mỉnh trong ngày quốc nạn 30 tháng 4 và cầu cho quê hương Việt Nam.
Hoàng Việt Nam và Jovi từ Adelaide.
Jos. Vĩnh
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 23:03)
ATLANTA, GEORGIA - Lúc 3:15 giờ chiều Chúa nhật 27 tháng 4 năm 2008 tại Họ Đạo Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Tổng Giáo phận Atlanta, Georgia, Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Thế Giới đã long trọng tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn 40 năm Linh mục, 70 năm tuổi đời và được bình an sau cơn bạo bệnh của vị sáng lập Chương Trình là Cha Phêrô Chu Quang Minh, dòng Tên. Các gia đình liên hệ với Chương Trình khắp nơi hiệp thông cầu nguyện, cách riêng nhiều đôi vợ chồng Song Nguyền từ các cộng đoàn xứ đạo địa phương như Chicago-Illinois, Charlotte-North Carolina, Greenville-South Carolina, Riverdale-Norcoss-Georgia v.v… cùng về tham dự.
Nhiều Linh mục hiện diện cùng hiệp dâng Thánh Lễ, trong đó có Cha Quản nhiệm Họ Đạo sở tại và Tổng Tuyên úy Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ là LM Phanxicô Xaviê Trần Quốc Tuấn, đặc biệt Cha Giuse Nguyễn Thanh Liêm, Chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Đức Ông Francis Phạm Văn Phương, Chánh xứ Giáo xứ Đức Mẹ Việt Nam và là Đại diện Đức Tổng Giám mục chăm lo cho người Việt Nam tại TGP Atlanta, giảng thuyết trong Thánh Lễ.
Cuối Thánh Lễ, sau những lời cám ơn chân tình, Cha Phêrô Chu Quang Minh vui mừng công bố việc nhận lời làm Linh Nguyền cho Miền Đông Nam Hoa Kỳ của Cha Phêrô Lê Văn Tấn, hiện là Chánh xứ Giáo xứ Thánh Giuse, Giáo phận Charlotte-North Carolina; và đặc biệt Cha Tổng Linh Nguyền giới thiệu Đức Ông Phanxicô Xaviê Phạm Văn Phương đã nhận lời làm Cố Vấn Đặc Biệt cho Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Thế Giới.
Được biết sau Lễ Tạ Ơn tại Atlanta hôm nay, nhiều Liên Gia Song Nguyền trong Chương Trình sẽ lần lượt tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn cùng với Cha Sáng Lập tại các nơi khác như Toronto-Canada, Melbourne-Úc Châu, Tokyo-Nhật, cũng như tại Houston, San Diego, Los Angeles, San Jose, v.v., và cuối cùng tại San Jose-California ngày 7 tháng 12 năm 2008 do Chương Trình TTHNGĐ cùng với thân nhân và gia đình linh tông Cha Phêrô Minh thực hiện.
Ông Bà Phạm Văn Quyết và Điệp, Chủ Nguyền Trung Ương cho biết việc Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Thế Giới tổ chức các Thánh Lễ Tạ Ơn, trước hết là để cùng với Cha Sáng Lập Phêrô Chu Quang Minh Tạ Ơn Thiên Chúa đã soi sáng cho Chương Trình được hiện diện, và cũng là dịp để hơn 30,000 anh chị Song Nguyền khắp nơi trên thế giới hiện nay cùng nhau hiệp thông cầu nguyện sống cụ thể dựa trên nền tảng “Khiêm nhường Biết lỗi, Nhận lỗi, Sửa lỗi, Xin lỗi, Tha thứ”, và nhờ đó giúp mỗi thành viên gia đình gắn bó với nhau hơn trong mục đích “yêu thương gần gũi bằng việc làm”, hầu mang lại niềm vui và hạnh phúc cho các gia đình, để rồi sau khi gặp gỡ gắn bó với Thánh Gia Giêsu-Maria-Giuse, việc “tông đồ song đôi” của vợ chồng mang Tin Mừng Ơn Cứu Chuộc đến cho những người chung quanh được nhiều kết quả theo thánh ý Chúa!
Đặng Văn Kiếm
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 18:26)
Đại Hội Ultreya Âu Châu và Hành Hương Fatima
từ 11/04/08 đến 15/04/08
Để tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ và hăng say tham gia vào mỗi hoạt động của Phong Trào Cursillo, đoàn lữ hành người Việt 127 người từ Pháp, Đức, Thụy Sĩ và Bỉ đến tham dự Đại Hội Ultreya Âu Châu tại Fatima cùng với những cursillista của các nước Âu châu khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Đức và Ý. Mặc dù ngôn ngữ bất đồng, nhưng chắc chắn một điều là mỗi cursillista đều hiểu nhau trong ngôn ngữ của Thiên Chúa.
Với những lý do nào đó và vì số người tham dự cũng có giới hạn, người viết sẽ tường thuật lại những diễn biến trong các ngày qua để mỗi người chúng ta cùng nhau hiệp thông trong Đại Hội Âu Châu và chuyến hành hương Fatima này !
Đoàn hành hương năm nay có sự tham dự của Đức Ông Mai Đức Vinh – linh hướng Phong Trào, cha Nguyễn Trọng Quý đến từ Đức, cha Nguyễn Bá Linh đến từ Strasbourg, bác chủ tịch Phong Trào Đào Văn cùng phu nhân (mặc dù sức khỏe bác có kém đi) và đoàn trưởng Nguyễn Minh Dương.
Tới khách sạn vào chiều tối 11/04, nằm sát ngay Quảng Trường Đức Mẹ Fatima, chúng tôi liền tập văn nghệ cho buổi trình diễn sáng hôm sau. Đoàn múa của chúng tôi rất là điêu luyện mang nhiều nét độc đáo dưới sự tập dợt của chị Cẩm Tuyết. Còn nhóm tốp ca được điều khiển dưới tài năng của ca trưởng Nguyễn Văn Năng (thuộc liên nhóm Đức). Chừng một giờ sau, chúng tôi ngưng tập luyện để cùng nhau ăn tối. Nhưng vì chúng tôi huyên thuyên nhiều chuyện quá nên ăn rất lâu, đến độ trễ giờ kiệu. Đang lúc lo âu thì được Đức Mẹ thương tình, chương trình rước kiệu Đức Mẹ sẽ trễ hơn nữa tiếng như đã dự định!
Xong buổi ăn tối, chúng tôi hăng hái tiến đến Quảng Trường Đức Mẹ Fatima để lần chuỗi và kiệu Đức Mẹ dưới sự chủ tọa của ĐGM Leiria - Fatima. Trong khi đang hiệp thông lần hạt bằng nhiều thứ tiếng, bỗng vang lên một giọng trầm ấm rất truyền cảm. Đó là lời kinh Kính Mừng bằng tiếng Việt của chị Kim Chi. Sau chuỗi kinh, đoàn hành hương rước kiệu rất long trọng. Bao nhiêu ngọn nến được thắp sáng để tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ và thổ lộ tâm tình đến với Mẹ.
Rước kiệu xong, tất cả con cái Mẹ vào Vương Cung Thánh Đường Centro Paulo VI để tham dự Thánh Lễ, dưới sự chủ tế của ĐGM linh hướng Caruana cùng với sự đồng tế của rất nhiều linh mục. Thánh lễ được dâng lên cũng bằng nhiều thứ tiếng như Bồ Đào Nha, Anh, Đức. Những bài hát rất nhộn nhịp sống động nói lên lòng xao xuyến cũng như lòng vui mừng chào đón Đức Mẹ. Mặc dù không hiểu tiếng Bồ Đào Nha, nhưng tất cả chúng tôi đều hiệp thông mật thiết trong Thánh Lễ với Thiên Chúa, với Mẹ, với đoàn con cái của Chúa, của Mẹ qua những nghi thức phụng vụ rất quen thuộc.
Kết thúc Thánh Lễ bằng một buổi Chầu Thánh Thể, được đệm bởi lời chia sẻ của một vị linh mục hướng dẫn và những bài hát du êm với âm điệu tuyệt vời làm giờ Chầu Thánh Thể bùi ngùi êm dịu hòa hợp với tâm tình dâng gởi đến Thiên Chúa và Đức Mẹ. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria về tất cả những gì đã cho chúng con !
Sáng hôm sau 12/04, chúng tôi lại trở lại Quảng Trường Đức Mẹ tại trung tâm Phaolô VI, để trình diễn văn nghệ (đoàn múa duyệt lại lần cuối trước khi ra mắt khán giả, còn tốp đồng ca cũng cất giọng ngân nga để giọng hát được thánh thót hơn !). Khi chúng tôi đến Quảng Trường, người ta sửng sốt trước vẻ đẹp của chúng tôi !!! Chúng tôi trang phục toàn là áo dài truyền thống, muôn màu muôn sắc, đặc biệt đoàn múa có những bộ đồ rất đặc sắc mang tính dân tộc. Bao nhiêu người xin đến chụp hình với chúng tôi ! Các đoàn khác trình diễn những điệu múa truyền thống và những bài hát của xứ họ. Có đoàn thì chỉ hát thôi với những ca khúc trẻ. Chúng tôi cũng được nghe lại bài « De Colores » do đoàn Tây Ban Nha hát, nhưng họ hát không giống chúng tôi thường hát ở Paris !!! Lần lượt đến tiết mục văn nghệ của chúng tôi với bài đồng ca « Hành Trang Tuổi Trẻ » và vũ khúc « Ngày Vinh Thắng ». Một lần nữa, bao nhiêu ống kính ngùn ngụt đua nhau chụp ảnh chúng tôi, nhưng chúng tôi đã quen làm ngôi sao rồi nên vẫn say sưa diễn xuất mà không bị chia trí ! Chương trình văn nghệ của Đại Hội dài lắm, người tường thuật không thể kể hết. Ngôi Thánh Đường chứa đến vài ngàn người, đã hơn 2000 cursillista tham dự rồi. Mỗi cursillista đều đeo khăn đồng phục do G.E.T đảm trách, và mỗi khăn mang mỗi màu sắc khác nhau và được ghi « De Colores » như ý nghĩa của nó.
Sau những tiết mục văn nghệ ngoạn mục, giờ Thánh Lễ đã đến. Thánh Lễ được chủ tế bởi nhiều ĐGM và linh mục rất trọng thể, trong số đó có Đức Ông Vinh, cha Quý và cha Linh và Thánh Lễ cũng diễn ra bằng nhiều tiếng. Lần này thì chúng tôi đã quen rồi ! Chúng tôi sốt sắng tham dự Thánh Lễ và hiệp thông cùng toàn thể cursillista trong Tình Yêu Chúa Kitô.
Sau Thánh Lễ, chúng tôi nghỉ trưa rồi trở lại Quảng Trường Đức Mẹ tham dự Đại Hội Ultreya Âu Châu với chủ đề « Vai trò của Phong Trào Cursillo trong công cuộc Tân Phúc Âm Hóa tại Âu Châu », do ĐTGM Ortiga chủ tọa và ĐGM Manuel Clemente giảng huấn. Ngài trình bày rollo bằng ba thứ tiếng: Bồ Đào Nha, Đức, Anh. Nội dung được dựa trên những tư tưởng của ĐGH Gioan Phaolô Đệ Nhị và được tóm lượt như sau (người tường thuật gom phần đào sâu và chia sẻ trong buổi Ultreya Việt Nam vào đây luôn).
Trên những nẻo đường Âu châu, việc rao giảng Tin Mừng thực sự là một điều rất cần thiết. Số lượng người chưa chịu Phép Rửa ngày càng đông lên, do sự tồn tại đáng kể của những tôn giáo khác và do trẻ con sinh ra trong những gia đình theo truyền thống công giáo không được Rửa Tội. Điều này như là một kết quả của nền thống trị Cộng Sản hay sự lan tràn của sự khác biệt tôn giáo. Âu châu giờ đây là một trong những nơi có truyền thống công giáo nhưng cần được Tân Phúc Âm hóa trước tiên. Thế giới Âu châu đang càng ngày càng xa dần với nguồn gốc Kitô giáo của mình. Ngay tại trong lòng Âu châu, toàn thể Giáo Hội dồn hết nỗ lực cho công cuộc loan báo Tin Mừng, giữa một thời đại đầy biến động, phức tạp, đa dạng trước những nền văn hóa, xã hội xưa cổ này. Phúc Âm hay Tin Mừng là chính con người của Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đó là Quà tặng, là Ân ban quý giá mà Chúa Cha gửi trao cho nhân loại. Để Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài dễ được người đời đón nhận, Giáo hội sẽ loan báo Tin Mừng với một tư duy và phong cách mới. Đức Gioan-Phaolô II đã nhấn mạnh tới ba nét mới: mới trong phương pháp, mới trong cách diễn tả, nhất là mới trong nhiệt tình.
Nhìn vào thế giới hôm nay từ quan điểm Tân Phúc Âm hóa, ĐGH Gioan Phaolô II đề xuất ba việc làm của Tân Phúc Âm hóa. Một là đối với những người chưa nhận biết Tin Mừng, Tân Phúc Âm hóa là trách nhiệm truyền giáo, là trách nhiệm loan báo Tin Mừng đầu tiên cho người chưa tin, mà mọi người Kitô hữu phải thể hiện. Hai là đối với những người đang sống đức tin trưởng thành, cần phải chăm sóc mục vụ và gây cho họ sự cảm thông và liên đới với sứ vụ truyền giáo chung của Giáo hội. Ba là đối với những người đã chịu Phép Rửa mà không còn ý thức về đức tin của mình hay không còn hiệp thông với Giáo hội trong sinh hoạt tôn giáo, cần phải tái rao giảng Tin Mừng cho họ bằng cách trình bày cốt yếu nội dung Tin Mừng và huấn luyện lại đức tin.
Đức Gioan-Phaolô II khẳng định không chỉ có cá nhân mà toàn bộ các nền văn hoá cần được ảnh hưởng Tin Mừng biến đổi. Vì thế, trong hoạt động truyền giáo, Giáo hội đã tiếp cận với những nền văn hoá khác nhau và đã thể hiện việc hội nhập văn hoá. Việc Hội nhập văn hoá là thái độ trân trọng và tiếp nhận những giá trị quý giá trong các nền văn hoá, đồng thời nỗ lực đưa sứ điệp Tin Mừng và các giá trị Kitô giáo vào các nền văn hoá của con người. Theo Đức Gioan-Phaolô II, Tân Phúc Âm hoá theo chiều hướng đó, sẽ dẫn đến một "Nền Văn Minh Tình Thương".
Công cuộc Tân Phúc Âm hóa không chỉ giới hạn trong việc giới thiệu Sứ điệp Tin Mừng, mà còn là tiến trình gia nhập vào sinh hoạt Hội Thánh. Loan báo Tin Mừng, chủ yếu mới là bước đầu. Đó là nền tảng cho một tiến trình dài lâu. Theo đó, loan báo Tin Mừng còn kèm theo việc huấn giáo, hướng dẫn về luân lý và học thuyết Giáo hội. Những ai đã tháp nhập vào Chúa Kitô, cũng tháp nhập vào Giáo hội, là thân thể Ngài. Họ liên kết với Thiên Chúa nhờ các bí tích và qua cộng đoàn Hội Thánh.
Đức Gioan-Phaolô II còn lưu ý đến hai khía cạnh: chứng tá đời sống và sự thánh thiện cá nhân. Ngài lặp lại lời nói của Đức Phaolô VI: Con người thời nay tin chứng nhân hơn thầy dạy, và có tin thầy dạy, là bởi vì thầy dạy là chứng nhân. Từ đó, ngài mời gọi các tín hữu luôn nêu gương sáng trong đời sống hằng ngày. Vì thế, âm thầm sống gương mẫu đạo đức, cũng là cách thức truyền giáo hữu hiệu. Đức Gioan-Phaolô II còn quả quyết rằng nhà truyền giáo phải là vị thánh. Từ đó, ngài kêu gọi mọi sứ giả Tin mừng phải sống thánh thiện, vì việc nên thánh và sứ vụ truyền giáo không thể tách rời nhau.
Nội dung cốt yếu của Tân Phúc Âm hóa xoay quanh bốn điều cơ bản: hoán cải, Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô và sự sống đời đời.
Hoán cải là suy nghĩ lại, là đặt lại vấn đề về nếp sống và lối sống của mình, là để Thiên Chúa bước vào cuộc sống cá nhân để Người điều khiển mọi tâm tình, tư tưởng, hành động của ta. Hoán cải là bắt đầu nhìn vào đời mình với cái nhìn của Chúa, nhằm kiếm tìm một kiểu sống mới. Như thế, hoán cải là thoát ra khỏi tính tự mãn, là biết khám phá và chấp nhận sự yếu kém của mình, là khiêm hạ tín thác vào Tình yêu của Chúa, một tình yêu sẽ trở thành thước đo và chuẩn mực cho đời sống chúng ta. Hoán cải là bước đầu tiên đến với Đức Giêsu, là điều kiện cần thiết để vào Nước Thiên Chúa. Kêu gọi hoán cải là ngầm giới thiệu ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến, là nêu lên thực trạng tội lỗi chung của con người và nhu cầu đón nhận ơn giải thoát từ trời cao.
Nội dung thứ hai cần được loan báo, là Nước Thiên Chúa đã đến trần gian.
Nước Thiên Chúa không phải là một sự kiện, một cấu trúc xã hội hay chính trị, một không tưởng. Nhưng Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa có nghĩa là Thiên Chúa hiện hữu, Thiên Chúa sống động, Thiên Chúa đang hiện diện và hành động trong thế giới, trong đời sống chúng ta, trong đời sống của tôi. Thiên Chúa là Đấng Tạo thành, Đấng thánh hoá, Vị thẩm phán.
Nội dung thứ ba của Tân Phúc Âm hóa, là Chúa Giêsu Kitô. Đề tài về Thiên Chúa và Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với nhau, bởi vì chính nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, ta mới hiểu được Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, là Con Thiên Chúa, vừa là con người, nhưng đặc biệt cũng là Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tận hiến mình trở thành con đường sống cho chúng ta. Theo Chúa Giêsu không chỉ có nghĩa là bắt chước con người Giêsu, nhưng là trở nên một với Chúa Kitô, và nhờ đó kết hợp với Thiên Chúa. Và con đường duy nhất để hiệp thông với Chúa Kitô cách mật thiết là sống các Bí tích.
Nội dung cốt yếu cuối cùng của Tân Phúc Âm hoá, đó là Sự sống đời đời. Nội dung này đáp ứng được nhu cầu muốn sống hoài của con người và khai sáng cho con người hiểu rõ định mệnh mình, nhờ tin vào Chúa Kitô. Chúa Kitô đã quả quyết Ngài là sự sống và sự sống lại. Ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 11,25; 6,47). Chúa Kitô là Ánh sáng soi chiếu trần gian, là Sự thật giải thoát tất cả. Ngài đến để giúp chúng ta hiểu rõ đời này và khai sáng cho chúng ta lối đường bước vào đời sau. Nếu con người biết thành tâm hoán cải, biết tin vào lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, biết cậy trông vào công nghiệp cứu độ của Chúa Kitô trên thập giá, họ sẽ được sống và sống muôn đời.
Sau phần Rollo « Tân Phúc Âm Hóa », anh Lương Huỳnh Ngân đại diện đoàn Việt Nam chúng tôi lên chia sẻ cảm nghiệm sống về lương tâm người bác sĩ công giáo trước vấn đề phá thai. Anh đã cầu nguyện liên lỉ cùng với các cursillista khác để Sức Mạnh Của Lời Cầu Nguyện chiến thắng mọi mưu chước cám dỗ ma quỷ. Trong Đức Kitô, anh đã thuyết phục được các bà mẹ bỏ ý định phá thai để những tuyệt tác Thiên Chúa được hình thành và được hưởng cuộc sống ân phúc Chúa ban cho. Buổi Ultreya này kéo dài khoảng 5 tiếng.
Tối đến, chúng tôi lại rước kiệu nến Đức Mẹ long trọng cùng với các Giám Mục, Linh mục và khoảng hơn 2000 cursillista và giáo dân bản xứ. Bao nhiêu nến được thắp sáng lên giữa một Quảng Trường yên tĩnh trong tâm tình yêu mến và tạ ơn Đức Mẹ. Lời ca A-vê Ma-ri-a vang lên trong đêm tối dường như muốn gởi tấm lòng thành của mỗi người đến Đức Mẹ. Cuộc rước kiệu trọng thể này kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ nhưng chúng tôi không cảm thấy mệt mỏi.
Sáng ngày 13/04, chúng tôi cũng kiệu Đức Mẹ. Hôm nay trời có vẻ âm u, và chúng tôi lần hạt dưới mưa, rồi trời tạnh và lại nắng lên. Có người tâm sự với người tường thuật là lúc lần hạt Năm Sự Vui thì trời đang còn quang đãng. Đến Năm Sự Thương thì trời đổ mưa sầu muộn như muốn cùng thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Rồi đến Năm Sự Mừng thì nắng bỗng bừng lên làm tâm hồn chúng tôi cũng vui lên như được phục sinh trong Đức Kitô và được nâng đỡ ủi an bởi Mẹ Maria. Người kể cũng cho biết thêm những trạng thái thời tiết này cũng giống y như ngày Đức Mẹ đã hiện ra vào tháng Năm năm 1917.
Tiếp theo kiệu Đức Mẹ, chúng tôi tham dự Thánh Lễ đồng tế trọng thể do Đức Hồng Y Juan Sandoval Inguez chủ tế ngoài trời trong một Quảng Trường rộng lớn gần ngay Đài Đức Mẹ và kết thúc Đại Hội Ultreya Âu Châu tại đây. Chúng tôi lấy khăn quàng muôn màu muôn sắc vẫy tay chào Mẹ như trở thành tục lệ nơi đây. Rồi chúng tôi trở về chốn trọ nghỉ trưa, lòng đầy chấn phấn !
Chương trình buổi chiều của chúng tôi - đoàn hành hương Việt Nam - là đi Đàng Thánh Giá dưới sự hướng dẫn của Đ.Ô Vinh, rồi sau đó chúng tôi thăm viếng ngôi làng của ba trẻ và nhà của sœur Lucie. Chúng tôi mon men trên những con đường làng ngoằn ngoèo được bao bọc bởi những rặng cây già cỗi. Con đường này lắm cây sồi, có lúc chúng tôi băng qua cả một vườn toàn cây dầu làm khơi lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn dầu « Lạy Cha nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha ».
Buổi tối, chúng tôi quây quần bên buổi Ultreya của người Việt chúng ta, để đào sâu đề tài Tân Phúc Âm Hóa. Cha Quý đã giảng huấn rollo này và sau đó chúng tôi hăng say thảo luận và chia sẻ (nội dung đã được gộp lại viết chung trong đề tài Tân Phúc Âm hóa nêu trên). Liên nhóm Đức phụ trách rất chu đáo và sôi động dưới sự hoạt bát của cursillista Trần Quốc Doanh, và đặc biệt có phần đóng góp văn nghệ độc đáo mang tính cách Liên nhóm Đức !!! Vẫn ca trưởng Năng điều khiển ca hát, rồi đến những tiết mục kịch và múa « Ra khơi » rất vui đến độ chúng tôi cười ngặt nghẽo (sau 10 phút tập múa). Đoàn Thụy Sĩ cũng đóng góp những tiết mục hợp ca trong bộ đồ bà ba làm bao nhiêu người chạnh lòng nhớ quê hương.
Ngày thứ hai 14/04, sau Thánh Lễ rất sớm tại nhà nguyện của khách sạn do Đ.Ô Vinh đồng tế cùng với cha Quý và cha Linh, đoàn chúng tôi đi du ngoạn thăm viếng thành phố Lisbonne. Chúng tôi rảo bước khi trên những đường phố lớn, khi trên những con đường hẹp nhưng rất thành thị. Đ.Ô Vinh kể lại nguồn gốc nhà thờ Santarem, nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa loáng máu hồng. Sau buổi pique-nique, chúng tôi đến viếng bức tượng khổng lồ Chúa Cứu Thế và nhà thờ thánh Antoine thành Padou cùng những di tích lịch sử của nó.
Sáng ngày thứ ba 15/04, cũng sau Thánh Lễ tạ ơn tại nhà nguyện khách sạn, phong trào ưu đãi dành cho chúng tôi thì giờ dạo phố mua quà lưu niệm. Rồi chúng tôi trở lại Quảng Trường từ giã Đức Mẹ trong âm thầm, trong cầu nguyện và trong lòng tạ ơn sâu sắc. Mắt đăm chiêu nhìn về Quảng Trường, từ biệt Đức Mẹ mà chúng tôi cảm thấy như mình đã ở đây từ lâu lắm rồi. Một thoáng buồn vụt qua cùng với những niềm vui khôn xiết được trao tặng từ lòng lân ái của Đức Mẹ.
Rồi chúng tôi thong thả ra phi trường trở về nhà.
Cảm tạ Đức Mẹ vô cùng đã thương cho chúng tôi đến đây tham dự Đại Hội Ultreya Âu Châu và chuyện trò, vui đùa với Mẹ trong tất cả lòng mến tri ân qua những chuỗi ngày ở Fatima.
Đỗ Thục Hiền
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 12:47)
SYDNEY - Chiều thứ Sáu 25/04/2008 một số các cặp hôn nhân thuộc các Giáo Đoàn đã đến Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly Sydney tham dự Khóa 389 Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình do Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Tổng Giáo Phận Sydney tổ chức mục đích hướng dẫn Mục Vụ Gia Đình trong Xã Hội tân tiến ngày nay.
Sau khi ghi danh các anh chị em Khóa Sinh Song Nguyền tập trung trong hội trường Trung Tâm. Anh chị Tiên-Hòa trình bày về Lịch Sử của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình được thành lập từ năm 1987 do Cha Phêrô Chu Quang Minh sáng lập. Sau đó Chủ Nguyền Xuân-Yến giới thiệu mọi người Cha Giuse Hoàng Tiến Đoàn Linh Nguyền Phụ tá từ Hoa Kỳ, Cha Nguyễn Minh Thúy Linh Nguyền từ Perth (Tây Úc) Cha Nguyễn Văn Tuyết Giám đốc Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly và Paul Văn Chi Linh Nguyền Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình TGP Sydney.
Cha Văn Chi ngỏ lời chào mừng tất cả anh chị em Khóa Sinh và cầu chúc các anh chị em tham dự Khóa 389 của CT/TTHNGĐ gặt hái nhiều kết qủa tốt vàkhuyến khích các anh chị em Khóa Sinh hãy cố gắng học hiểu trong 2 ngày dự Khóa để có hành trang giúp ích cho Gia Đình sau đó Cha long trọng tuyên bố khai mạc Khóa 389.
Kế tiếp Cha Hoàng Tiến Đoàn ngỏ lời chào mừng tất cả anh chị em Khóa Sinh và Cha hướng dẫn mọi người cùng hướng về bàn thờ gia đình Thánh Gia sốt sắng cầu nguyện để xin được luôn noi gương theo gia đình Thánh Gia và đem tình yêu của gia đình Thánh Gia đến cho tất cả mọi gia đình. Sau đó quý Cha cùng hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn nguyện xin Thiên Chúa soi sáng và chúc lành cho Khóa 389. Mọi người cùng quây quần chung quanh sát bên bàn Thánh sốt sắng tham dự Thánh lễ khai mạc Khóa. Sau khi chấm dứt Thánh lễ mọi người cùng quỳ trước Thánh Thể Chúa Giêsu và cầu nguyện dâng hết tất cả tâm tình của chính mình và gia đình lên Thiên Chúa với lòng thiết tha phó thác và cậy trông. Sau khi nhận ơn phép lành, các anh chị em khóa sinh chính thức nhập khóa qua đề tài Kinh Thánh Nền Tảng Của Gia Đình do Cha Hoàng Tiến Đoàn thuyết giảng và cùng chia sẻ cảm nghiệm của các anh chị em Song Nguyền. Đồng thời các anh chị em Trợ Nguyền qua nhà Betania chầu Thánh Thể Chúa KiTô, nguyện xin Đấng Tình Yêu tuôn đổ ơn phúc lành cho các anh chị em khóa sinh đang tham dự khóa.
Trong thời gian 2 ngày của khóa 389 CT/TTHNGĐ quý Cha Paul Văn Chi, Cha Hoàng Tiến Đoàn đã giảng thuyết và giúp cho các anh chị em hiểu biết thêm về đạo đức gia đình áp dụng dựa trên nền tảng Kinh Thánh như 8 Mối Phúc Thật, Sự Hòa Giải với Thiên Chúa và Sự Hòa Thuận với mọi người trong Tình Yêu Chúa Kitô. Ngoài ra các anh chị em Trợ Nguyển cũng chia sẻ nhưng kinh nghiệm và tâm tư của mình để cùng nhau xây dựng nền tảng gia đình được hạnh phúc trong ơn phúc của Thiên Chúa.
Ngày Chúa Nhật 27/04/2008 các anh chị em khóa sinh tham dự Thánh lễ bế mạc mãn khóa do Cha Hoàng Tiến Đoàn chủ tế. Đặc biệt phần dâng Lời Nguyện các Song Nguyền đã mạnh dạn đứng trước bàn thờ dâng lên Thiên Chúa với những khuyết điểm yếu đuối của mình để xin Chúa chữa lành và soi sáng hoán cải tâm hồn để xứng đáng là công cụ của Chúa trong lãnh vực Tông Đồ Song Đôi. Sau khi kết thúc Thánh lễ mọi người qua bên nhà ăn hội trường tham dự bữa tiệc bế mạc kết thúc khóa 389 CT/TTHNGĐ với những niềm vui tươi hân hoan và hạnh phúc sau 2 ngày tham dự khóa.
Diệp Hải Dung
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:57)
HUẾ - Chúa Nhật VI Phục sinh (27/4/2008), sinh viên công giáo học tập tại đây đã có cuộc gặp gỡ tại Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải chờ đợi lâu, hội trường của cộng đoàn Dòng đã nóng lên bởi tiếng vỗ tay chào mừng, những lời ca tiếng hát của hơn 800 trăm sinh viên. Đến với buổi gặp gỡ này các bạn có cơ hội nói chuyện về đề tài: "Con là một kì quan", bàn về vấn đề "sống thử", với sự giúp đỡ của nhóm Cha Quang Huy. Mục đích của lần nói chuyện này nhằm giúp cho mỗi bạn sinh viên có được những niềm vui khi hè về, có những ngày hè đảm bảo cho tương lai và đảm bảo cho đức tin, luôn lý để mỗi người tự tin bước vào đời, giữ đựơc sự bằng yên trong tâm hồn và sống đúng tinh thần phúc âm: "ai yêu mến thầy thì giữ lời thầy."
|
| BS Nguyễn Lê Hải nói chuyện với sinh viên |
Sống trong thời kì hiện đại hoá thì tình yêu - sự thiêng liêng cao cả - cũng hiện đại hoá theo. Hiện đại bởi những mối tình "sét đánh", những "cuộc tình thoảng qua" và cũng vội vã trao cho nhau "trái cấm."
"Sống thử" từ lâu đã trở thành vấn đề "nóng" của sinh viên. Nó làm băng hoại những giá trị đạo đức, giá trị người mà Thượng đế là Thiên Chúa toàn năng đã dành tặng cho mỗi con người trong cuộc đời. Thế nhưng các bạn trẻ lại tỏ ra quá quen thuộc với cái cảnh "góp gạo nấu cơm chung" và nhiều người lại tỏ ra hài lòng với cách sống phi đạo đức đó. Còn các bạn sinh viên Công giáo, chúng ta phải làm gì để có thể tránh được điều đó?
Để trả lời cho câu hỏi này, Bác sĩ, Thạc sĩ, chuyên gia tâm lý Nguyễn Lan Hải đã có cuộc trò chuyện, diễn thuyết về KĨ NĂNG SỐNG trong thời "yêu vội, sống gấp."
"Sống thử" một khái niệm quá quen thuộc đối với sinh viên, hiểu nôm na là hai người yêu nhau, dọn về ở cùng nhau mà không cần sự cho phép của gia đình, chính quyền. Rồi hậu quả của nó sẽ đi đến đâu? Câu trả lời dành cho những ai đã chứng kiến, đã trải qua.
Có nhiều bạn sinh viên đã thẳng thắn đưa ra quan điểm của mình: "Tôi nghĩ rằng tôi đã sẵn sàng quan hệ với người tôi yêu". Nếu bạn nghĩ rằng mình đã trưởng thành, bạn tự chịu trách nhiệm, rằng bạn đã sẵn sàng làm "chuyện ấy" với người yêu. Còn không bạn hãy tự xây dựng cho mình một kĩ năng sống.
Để có được một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu trong sáng theo đúng nghĩa của nó đó là cả một vấn đề mà không phải ai cũng có thể làm được. Chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe, cùng nhau tìm hiểu và học tập 9 điều trong Kĩ năng sống của bác sĩ, chuyên gia Lan Hải:
1. Đặt mục tiêu.Khi bắt đầu cho một tình yêu, hãy nghĩ kĩ xem bạn muốn mọi chuyện đi tới đâu và đặt ra những mục tiêu cho riêng mình. Bạn nghĩ gì về tương lai? Đừng đánh mất tương lai của chính mình.
Hãy cho người yêu biết rõ nguyên tắc của bạn, người ấy cần tôn trọng những mục tiêu và giới hạn mà bạn đặt ra.
2. Bảo vệ chính mình và người yêu
Trước khi "chuyện ấy" xảy ra, hãy trò chuyện với người bạn yêu về việc có thể có thai và những hệ lụy của nó.
Nếu bạn hoặc người yêu đã quan hệ tình dục trước đó, liệu có gì về bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ? Làm sao để bảo vệ cả hai một cách hiệu quả?
3. Hãy thực tế.Tình dục có thể là một phần tuyệt vời của một tình yêu được chăm sóc, đặc biệt khi hai người có thể nói chuyện một cách cởi mở, chân thành về những gì mình muốn. Nhưng hãy thực tế, đó là thứ bạn học hỏi lẫn nhau qua thời gian, không phải là một trò chơi, một cam kết được đảm bảo, cũng không phải thần dược để cải thiện một mối quan hệ tồi.
4. Hãy nói không.Bạn có quyền nói "không" với quan hệ tình dục và hoàn toàn thoải mái về quyết định của mình.
Nói không sẽ đem lại cho bạn nhiều lợi ích: không lo lắng về mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây qua đường tình dục, dành thời gian cùng suy nghĩ, trò chuyện về mối quan hệ của hai người và các đề tài khác.
Không cần giải thích lý do bạn từ chối. Nhưng nếu người yêu của bạn gây áp lực để được "nếm trái cấm" thì bạn hãy thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình.
5. Có sẵn vài câu trả lời.Đứng trước chuyện ấy" khi mà ý chí đã vô hiệu, bạn gái cần chuẩn bị sẵn cho mình vài câu trả lời:
Nếu chàng thủ thỉ: "Em phải chiều anh, nếu em yêu và tin tưởng anh".
Bạn đừng ngần ngại: "Nếu yêu em thực sự, anh sẽ không thúc ép em".
Chàng tiếp: " mọi người đều làm vậy mà!"
Bạn hãy nói: "Nhưng em không phải là mọi người."
Chàng vẫn không ngừng tấn công: " Anh cần em, anh muốn em, anh phải có em."
Bạn hãy quả quyết: " Không đâu! Nếu em đợi được, anh cũng đợi được."
Còn nếu chàng nổi cáu: "Nếu em không đồng ý, anh sẽ tìm cô gái khác."
Bạn chớ có mềm lòng: "Được thôi anh cứ thử đi."
Có thể bạn sẽ có nhiều câu trả lời hay hơn nữa, tế nhị hơn nữa để thuyết phục chàng và gìn giữ cho tình yêu của mình.
6. Đặt ra những giới hạnBạn muốn tiến tới đâu trng mối quan hệ của bạn vào thời gian này. Bạn nghĩ sao về một nụ hôn nhẹ nhàng?Một nụ hôn sâu kiểu Pháp? Hay những cái âu yếm vuốt ve nhau dưới nhiều hình thức, góc độ … Để người yêu làm vậy với bạn?
Đừng làm những gì mà bạn không muốn dù chỉ vì tò mò. Hãy chắc chắn rằng người yêu của bạn biết rõ những gì bạn cảm thấy và tôn trọng những giới hạn bạn đặt ra.
7. Hãy tỉnh táo.Bia rượu và các chất kích thích sẽ làm bạn khó giữ mình. Hãy cố gắng không rơi vào những tình huống thử thách giới hạn bạn đã đặt ra. Chẳng hạn, đừng bao giờ uống bia, rượu khi ở một mình với người yêu…
8. Xin lời khuyên Hãy hỏi những người mà bạn tin cậy thông tin cần thiết về giá trị của tình yêu, giới tính quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các bệnh lây lan qua đường tình dục, sự thụ thai hay cách phòng tránh xâm hại tình dục…
Có thể gọi đến các chương trình tư vấn để được các chuyên gia hỗ trợ.
9. Khoái lạc khác hạnh phúcNhiều bạn đã lầm tưởng hạnh phúc là sự thoả mãn về nhục dục, gắn tình yêu với tình dục bất chính. Hãy một lần nhìn lại bản thân để nhận ra "Đâu là hạnh phúc đích thực!"
Hạnh phúc luôn là niềm vui, là cảm nhận về những điều thiện hảo. Hạnh phúc không thể tìm thấy trong tội lỗi.
Khoái lạc cũng là hạnh phúc, một khi diễn tả tình yêu vợ chồng và hướng tới tác phẩm tuyệt vời là con cái. Đôi khi cám dỗ đẹp như niềm hạnh phúc (chẳng ai chọn cái xấu vì nó xấu).
Chúng ta không phải nói thêm, không cần phải bàn luận thêm về "Sống thử" mà cần phải thấy được rằng đó là điều đáng lên án trong xã hội và đăc biệt là đối với mỗi người sinh viên công giáo chúng ta. Hỡi các bạn trẻ, chúng ta đừng cố nguỵ biện cho những quan điểm, những hành động, những tư tưởng sai lệch về tình yêu, về "Sống thử".Hãy tập cho mình một kĩ năng sống, đó chính là chìa khoá để các bạn mở và giữ trọn tình yêu của mình.
Nguyễn Đông
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:52)
HUẾ - Nam nữ sinh viên sống thử là vấn nạn nhức nhối, nỗi đau chung của toàn xã hội. Lo ngại hơn, nó đẩy hiện tượng lệch lạc văn hoá này sang một mức độ mới: nhanh hơn, phổ biến hơn và cũng đáng sợ hơn. Theo kết quả khảo sát đời sống sinh viên do Ban Tư tưởng Văn hóa TW, Bộ GD-ĐT và Văn phòng Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của Bộ VHTT phối hợp thực hiện năm 2006 tại 30 trường CĐ, ĐH và TCCN trên toàn quốc thì “sống thử” được coi là biểu hiện đáng lo ngại thứ hai trong đời sống văn hóa của SV, chỉ xếp sau “không chịu học hành, xin điểm, quay cóp”.
Trào lưu sống thử, những mối tình ri đô và phong trào góp gạo thổi cơm chung tiếp tục là mốt của nhiều sinh viên (Theo Vietnamnet). Mong muốn trang bị những kiến thức nhằm giúp các em đối diện vấn nạn này, Trung tâm mục vụ dòng Chúa Cứu Thế đã tổ chức nhiều hoạt động để sinh viên tìm hiểu, học hỏi nhằm đối diện một cách hiệu quả. Buổi sinh hoạt hôm 27/4/2008 tại hội trường dòng Chúa Cứu Thế Huế không nằm ngoài mục đích đó. Nó tiếp nối chuỗi các buổi sinh hoạt “Con là một kỳ quan” do bác sỹ Têrêsa Nguyễn Lan Hải và các cha dòng Chúa Cứu Thế thực hiện liên quan đến vấn đề bảo vệ sự sống con người, phòng chống tệ nạn phá thai.
Buổi sinh hoạt khai mạc lúc 14h chiều Chúa Nhật cuối tháng 4 thu hút gần 800 anh chị em sinh viên Huế đến tham dự. Bằng lối nói chuyện dí dỏm, hấp dẫn kết hợp với nhiều câu chuyện thực tế đời thường; bác sỹ Lan Hải đã cuốn hút người tham dự qua việc thuyết trình về đề tài đang có ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống của họ.
Trước hết, anh chị em sinh viên được vị bác sỹ hiện là thành viên UB Bác Ái Xã Hội thuộc HĐGMVN trình bày về khái niệm “sống thử”, những quan niệm thông thường về lối sống ấy, hiện trạng trong cuộc sống thanh thiếu niên thế giới và Việt Nam. Thật đáng tiếc để biện minh cho hành động của mình có bạn đã ngụy biện rằng nên thử trước xem có thích hợp không để tiến tới hôn nhân thì mới bền vững. Quan niệm như vậy chẳng khác nào nào “Hàng xài không hợp trả lại”, xem chính mình như những món hàng đổi chác, tự hạ thấp phẩm giá chính mình.v.v.
Sống thử mang lại những hậu quả đáng tiếc cho đời sống hiện tại của các bạn trẻ và ảnh hưởng đến tương lai lâu dài không thể nói hết về vật chất và tinh thần. Khi họ sống thử như vậy, nhiều lúc việc ngừa thai nhân tạo thất bại. Cuộc sống sinh viên tạo áp lực xô đẩy họ đi đến các trung tâm nạo phá thai, từ bỏ đứa con thân yêu của mình.Thật đau xót làm sao khi được nghe những thông tin mà bác sỹ đưa ra về con số phá thai tại Việt Nam, một hậu quả của lối sống thử ưa hưởng thụ. Việt Nam là một trong ba quốc gia có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, mỗi năm có khoảng 2,4 triệu ca phá thai trong đó lứa tuổi vị thành niên chiếm 1/5. Những sinh linh nhỏ bé chưa kịp ra đời đã bị giết đi hàng năm tương đương với dân số một tỉnh trung bình Việt Nam. Nhiều miền trên đất nước, những nghĩa trang chôn cất các hài nhi được các nhóm Bảo vệ sự sống thiết lập như ở Sài gòn, Nha Trang, đồi Ngọc Hồ - Huế, Gia Hòa – Vinh và nhiều nơi khác với con số hàng trăm, hàng ngàn ngôi mộ. Và như cha Xuân Đường trong bài “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi....” đã đưa ra hình ảnh thiên thần ở đồi Ngọc Hồ đang ôm mặt khóc. Những thiên thần của các em chưa kịp thực hiện sứ vụ mà Chúa giao cho mình đã bị “thất nghiệp” bởi vì thai nhi đó đã sớm bị loại trừ ra khỏi cung lòng và tình thương của người mẹ.
Đối lập với lối sống thử nói trên là những mối tình trong sáng, thánh thiện, biết hy sinh và tôn trọng lẫn nhau. Nhưng làm thế nào để có tình yêu đích thực đó là một vấn đề quan tâm của nhiều bạn, đặc biệt là những sinh viên nữ. Vị chuyên gia tư vấn nhiều kinh nghiệm của nhóm Bảo vệ sự sống đã trả lời cần phải biết định hướng cho tình yêu của mình, cách cơ bản nhất là phải cố gắng trở nên một người đẹp trong mắt mọi người về ngoại hình, tính cách và nhất là tâm hồn. Bác sỹ Lan Hải phân tích thêm về những thực trạng tình yêu hiện tại đó là yêu sớm, yêu thử, tình yêu văn phòng và lối sống chung không lập gia đình.... Đây là những biểu hiện làm cho tình yêu không đẹp như bản chất của nó trong giai đoạn hiện nay. Qua đó, bác sỹ cung cấp những ngộ nhận về tình yêu, giúp các bạn trẻ tránh những sai lầm thường gặp. Theo chị, để tránh ngộ nhận cần phải soi mình vào tình yêu Thiên Chúa để thấy được tình yêu hiện tại của mình.....Để kết thúc cho phần trình bày của mình, một câu hỏi được bác sỹ đưa ra mà chắc lẽ những ai tham dự buổi sinh hoạt hôm nay đều có thể tự trả lời, tự xác tín cho mình và cho bạn bè: “Sống thử: được gì và mất gì?”
Cùng sinh hoạt với sinh viên trong buổi chiều này còn có Lm – bác sỹ Hoàng Sô Băng. Cha đã kết hợp hài hòa lời chia sẻ về tình yêu thông qua màn ảo thuật với những vật dụng quen thuộc như chiếc khăn, chiếc vòng, tập vở....Xen lẫn các bài chia sẻ, để thêm không khí cho buổi sinh hoạt, các anh chị linh hoạt viên sinh viên Huế đã giúp cho hội trường những lời ca, những vũ điệu, những trò chơi vui vẻ.....
Sinh hoạt cũng là dịp để sinh viên nêu lên những thắc mắc của mình trong tình yêu, hôn nhân, lối sống. Những câu hỏi mà sinh viên đưa ra là những câu hỏi bám sát thực tiễn, những chuyện thường gặp như thái độ với những đòi hỏi xác thịt của người yêu, hôn nhân khác đạo, đời sống gia đình, nạo phá thai. v.v.
Hội ngộ và chia tay là qui luật cuộc sống, còn nhiều và rất nhiều vấn đề để nói nhưng với thời lượng một buổi sinh hoạt không đủ để nói hết những khúc mắc, trăn trở của các bạn sinh viên. Giờ tĩnh nguyện kết thúc buổi sinh hoạt được tiến hành sau giờ ăn tối tập thể ngay tại hội trường. Cả hội trường tập trung hướng về Thánh Thể Chúa với những ánh nến rực rỡ bao quanh. Trong chất giọng êm ấm ngọt ngào của Cha giám đốc Đệ tử viện Phaolô Nguyễn Xuân Đường trên nền nhạc Latinh du dương, trầm bổng; những lời cầu nguyện được cất lên. Đây chính là giây phút lắng đọng tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa nói sau một buổi chiều sinh hoạt sôi động, đầy bổ ích và lý thú.
Như bao buổi sinh hoạt sinh viên khác, người tham dự cũng ra về. Nhưng! điều quan trọng là người sinh viên Huế thu lượm được gì qua buổi sinh hoạt này? Họ đã ra về với nhiều tình cảm, nhiều bài học và kiến thức thực sự bổ ích, lý thú. Quỳnh Hoa - một sinh viên Hà Tĩnh đang theo học ngành Sư Phạm Mầm non tại đây cho biết: “Buổi sinh hoạt giúp tôi chuẩn bị hành trang vào đời sau này, nhận thấy mình cần phải phấn đấu hơn nữa để trở thành một người sinh viên tốt hơn, gần gũi Chúa hơn. Mong muốn có nhiều buổi sinh hoạt hơn nữa với lượng thời gian dồi dào hơn để có thời gian trực tiếp gặp gỡ các chuyên gia tư vấn.”
Và như lời của sinh viên Gioankim Bùi Khắc Nam phát biểu: “Thật hạnh phúc biết bao khi hôm nay chúng con lại được sum họp tại dòng Chúa Cứu Thế thân thương này với sự tiếp đón ân cần của cộng đoàn làm chúng con vơi đi nỗi nhớ cuộc sống xa nhà, những lo toan của các kì thi. Chùm đề tài mà bác sĩ Lan Hải và nhóm Bảo vệ sự sống cung cấp thực sự hữu ích cho chúng con vì nó giúp chúng con nhận ra những điều kỳ diệu mà Đấng Tạo Hóa thực hiện nơi chúng con để giúp chúng con thêm yêu mến và thiết tha tuân giữ giới luật của Ngài. Chúng con xin hết lòng tri ân.”
Ước mong rằng những buổi sinh hoạt về tình yêu được nhóm Bảo vệ sự sống dòng Chúa Cứu Thế tổ chức rộng rãi hơn trong nhiều nhóm sinh viên khắp toàn quốc để góp phần nâng đỡ những sinh viên có kiến thức thực tiễn giúp ích đời sống chính mình và bạn bè trong một môi trường đầy dẫy cạm bẫy, thử thách hiện nay.
Trần Đức Hà - Trần Trung
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 10:57)
Bùi Hữu Thư/VATV2008
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 22:14)
Thành Lập Chi Hội Chuyên Gia và Doanh Nhân Công Giáo Việt Nam tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn
Arlington, Virginia (17/4/2008): Ngày Thứ năm 17/4/2008 đúng ngày Đức Thánh Cha Benedict XVI dâng thánh lễ tại National Park (Hoa Thịnh Đốn) cũng là ngày ra mắt Ban Chấp Hành Lâm Thời của Chi Hội Chuyên Gia và Doanh Nhân Công Giáo Việt Nam tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn dưới sự chủ toạ của Đức Cha Mai Thanh Lương, người sáng lập Hội Chuyên Gia và Doanh Nhân Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Sau cả tuần mưa tầm tã và gió lạnh, mấy ngày Đức Thánh Cha tới Hoa Thịnh Đốn, trời nắng ấm tuyệt vời. Đức Cha Mai Thanh Lương đã đến Virginia mấy ngày trước và được Cha Nguyễn Đức Vượng, chánh xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Arlington tiếp đón.
Đức Cha Lương đã tiếp xúc trước với Cha Vượng và Ông Bùi Hữu Thư, Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ CTTĐVN, cho nên giáo xứ đã tổ chức một bữa tiệc vào buổi tối ngày 17/4/2008 để Đức Cha Lương trình bầy Tôn Chỉ, Mục Đích, Quyền Lợi, Bổn Phận, Tổ Chức, Trụ Sở và Các Công Tác Tương Lai của Hội Chuyên Gia và Doanh Nhân Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Bữa tiệc do nhà hàng Thần Tài cung cấp thức ăn và tiếp đãi. Có trên 200 vị khách và giáo dân trong giáo xứ thuộc các hội đoàn tham dự. Sau khi Đức Cha Lương trình bầy, mọi người đã hăng hái ghi danh gia nhập Chi Hội Chuyên Gia và Doanh Nhân Công Giáo Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn.
Đức Cha Lương đã mời Cha Nguyễn Đức Vượng làm tuyên uý, ông Bùi Hữu Thư làm Chi Hội Trưởng và ông Nguyễn Ngọc Lễ làm Thư Ký của Ban Chấp Hành Lâm Thời, trong khi chờ đợi việc tổ chức bầu cử Ban Chấp Hành Chính Thức vào cuối năm 2008.
Bữa tiệc chấm dứt sau các màn văn nghệ giúp vui của các cha, các sơ và giáo dân hiện diện.
|
| Đức Cha Mai Thanh Lương Đang Trình Bầy Về Hội Chuyên Gia và Doanh Nhân |
|
| Quang Cảnh Bữa Tiệc Ra Mắt Chi Hội Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn |
|
| Bàn Đức Cha có Cha Vượng và Cha Minh |
|
| Đức Cha Lương, Cha Tuyên Uý Vượng, và Ban Chấp Hành Lâm Thời: Ông Thư và Ông Lễ |
Bùi Hữu Thư
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 20:01)
PARIS - Ðã thành thông lệ, mỗi năm một lần, các ca đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris họp nhau vào cuối tháng tư để cùng cầu nguyện với nhau qua thánh ca, hát cho nhau nghe và học hỏi, trao đổi về thánh nhạc và thánh ca. Năm nay cuộc họp mặt đã được tổ chức vào thứ bảy 26/04/2008, từ 10 đến 16 giờ 30. Các ca đoàn đã học hỏi về đề tài: « Con tim muốn hát ». Ba khía cạnh đã được ba diễn giả chia sẻ và hướng dẫn thảo luận (Sơ và hai cha khiêm tốn, xin đừng nêu tên, xin tạm gọi là sơ Marie, cha Phêrô và cha Phaolô).
• Sơ Marie chia sẻ về « Từ con tim đến con tim trong Thánh Ca »
• Cha Phêrô nhận định về « Vai trò của ca đoàn trong thánh lễ »
• Cha Phaolô chia sẻ về « Thánh Vịnh, Bộ Lễ: chia sẻ và ghi nhận ».
Do đề nghi của ba diễn giả, cô Anh Thư, trưởng ban tổ chức đã khéo léo dùng nhiều phương thức khác nhau để mời mọi người chia sẻ về thánh ca, khi thì cô nhờ các ca đoàn tham dự hát, lúc thì cô nhờ cha Phaolô hoạt náo, lúc cô lại dùng bữa ăn để mọi người chia sẻ, lúc cô lại dùng hội thảo,…Tài khéo tổ chức ấy đã mời mọi người tham dự hội thảo đi qua năm giai đoạn chương trình. 1- Tiếp đón và khai mạc, 2- Hát với nhau và chia sẻ theo ba khía cạnh của chủ đề, 3. Bữa ăn huynh đệ, 4. Sinh hoạt và hội thảo và 5. Thánh lễ tạ ơn. Bài tường thuật ngắn này xin chỉ trình bày điểm nhất và điểm hai và rút gọn. Xin các diễn giả tha thứ những sai, thiếu.
1. Tiếp đón và Khai mạc
Từ 9 giờ 30, các ca viên của các ca đoàn trong giáo xứ đã từ từ đến giáo xứ, tay bắt, mặt mừng, thăm hỏi nhau. Dẫu là thứ bảy, nhiều người phải đi làm, nhưng sáu trên tổng số 12 ca đoàn đã đáp lời mời của Ủy Viên Phụng Vụ và Thánh Nhạc về tham dự buổi họp mặt. Ðó là các ca đoàn: Ca đoàn Giáo xứ, Sarcelles, Villiers-le-Bel, Triều Dâng, Nhóm Ðàn dân tộc và Ban Phụng Ca Lê Bảo Tịnh.
Chung quanh một dẫy bàn dài, mọi người được mời dùng ly cà phê hay chén trà nóng, với bánh ngọt, tụm ba tụm bảy nói chuyện vui vẻ. Tập hồ sơ gồm chương trình, các bài thánh ca, các bài hoạt ca sẽ xử dụng trong buổi họp đã được chuẩn bị và in sẵn. Mỗi người được mời lấy một tập.
Giờ khai mạc đã tới. Cô Anh Thư mòi mọi người bỏ không gian tiếp tân, chuyển qua không gian hội họp. Trên dưới 60 khuôn mặt, tề chỉnh quây quần qua ba hàng ghế xếp hình bán nguyệt, cùng quay về bàn thuyết trình, theo lời mời của cha Phaolô, hát chung « Bài ca hiệp nhất »: Xin hiệp nhất chúng con, nên một trong tình yêu Chúa,…
Cô Anh Thư ngỏ lời chào mừng 6 ca đoàn hiện diện, giới thiệu đề tài thảo luận « Con tim muốn hát », giới thiệu ba diễn giả: sơ Marie, cha Phêrô và cha Phaolô. Cô cũng đặc biệt nhắc đến sự quan trọng của phụng vụ và thánh nhạc trong sinh hoạt mục vụ của giáo xứ, cám ơn sự hiện diện ưu ái của Ðức Ông Giuse và mời ngài ban lời khai mạc.
« Con tim muốn hát », theo Ðức Ông Giuse, là một tâm tình rất gần với thánh vịnh. Có thể bảo rằng tất cả thánh vịnh là một chuỗi những lời ca của con tim nâng lời chúc tụng Chúa, ca khen Giavê. « Con tim muốn hát » cũng là tâm tình của bài ca « Magnificat » mà Mẹ Maria đã tung hô Chúa với cả tấm lòng mình.
Thực ra trong đời sống hằng ngày, con tim ta đã hát, và đã hát nhiều lần. Ta hát trong cộng đoàn, với cộng đoàn, để cùng cầu nguyện với cộng đoàn, để ca tụng Chúa. Tiếng hát của ta là biểu lộ tâm tình của ta, là sức mạnh của ta và của cộng đoàn, giúp ta sốt sắng hơn, đoàn kết hơn, liên đới hơn, yêu mến Chúa hơn. Tiếng hát của ta chính là lời cầu nguyen của ta. Tiếng hát hay đã giúp ta cầu nguyện tới hai lần. Thánh Augustinô bảo vậy. Con tim của ta nhỏ bé, giới hạn trong cơ thể ta, nhưng tiếng hát của ta đã bay cao, vươn lên tận tới trời xanh, Ngai Tòa Chúa, vang rộng ra khắp cùng vạn vật, cỏ cây, đất nước, sông biển, núi đồi (thánh Phanxicô).
Cái gì đã thúc đẩy ta hát ? Vì ta hay hát: hát để bày tỏ tâm tình, để ca tụng Chúa, để cầu nguyện với anh em; hát vì đức tin, đức cậy, đức mến thúc đẩy; hát vì biết mình hát cho ai và hát để làm gì ! Vì ta hát hay: Chúa đã cho ta có tiếng tốt, có khiếu hát, có khả năng và hiểu biết về hát. Ðộng lực thúc đẩy « con tim muốn hát » như vậy, là một động lực cao cả, linh thiêng, thánh thiện. Xin Thần khí và Thánh thần Chúa hướng dẫn, suởi ấm và thức đẩy ta luôn, để « tim ta luôn luôn muốn hát », hát bài ca tụng Chúa, hát bài tin, cậy, mến Chúa, hát bài bác ái và liên đới với an hem, với cộng đoàn.
2. Hát với nhau và chia sẻ theo ba khía cạnh của chủ đề
Sau lời khai mạc của Ðức Ông Giuse, cha Phaolô giới thiệu phần hai của chương trình. Ðây là phần quan trọng nhất của ngày họp mặt hội thảo hôm nay. Phần này gồm ba bài chia sẻ của ba vị thuyết trình và sáu diễn nguyện thánh ca do sáu ca đoàn hiện diện trình diễn.
Là người hoạt náo và chủ sự phần này, Cha Phaolô đã khéo léo trình bày ba tiêu chuẩn hướng dẫn thảo luận bằng cách mời mọi người hát ba bài hoạt ca:
• Lý tưởng của tôi là đem Chúa cho muôn người,…
• Hãy quên đi cái tôi để đem Chúa đi vào đời,…
• Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp, là lòng bao dung, hy sinh, là tình yêu thương,…
Như một con chim kia, chỉ hát có một lần, rồi chết. Tiếng hát của nó độc đáo, rền vang khắp núi đồi thế gian, tiếng hát của nó tuyệt vời, khiến cả Thượng Ðế cũng phải mỉm cười thưởng thức. Nhưng tiếng hát của nó, chỉ hát có một lần. Vì để hát, nó đã phải bay lên cao, lao mình vào bụi gai, toàn thân bị xé rách. Có người đã dùng hình ảnh này để diễn tả tình yêu của Chúa Kitô, do Thần khí thúc đẩy, vì lòng mến Chúa Cha, cam chịu đau khổ, để hát lên tiếng hát ca tụng Thiên Chúa và cứu chuộc nhân loại. Mẹ Maria cũng với cả tấm lòng mình, bằng cả thần khí tâm hồn mình, đã hát bài ca « Magnificat » ngợi khen Chúa. Ðó là ý tưởng chủ lực của chủ đề « Con tim muốn hát ».
Qua lời giới thiệu vắn tắt mà ý nghĩa ấy, cha Phaolô mời mọi người thưởng thức bốn bản thánh ca, do bốn ca đoàn trình diễn. Ban Phụng Ca Lê Bảo Tịnh trình diễn bài « Lắng nghe tiếng Chúả của Nguyễn Duy; Ca đoàn Sarcelle bài « Xin dậy con yêu Ngài » của Thành Tâm; Ca đoàn Villier-le-Bel bài « Hãy thương yêu nhau » của Thành Tâm; ca đoàn Triều Dâng bài « Ðem Tin Mừng » của Martinô.
2a. Bốn ca đoàn đã hát với cả con tim mình bốn bài thánh ca. Sơ Marie đặt 3 câu hỏi « Con tim muốn hát, nghĩa là sao » ? « Con tim muốn hát, hát ở đâu » ? Và « Con tim muốn hát, hát làm sao » ?
Ðặt vấn đề là bước đầu tìm ra câu trả lời. Hát là một hành đông truyền cảm. Nhưng cái cốt tủy, cái sâu xa, cái linh đạo, cái hồn của lời hát là con tim. Nói rằng « Con tim muốn hát » là nói đến cái linh đạo của thánh nhạc, cái hồn của thánh nhạc. Cũng như nói đến càrốt là nói đến « cái củ » được chôn sâu, che dấu dưới lòng đất, chứ không phải cái lá lộ diện bên trên, bên ngoài.
Cái hồn thánh nhạc này phải được thể qua tất cả những lời hát thánh ca, nhất là thánh ca phụng vụ. Thánh ca phụng vụ, có đặc tính thánh thiện, là một cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nó có sức mạnh làm rung chuyển tâm hồn, làm rung động con tim. Nó có sứ mệnh của một sứ điệp, của một cây cầu. Nếu các ca viên hát với con tim, họ sẽ hát với tình yêu và họ sẽ diễn tả được tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, họ sẽ cộng tác đắc lực vào Tin Mừng Tình Yêu của Ðức Kytô. Muốn đạt được trình độ ấy, các ca viên cần tự đào tạo mình trong cuộc sống hằng ngày: đào tạo về kỹ thuật âm nhạc và ca hát, về phụng vụ, về Lời Chúa, về Tin Mừng của Chúa,..nghĩa là để « Con tim muốn hát » được hát với cả lòng mình, ta phải hát trong thánh ca đã vậy, mà cả trong cuộc đời mình nữa.
« Như tiếng sơn ca trên cao tìm ra hồn; Vâng, con sẽ hát và sẽ hát mãi; Dù chông gai, con sẽ vào hái hoa hồng; Gai càng nhọn, tiếng con hát càng thanh; Gai càng sắc, tiếng con hát càng cao,… ». Con tim muốn hát sẽ phải hát một cách thánh thiện, sự thánh thiện bao phủ cả bốn khía cạnh, từ lời ca, câu nhạc, qua cách trình diễn, đến sự liên kết với phụng vụ.
Tiếp lời Sơ Marie, cha Phaolô gợi ý phân biệt ba loại ca: hoạt ca, giáo ca và thánh ca. Về thánh ca, nên phân biệt thánh ca vào đời và thánh ca phụng vụ, và chỉ có thánh ca phụng vụ mới được hát trong thánh lễ.
2b. Nhóm Ðàn Dân Tộc trình tấu bài « Dấu Ấn tình yêu » của Ân Ðức. Cha Phêrô trình bày khía cạnh thứ hai của đề tài: « Vai trò của ca đoàn trong thánh ca phụng vụ thánh lễ ».
Năm vấn đề đã được cha Phêrô gợi ra:
• Tầm quan trọng của thánh ca phụng vụ. Thánh ca và thánh nhạc đều có mục đích chính là làm sáng danh Chúa và thánh hoá giáo dân. Do đó, thánh ca phải hướng về sự cầu nguyện. Hát là cách biểu lộ niềm vui, dạ chân thành, tình yêu mến. Thánh Augustinô bảo « Hát là việc của người yêu ». Ngài cũng nói « Hát hay là cầu nguyện hai lần », có nghĩa là hát nâng cao hiệu năng của lời cầu nguyện.
• Vai trò của ca đoàn trong việc cử hành phụng vụ. Tham dự vào phụng vụ có nhiều thành phần: chủ tế, cộng đoàn, người đọc sách thánh, ca đoàn, người đệm đàn. Vai trò của ca đoàn có một vị trí đặc biệt ở chỗ nó phải làm nổi tính chất thánh thiện và nghệ thuật cao của thánh ca. Vai trò quan trọng của ca đoàn, bởi vậy, đầu tiên là phải giúp cộng đoàn hát đúng. Ca đoàn hát trước cộng đoàn, với cộng đoàn, giữa cộng đoàn và cùng cộng đoàn. Nhờ vậy, vai trò kế tiếp của ca đoàn là làm cho nghi lễ thêm long trọng, giúp cộng đoàn thêm hiệp nhất. Ðức thánh cha Phaolô VI nói: ca đoàn có một nhiệm vụ cao quí và quan trọng: tăng tính nghệ thuật thêm hay và tốt, làm cho nghi thức thêm đẹp, đưa ra sự trong sáng, dễ thưa, dễ hát, tăng thêm sự cảm thông và có tính cảm kích, giúp cộng đoàn cầu nguyện sốt sắng hơn. Thánh ca có tính chất thánh hóa. Do đó, các ca đoàn phải chuẩn bị, phải tập luyện, phải ý thức vai trò của mình trong tác vụ tập thể.
• Tư cách cần thiết của các ca viên. Vì những vai trò quan trọng như trên, các ca viên phải có một số tư cách cần thiết, như phải là kytô hữu, phải có một sự huấn luyện căn bản về phụng vụ, phải có lòng đạo đức, phải có hiểu biết căn bản về giáo lý, phải có khả năng tối thiểu về kỹ năng ca hát, phải có tinh thần tông đồ phục vụ, phải biết sống tinh thần liên đới cộng đoàn, phải có lòng mến Chúa, ưa thích cầu nguyện,…
• Vị trí không gian của ca đoàn trong thánh đường. Không nên ở trên tầng đàn, vì xa cách với cộng đoàn; Cũng không nên ở sau bàn thờ, hay ngay trước bàn thờ, vì làm phiền cộng đoàn. Tốt nhất là ở vào một bên bàn thờ, ca trưởng có thể điều khiển ca đoàn và cộng đoàn.
• Và ý muốn hát mỗi ngày mỗi tốt hơn, mỗi ngày mỗi hay hơn. Ðiều này giả sử ca đoàn phải ý thức được vai trò của mình, biết trau dồi kiến thức và nghệ thuật hát, biết tăng tiến tinh thần cầu nguyện liên tục.
2c. Ca đoàn giáo xứ trình bày bài « Trong trái tim Chúa » của Phanxicô. Cha Phaolô chia sẻ khía cạnh thứ ba của đề tài: « Thánh vịnh và Bộ lễ ».
Ta có thể không hát ca nhập lễ, ca dâng lễ. Nhưng phải hát thánh vịnh. Thánh Vịnh là lời của Chúa. Ta không được đổi ca từ, cần hát hay mà không cần công diễn. Ta có thể dùng các thánh vịnh của Kim Long, Ðỗ Vỹ Dạ, Tiến Linh.
Hát thánh ca, qua thánh vịnh hay bộ lễ, đều phải hát với sự thánh thiện, tính nghệ thuật và tình phổ quát. Hiện nay có rất nhiều bộ lễ đang được xử dụng trong phụng vụ thánh lễ. Ở hải ngoại, chúng ta thường xử dụng bộ lễ Seraphim, bộ lễ Vào Ðời của Lm Thành Tâm, bộ lễ của cha Nguyễn Văn Trinh... Các bộ lễ này đôi khi được hát chung trong một thánh lễ, có nghĩa là được xử dụng uyển chuyển trong 1 thánh lễ, ca đoàn chọn Kinh Thương xót của bộ lễ này, nhưng lại hát Kinh Vinh Danh của bộ lễ khác... Thực ra, theo tinh thần của Giáo Hội, trong phần bộ lễ có 2 yếu tố cần lưu ý:
- Lời ca phải sát với bản văn;
- Nhạc phải sát với thể loại bình ca...
Cần hát trọn một bộ lễ trong 1 thánh lễ, không nên sử dụng nhiều bộ lễ trong cùng 1 thánh lễ. Và vì những lý do vừa nêu trên, theo ý kiến tôi, tôi rất thích hát bộ lễ Seraphim và bộ lễ Ca lên đi 2 của cha Kim Long... Tôi cũng hy vọng trong tương lai, sẽ có nhiều nhạc sĩ công giáo sáng tác những bộ lễ mới để làm phong phú phần ca bộ lễ trong thánh ca Việt Nam".
Thời gian đi quá mau. Thấm thoát đã quá trưa. Mọi người được mời lên phòng cơm dùng cơm trưa do giáo xứ khoản đãi. Cha Trần Anh Dũng đích thân làm đầu bếp. Ngài trổ tài qua món chính « Bún gà nấu măng ». Ba hàng bàn dài kê sát nhau. Mỗi dẫy bàn có khoảng bốn bàn; mỗi bàn bốn người. Bún đầy ắp. Canh gà nấu măng thơm phức. Vừa dùng bữa, vừa nói chuyện. Trong bàn tôi ngồi, một anh hỏi một chị nghĩ sao về « buổi học » sáng nay. Anh ấy cố ý nhấn mạnh chữ buổi học. Hiểu ý ấy, chị bạn trả lời: Sáng nay nghe hai cha Phêrô, Phaolô và Sơ Marie chia sẻ, tôi vừa sung sướng, vừa cảm động. Tội thấy tương lai thánh nhạc việt nam đã có người tiếp nối. Các bậc thầy Hải Linh, Ngô Duy Linh, …đã qua đi, Các bậc đàn anh Nguyễn Văn Hòa, Kim Long, …đã bắt đầu lớn tuổi. Qua sự trình bày của ba diễn giả hôm nay, tôi thấy mình hết lo không có nhân tài tiếp nối cha ông.
Paris, ngày 27 tháng 04 năm 2008
Gs Trần Văn Cảnh
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 11:00)
Chúc mừng Các Phó tế Việt Nam được phong chức Linh Mục tại Canada
Hợp với niềm vui chung của Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam tại Canada, chúng tôi hân hoan nhận được tin các Phó tế sau đây sẽ được lãnh chức Linh Mục trong tháng 5, 2008 tại Canada như sau;
Phó tế được phong chức Linh mục ngày 3 tháng 5 nãm 2008 tại Ontario, Canada:
Lm Phaolo Nguyễn Vãn Duy, Giáo Phận Hamilton, Ontario, Canada
Các Phó tế được phong chức Linh mục ngày 23 tháng 5 nãm 2008 tại Saskatchewan, Canada:
Lm Phanxico Xavier Lương Cường, Giáo phận Prince Albert, Saskatchewan, Canada
Lm Giuse Nguyễn Quang Mạnh, Giáo phận Prince Albert, Saskatchewan, Canada
Lm Giuse Lê Công Trứ, Giáo phận Prince Albert, Saskatchewan, Canada
Lm Giuse Ðoàn Quốc Tuấn, Giáo phận Prince Albert, Saskatchewan, Canada
VietCatholic
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 20:21)
SỔ TAY HÀNH HƯƠNG ĐỨC MẸ FATIMA (13-4-2008)
Chị Đỗ Thục Hiền, Cursillista đã tường thuật đầy đủ cuộc hành hương và Ultreya Fatima từ ngày 11 đến 15 tháng 4 năm 2008. Trong bài này, tôi ghi vắn tắt sổ tay hành hương, nhìn qua khía cạnh lịch sử, góp thêm vài cảm tưởng.
Cuộc hành hương diễn ra trong năm ngày, nhưng chủ nhật 13 tháng 4 năm 2008 khắc ghi trong tâm trí tôi những hình ảnh không thể phai nhòa.
Sáng chủ nhật 13, mưa mỗi lúc một nặng hạt. Khi các Cursillistas tề tựu trong Nguyện đường Đức Mẹ Hiện ra, (nơi Jacinta, Francisco và Lucia được thị kiến Đức Mẹ hiện ra lần đầu vào chủ nhật 13-5-1917), trời còn đổ mưa.Vị linh mục chủ sự lần hạt chung của Cursillo toàn Âu châu bằng Năm Sự Vui, xướng đoạn I kinh Kính mừng bằng tiếng Bồ Đào Nha: Ave-Maria, cheia de graça, o Senhor é convosco, bendita sois vós entre as mulheres a bendito é o fruto do vosso ventre, Jesus. Toàn thể cộng đoàn cùng đọc đoạn II bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau: Santa Maria, Mãe de Deus, rogai por nós, pecadores, agora e na hora da nossa morte. Trời đang mưa chợt nắng ráo. Những tia nắng đầu tiên chiếu thẳng vào Thánh tượng Đức Mẹ Fatima. Vị linh mục tiếp tục xướng kinh: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Sau đó, cộng đoàn đọc tiếp: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử. Amen. Bởi vì đoạn I chỉ có một mình Đức Mẹ là mẫu nghi thiên hạ, trong khi phần II là lời van xin của cả nhân trần tội lỗi, qua lời van nài: Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội, được viết ở số nhiều.
Đến Năm Sự Thương, trời đang nắng bỗng tối sầm, mưa rơi nặng hạt. Như vậy là trời cũng lần chuỗi bằng giọt mưa đổ xuống thung lũng Valinhos. Sau buổi lần hạt mưa nắng nối tiếp, nắng tỏa sáng Thánh tượng. Sáng nay, De Colores không chỉ là khăn quàng ngũ sắc. Nắng sớm cũng long lanh muôn sắc, chào mừng Đức Mẹ Fatima hiền dịu từ Nguyện đường mang thánh tích của ngày 13 tháng 5 cách đây 91 năm, ngự trên kiệu hoa, tiến qua sân rộng rồi an vị trên lễ đài, âu yếm nhìn Cursillistas trở về thăm mẹ.
Ngày 12 và 13 mỗi tháng, Đức Mẹ lại đội triều thiên nặng 1200 gram vàng, nạm 313 hạt ngọc và 2679 viên đá quý do các phụ nữ Bồ Đào Nha dâng kính. Chính giữa có viên đạn đồng do Đức Thánh Cha đặt giữa vòm vương miện làm bằng chứng Đức Mẹ đã che chở Đức Thánh Cha ngày 13-5-1981 tại Thánh đô Roma.
0 giờ thứ bẩy 12 rạng chủ nhật 13-4-2008, chúng tôi được chứng kiến Đức Mẹ trước giờ về ngự trong nguyện đường nhỏ phía sau Thánh tượng. Sau khi mặt kính được nâng lên, một sĩ quan trong lễ phục chỉnh tề phủ phục trước Đức Mẹ. Không gian thánh thiện tấu cung điệu Ave Maria của Charles Gounod, dựa trên một khai tấu khúc của Bach. Lúc đó chỉ còn vài Cursillistas người Việt. Chúng tôi ngưng đọc kinh Kính mừng, và hòa theo điệu nhạc Ave Maria chào kính Đức Mẹ bằng tất cả con tim.
Tám năm trước đây, ngày 13-5-2000 đầu thiên niên kỷ, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã công bố phần thứ ba của bí mật Fatima, chị Lucia chép nguyên văn như sau:
‘‘Tôi chép lại bí mật này là tuân theo Thánh ý Chúa, qua trung gian của Đức Giám mục Giáo phận Leiria, tuân theo mệnh lệnh của Đức Mẹ Maria.
‘‘Chúng tôi thấy một Thiên Thần ở phía bên trái Đức Mẹ, tay trái cầm thanh kiếm lửa, phát ra ngọn lửa dường như để thiêu đốt thế gian. Ngọn lửa này bị dập tắt khi chạm phải hào quang từ bàn tay phải Đức Mẹ. Tay phải Thiên Thần trỏ xuống trái đất và hô lớn: Thống hối, Thống hối, Thống hối.
‘‘Và chúng tôi thấy Thiên Chúa trong ánh quang chói lọi, giống như trong tấm gương. Khi những người này đi trước một vị Giám mục bận phẩm phục trắng, chúng tôi có cảm tưởng vị này là Đức Thánh Cha.
‘‘Nhiều vị Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ leo lên ngọn núi thẳng đứng, trên đỉnh ngọn núi có cây Thánh giá lớn, thân gồ ghề giống như cây sồi, vỏ cây sần sùi. Trước khi leo lên đỉnh núi, Đức Thánh Cha đi qua một thành phố nửa hoang tàn, nửa xiêu vẹo, bước đi run rẩy, thấu rõ sự đau xót và thống khổ. Ngài cầu nguyện cho vong linh các xác chết nằm ngổn ngang trên lối đi. Khi lên tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha quỳ dưới chân Thánh giá. Ngài bị mấy người lính bắn nhiều phát súng và mũi tên. Các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ và các giáo dân thuộc các tầng lớp khác nhau lần lượt ngã gục. Dưới chân Thánh giá là hai Thiên thần, mỗi vị cầm một bình tưới nước bằng pha lê đựng máu đào Tử đạo, tưới xuống các linh hồn lại kề bên Chúa.’’
MURO DE BERLIM (Bức tường Bá Linh)
Một mảng tường Bá Linh do Ông Casimiro Ferreira dâng cúng được mang từ Đông Đức để kỷ niệm việc bức tường Bá Linh bị giật sập đêm 13-8-1961. Vào chủ nhật 13-5-1917, Đức Mẹ hiện ra lần đầu vơi Lucia, Francisco và Jacinta đã phán: Các con đừng sợ. (Luca, 1, 26-38, Marco 6, 50).
Sau khi được tôn cử vào ngôi vị Giáo Hoàng ngày 16-10-1978, lời nói đầu Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II là Các con đừng sợ, mở đầu tiến trình giải thể Liên Xô và các nước Đông Âu.
Mảng tường Bá Linh cạnh Đền Thánh Fatima có tấm bia nguyên văn như sau:
MURO DE BERLIM
Levantado em 1961.08.13
Derrubado em 1989.11.09
Obrigado celes pastora por terdes guiado com carinho maternal os povos pari a liberdade.
João Paulo II em Fatima 1991-05-12.
Xin tạm dịch như sau:
BỨC TƯỜNG BÁ LINH
Dựng lên ngày 13 tháng 8 năm 1961
Giật sập ngày 9 tháng 11 năm 1989
Tạ ơn Mục tử Thiên Quốc về sự chỉ đạo từ ái và Đức Từ Mẫu đưa dân tộc đến Tự do.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tại Fatima ngày 5 tháng 12 năm 1991.
Chừng nào đến lượt bức màn tre Đông Á sụp đổ, phía sau di tích bức tường Bá Linh sẽ là lũy tre xanh, biểu tượng của bức tường tre từng bủa vây đất nước.
Người hành hương số 13
Chiều chủ nhật 13-4-2008, các Cursillistas Việt Nam ngắm đàng Thánh Giá. Trên nương đồi Valinhos, 14 nhà nguyện nhỏ tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Nhà nguyện thứ 15 ở cuối vườn Cây Dầu tôn kính Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn. Tôi được anh Nguyễn Minh Dương, Phó Chủ tịch Cursillo Giáo Xứ Paris chỉ định ngắm chặng thứ 13.
Cuộc sống Kitô giáo của tôi luôn gắn lìền với nhiều con số 13: rửa tội ngày 13-10; giấy chứng nhận rửa tội mang số 13; sang Pháp ngày 13-10; hành hương Fatima ngày 13-4-2008.
Tôi viết bài này là để bầy tỏ lòng tôn kính và biết ơn Đức Mẹ Fatima.
MARIA DO SIM
Ngày 25-6-2000, ĐHY Joseph Ratzinger, Bộ trưởng Thánh bộ Đức Tin (nay là Đức Thánh Cha Bênêdictô 16) sau khi công bố Bí Mật thứ 3 đã nói: ‘‘Lời XIN VÂNG (FIAT) xuất phát từ Trái Tim Đức Mẹ đã làm thay đổi cục diện thế giới.’’
Trong Thánh lễ khai mạc Ultreya Âu Châu, phái đoàn các nước châu Âu đã dâng lên Đức Mẹ bản Thánh ca XIN VÂNG bằng tiếng Bồ Đào Nha - SIM:
Maria de SIM, ensina me a dizer meu SIM
Um dia, Maria deu o seu SIM: mudou se face da terra.
Porque pelo SIM nasceu o Senhor, e veio morar entre nos o amor. (Dictionarium anamitico, lusitanum et latinum do Linh mục Alexandre de Rhodes soạn thảo năm 1651 cho thấy tiếng Bồ Đào Nha của Đức Mẹ Fatima có công thành lập chữ quốc ngữ). Vào cuối Thánh lễ sáng 15-4-2008 do Đức Ông Mai Đức Vinh cử hành trong nguyện đường khách sạn Santo Amaro (Rua Francisco Marto), các Cursillitas đều hiệp ý Xin Vâng: Mẹ ơi, đời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng Xin Vâng. Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ dạy con hai tiếng Xin Vâng.
Lê Đình Thông
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 20:04)
PARIS - Trong khuôn khổ hành hương và Ultreya của Phong trào Cursillo Việt Nam tại Âu Châu, sáng 12-4-2008, luật sư Đào Văn, Chủ tịch Phong trào đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn ngắn tại phòng tiếp tân khách sạn Santo Amaro, 59 Rua Francisco Marto - Fatima (Bồ Đào Nha). Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn.
LĐT: Xin luật sư vui lòng giới thiệu lịch sử thành lập Phong trào Cursillo tại châu Âu.LS Đào Văn: Phong trào Cursillo được Đức Cha Juan Hervas, giám mục giáo phận Palma de Majorca (Tây Ban Nha) thành lập năm 1949 nhằm mục đích canh tân bản thân và Phúc âm hóa môi trường, trong tinh thần ‘‘Đem tha nhân đến với Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến với tha nhân’’. Phong trào vượt khỏi biên giới Tây Ban Nha, lan rộng đến Mỹ châu và Á châu. Cách đây 41 năm (1967-2008), Phong trào hoạt động tại Việt Nam, tổ chức hàng trăm khóa Cursillo, khởi đầu từ Sài gòn, mở rộng ra các giáo phận.
Sau 1975, phong trào Cursillo hoạt động trở lại tại hải ngoại từ đầu thập niên 80: từ Hoa Kỳ, lan rộng sang Âu châu và Úc châu. Với sự hỗ trợ của phong trào tại quận Cam (Orange County), hai khóa Cursillo đầu tiên đã được tổ chức tại vùng Paris vào năm 1993. Từ đó đến nay, phong trào mở được 24 khóa tĩnh huấn với 897 thành viên (Cursillistas) trong đó 491 cho Paris và vùng phụ cận, 204 các tỉnh trong nước Pháp, 182 các nước châu Âu. Trong số các cursillistas tại Paris có 1 Tổng giám mục (Hà Nội), 14 linh mục, 4 nữ tu, 2 phó tế. Các tỉnh có 4 linh mục, 4 nữ tu, 1 nam tu sĩ, chưa kể 2 linh mục ở Bỉ, 1 linh mục ở Đức.
Muốn trở thành một cursillista cần được một thành viên giới thiệu và phải trải qua ba ngày thao luyện nhằm giúp Cursillista tìm lại bản thân, tìm được
Thiên Chúa, ý thức được nhiệm vụ tông đồ giáo dân của mình. Tại Pháp, Đức Hồng Y Tổng giám mục Paris đã bổ nhiệm Đức Ông Mai Đức Vinh làm linh hướng cấp giáo phận cho phong trào Cursillo ngành Việt Nam.
LĐT: Xin luật sư nói qua về Đại hội Ultreya Âu châu đang diễn ra tại Fatima.LS ĐàoVăn: Đại hội toàn Âu Châu kỳ II tại Fatima diễn ra trong hai ngày 12 và 13-4-2008 nhằm cùng chia sẻ và đào sâu về đề tài: Trung thành với linh đạo Cursillo, canh tân sinh hoạt phong trào và Phúc âm hóa môi trường. Đại hội quy tụ 127 người: Paris có 52, Đức: 45, Bỉ: 10, Thụy Sĩ: 10, Bordeaux: 10. Trong đó, có một số chưa tham dự Cursillo và chưa có đạo nữa. Tham dự Đại hội, ngoài Đức Ông Mai Đức Vinh còn có LM Nguyễn Trọng Quý (Đức) và LM Nguyễn Bá Linh (Strasbourg). Anh Giuse Nguyễn Minh Dương lãnh trách nhiệm trưởng ban tổ chức Đại hội. Theo Đức Ông linh hướng, ‘‘Đại hội là mùa xuân Cursillo trong đó mỗi Cursillista là một cánh én và là một bông hoa. Nói theo thánh Phaolô, ‘‘Đại hội là công việc của nhiệm thể, mỗi chi thể có nhiệm vụ góp phần.’’.
LĐT: Nói ‘‘Đại hội là mùa xuân’’ là nói đến sự hiệp thông và đổi mới. Luật sư nghĩ sao về điểm này ?LS Đào Văn: Kể từ Công đồng Vatican II, muốn hiểu biết Giáo hội, cần phải chiêm ngưỡng Giáo hội như mầu nhiệm của sự hiệp thông. Giáo hội hiệp thông là dân tộc mới của Đấng Thiên Sai mà vị thủ lãnh là Chúa Kitô. Hiệp thông càng thêm phong phú là nhờ sự khác biệt. Trong ý nghĩa đổi mới, chúng tôi ý thức sự cần thiết canh tân nhờ ơn Chúa Thánh Linh linh hứng để đáp ứng với những đòi hỏi của thời đại. Sự đổi mới đòi hỏi đổi mới nhiệt tình, đổi mới phương pháp và đổi mới cách trình bầy. Sự đổi mới nhiệt tình là kết quả sự gặp gỡ giữa bản thân với Chúa Kitô trong lời cầu nguyện và bằng Thánh lễ. Đổi mới nhiệt tình khuyến khích bản thân gặp gỡ Đức Kitô. Đổi mới phương pháp bằng cách đào tạo một thế hệ những người lãnh đạo trẻ, đặt họ vào cơ cấu của phong trào. Sau cùng là sự đổi mới cách trình bầy để sự trình bầy có tính cách chân thật, sống động, trực tiếp, dễ hiểu cho mọi trình độ.
LĐT: Luật sư có thể nói qua về chương trình hoạt động của phong trào trong thời gian sắp tới.LS ĐàoVăn: Ngày 28-6-2007, Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 đã công bố tại Vương cung Thánh đường Ngoại thành việc mở năm toàn xá Thánh Phaolô từ 28-6-2008 đến 28-6-2009, kính nhớ ngày sinh của thánh nhân. Đức Thánh Cha mời gọi thăng tiến các sáng kiến mục vụ và xã hội theo linh đạo của thánh nhân cũng như việc biên soạn các tài liệu học hỏi về Thánh Phaolô. Trong tinh thần này, tờ thông tin liên lạc Cursillo của Phong trào cũng như Trường Huấn luyện của Phong trào đã phổ biến nhiều tài liệu nghiên cứu về thánh nhân do các Cursillistas biên soạn, như bài ‘‘Tôi yêu tình huynh đệ của Thánh Phaolô” của anh Lương Huỳnh Ngân, loạt bài của chị Đỗ Thục Hiền: “Chúng ta được cứu độ nhờ Đức Tin - theo thánh Phaolô”, “Người môn đệ Chúa sai đi”, “Thánh Phaolô là một vị thánh mà tôi cảm kích vô cùng”, “Thánh Phaolô với những hoài bão lớn - Xây dựng Hội Thánh”.
Trong Tự sắc (Motu Proprio) công bố ngày 14 tháng 12 năm 1969, Đức Thánh Cha Phaolô VI chuẩn nhận Thánh Phaolô là bổn mạng phong trào Cursillo. Vì vậy, trong năm toàn xá, từ 28 tháng 6 năm 2008 đến 28 tháng 6 năm 2009, phong trào sẽ có nhiều sinh hoạt nhằm giúp các Cursillistas thấu triệt các giáo huấn của Thánh Phaolô:
Giáo huấn của Thánh Phaolô hướng về Chúa Kitô chết vì tội lỗi trần gian.(1 Co 15,3-4). Ngài nhấn mạnh đến đức tin, hy vọng và đặc biệt là lòng bác ái.
Chủ đề Thánh Phaolô là đề tài Ultreya cấp châu Âu sẽ được tổ chức tại Giáo Xứ Việt Nam vùng Paris, có sự tham dự của các điều hợp viên của G.E.T (Grupo Europeu de Trabalho (Nhóm Công tác châu Âu).
Tôi xin mượn ý kiến của Đức TGM Riberi, Sứ thần Tòa thánh tại Tây Ban Nha tuyên bố ngày 14-12-1963: ‘‘
Tôi đã từng nói nếu Thánh Phaolô tại thế, ngài sẽ là một cursillista. Tôi cũng nghe nói Thánh Phaolô là cursillista đích thực. Điều đó có nghĩa là qua Thánh Phaolô, những người đã sống qua cảm nghiệm Cursillo sẽ tìm thấy mẫu mực cho cuộc sống và hành động, cho đời sống thiêng liêng để trung thành và thăng tiến trong cuộc sống ngày thứ tư".
LĐT: Xin cám ơn Luật sư Chủ tịch đã vui lòng trả lời phỏng vấn.
Lê Đình Thông
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 12:48)
Hân Hoan Chúc Mừng Các Tân Linh Mục Việt Nam tại Hoa Kỳ
Cộng Đồng Dân Chúa đón nhận tin vui và hân hoan chúc mừng các Phó tế Việt Nam tại Hoa Kỳ được lãnh chức Linh Mục trong năm 2008.
Phó tế đã được phong chức Linh mục ngày 26 tháng 4 năm 2008:
Lm. J.B Bennet Trần Thiên Bình, St Paul- Minneapolis, Minnesota
Phó tế được phong chức Linh mục ngày 10 tháng 5 năm 2008:
Lm. Phêrô Đinh Đức Hải, Giáo phận Davenport, Iowa
Phó tế được phong chức Linh mục ngày 11 tháng 5 năm 2008:
Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Lâm, Giáo phận Saint Augustine, Jacksonville, Florida
Phó tế được phong chức Linh mục ngày 23 tháng 5 năm 2008:
Lm. Martin-Philip Bùi Thái Nhân, OP, Washington, D.C.
Các Phó tế được phong chức Linh mục ngày 24 tháng 5 năm 2008:
Lm. Đinh Xuân Chiến, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Đinh Ngọc Ký, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Đỗ Thành Michael, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Nguyễn Công Anthony, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Nguyễn Châu Joseph, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Nguyễn Quang Khoa, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Nguyễn Văn Long, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Phan Trọng Chinh, SVD, Chicago/Techny, Illinois
Lm. Vincente Đặng Thanh Tĩnh, San José, giáo phận San José
Các Phó tế được phong chức Linh mục ngày 31 tháng 5 năm 2008:
Lm. Gioan Martin Trần Chí Hiếu, Claremont, Giáo phận Los Angeles, California
Lm. Giuse Maria Nguyễn Tuấn Long, Torrance, Giáo phận Los Angeles, California
Lm. Phaolô Lê Hồng Thái, Atlanta, Giáo phận Los Angeles, California
Lm. Giacôbê Nguyễn Quốc Vãn, thuộc giáo phận Tulsa, Oklahoma
Lm. Michael Đinh Minh Hùng, Orange County, Dòng Maryknoll, New York
Lm. Phaolô Trần Ngọc Thanh Hải, Tổng Giáo phận Oklahoma City, Oklahoma
Các Phó tế được phong chức Linh mục tháng 6 năm 2008:
Lm. Giuse Nguyễn Đức Dũng, Giáo phận Orange, California
Lm. Giuse Nguyễn Toàn Minh, Giáo phận St. Bernadino, California
Lm. Phaolô Trần Ngọc Thanh Hải, Giáo phận Oklahoma City, Oklahoma
Lm. Nguyen Peter, SJ, Chicago, Illinois
Lm. Phạm Đức Hạnh, SJ, St. Louis Missouri
Lm. Gioan Trần Hùng Lân, SJ, St. Louis Missouri
Thaày Toâma Phoù Quoác Luaân, O.P.
-Thaày Phaoloâ Nguyeãn Minh Tuaán, O.P.
-Thaày Giuse Leâ Hoaøng Thuïy, O.P.
seõ chòu chuùc ngaøy 4 thaùng 7 naêm 2008, taïi thaùnh ñöôøng Holy Trinity, Calgary, Canada
Các tân Linh mục đã được phong chức vào tháng 1 năm 2008:
Lm. Phanxicô Xaviê Trần Gia Điền, SCsR, West Covina, California
Lm. Giuse Têrêsa Lê Trọng Hùng, CSsR, West Covina, California
Lm. Anrê-Dũng Lạc M Nguyễn Tuấn Nhã, CMC, Carthage, Missouri
Lm. Gioan Thiên Chúa M Hoàng Hiệp Nghĩa, CMC, Carthage, Missouri
Lm. Philipphê M Lâm Bá Trọng, CMC, Carthage, Missouri
Cộng Đồng Dân Chúa hân hoan chúc mừng các Tân Chức và gia đình. Nguyện xin Thiên Chúa tiếp tục tuôn đổ xuống đầy tràn ân sủng và thánh hóa các Linh mục của Chúa trên con đường tông đồ phục vụ và loan báo Tin Mừng ơn cứu độ.
Xin thông tin về địa chỉ [email protected] và [email protected] các tân Linh mục chưa có tên trên đây, để Công Đồng Dân Chúa được biết và hiệp thông chúc mừng.
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 08:26)
BUỔI HÒA NHẠC “NHỮNG GIAI ĐIỆU VĨNH HẰNG” (Eternal Melodies)
Tại Nhà Thờ Đa-Minh Ba Chuông, 19g30 ngày thứ Sáu 25/4/2008
SAIGÒN - Buổi tối ngày 25/4/2008, trong khuôn khổ hoạt động mục vụ tôn giáo và văn hóa, giáo xứ Đa Minh - Ba Chuông đã giới thiệu buổi hòa nhạc giao hưởng kinh điển NHỮNG GIAI ĐIỆU VĨNH HẰNG (Eternal Melodies) do Ban Hợp Xướng và dàn nhạc Suối Việt kết hợp với Trung tâm Mục vụ Đa Minh tổ chức.
Chưa đến giờ khai mạc, khá đông người từ nhiều nơi trong khu vực đổ về làm cho toàn cảnh ngôi thánh đường nhộn nhịp và có nét khác hẳn với các lễ hội được tổ chức ở đây.
Trước khi khai mạc, cha Phêrô Đinh Quang Mạnh Hùng, người chỉ huy đêm diễn, đã có vài lời để chuẩn bị cho buổi hòa nhạc.
Phần khai mạc thật trang trọng khi linh mục Giuse Phạm Hưng Thịnh, chánh xứ Đa Minh đã giới thiệu linh mục chủ nhiệm chương trình là cha Anphong Vũ Đức Trung, cha Mạnh Hùng, nhạc sĩ Nguyễn Bách biên tập và dàn dựng. Chương trình còn được Thanh Sâm đạo diễn, ánh sáng do Anh Bằng, hình ảnh minh họa của Hồng Vân.
Thật là hay, tạo được nhiều cảm xúc cho người thưởng thức khi phần I của chương trình là những bài hát do những nghệ sĩ ưu tú trình diễn.
Mở đầu là nghệ sĩ ưu tú Tạ Minh Tâm, trưởng khoa thanh nhạc- nhạc viện Sài Sòn, rất gần gũi với công chúng qua games show của đài truyền hình, đã trình diễn bài Ave Maria và Alleluia. Có đoạn chỉ có một từ “Allêluia” mà ông đã diễn đạt bằng nhiều giai điệu. Rất hay!
Dù tác phẩn được các nghệ sĩ hát bằng tiếng nước ngoài, nguyên bản, nhưng mọi người có thể theo dõi lời Việt và lời Anh ở hai phông màn hình trên cung thánh kèm hình ảnh minh họa rất sinh động.
Đoạn nhạc kịch Tosca của Giacomo Puccini do Ánh Tuyết, nhạc viện Sài Gòn, trình bày có đoạn:
“ Tôi đã sống cho nghệ thuật của tôi,
Tôi đã sống cho tình yêu,
Tôi không bao giờ làm hại một tâm hồn sống động!
Với bàn tay bí mật
Tôi đã an lòng khi điều không may đến với tôi….”
Còn bài Bánh Thiên Thần có lời ca được trích từ tác phẩm Sacris Solemniis do Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas viết trước năm 1274. Lời ca này đã được dùng trong các bài thánh ca kính Thánh Thể Chúa Kitô; dù lời Việt rất thực tế nhưng chắc chắn không làm cho ai trong khán giả, tối hôm nay, nghĩ đến chuyện khó khăn lương thực đang xảy ra trên toàn thế giới!
Đặc biệt, đây là lần thứ hai, nghệ sĩ nhân dân Trần Hiếu đến nhà thờ Ba Chuông biểu diễn. Bài Ombra Mai Fu là bản aria trích từ nhạc kịch Xerxes của George Frideric Handel mà lời tựa có ý nghĩa “Không bao giờ làm nên bóng mát’; bản aria này còn được biết dưới tên gọi “Largo của Handel” mặc dù tốc độ chính lại là larghetto. Trong lúc sinh thời của Handel, vở opera này không thành công nhưng đến thế kỷ 19 bản aria này được làm cho sống lại và được thế giới đón nhận nồng nhiệt. Có đoạn lãng mạn như thế này:
“Hãy để số phận mỉm cười với em.
Mong sao cơn giông, sớm chớp, bão tố
Không bao giờ phá hoại bình an quí báu của em,
Cũng mong sao em không bị vẩn đục bởi những cơn gió đang thổi
Không bao giờ làm nên bóng mát…”
Trẻ trung và cuốn hút là giọng ca của Thảo Trang (Việt Nam Idol) cùng với Triệu Lộc qua bài The Prayer (Lời Kinh) của Carole Bayer Sager – David Foster:
“ Xin Người trở thành mắt con và canh giữ đường chúng con đi.
Và giữ chúng con được khôn ngoan mỗi khi không hiểu biết
Xin cho đây như lời kinh khi chúng con lạc lối”
Và:
“Hằng đêm khi các vì sao tỏa sáng
Người là vì sao bất diệt
Trong lời kinh của con”
Bài Con Te Partiro của Franceco Sartori và Lucio Quarantotto do Thu Giang trình bày đã kết thúc phần một. Khán đài cung thánh được tĩnh đi ít phút để chuẩn bị cho phần hai.
Đối với những người không hiểu nhiều về nhạc, những bài hát của chủ đề Những Giai Điệu Vĩnh Hằng có thể đã mang đến những cảm xúc thánh thiện và phút giây êm dịu sau một tuần làm việc căng thẳng; còn những vị hiểu biết nhiều về chuyên môn thì có lẽ đây là một bữa tiệc, tuy không ê hề món ăn nhưng đủ là một bữa tiệc thú vị cho sự gặp gỡ và thưởng thức âm nhạc.
Buổi hòa nhạc hôm nay, toàn bộ phần II được trình diễn bởi Ban hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng Suối Việt.
Mở đầu là bài Ave Maria, tác giả bài hát là giáo sư Hoàng Cương, giám đốc nhạc viện Sài Gòn, sau bài hát đã lên giao lưu ngắn, ông trả lời những câu hỏi của MC linh mục Tiến Lộc về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm này và mặc dù không phải là người Công giáo nhưng ông đã có một sáng tác thánh ca tuyệt vời và đây cũng là lần đầu trình diễn bài hát này.
Cũng phải nói thêm rằng, nhạc sĩ Nguyễn Bách, giảng viên nhạc viện Sài Gòn, đã chỉ huy dàn nhạc rất thành công trong phần II. Khi mọi người thưởng thức tác phẩm” Trời cao tường thuật vinh quang” ( trích oratorio “Creation” – Sự Sáng Thế) thì sự tài năng của nhạc sĩ Nguyễn Bách quả là thu phục lòng người.
Tác phẩm “Trời cao tường thuật vinh quang” là tác phẩm cuối đời của nhà soạn nhạc tiên tài Franz Joseph Haydn. Có rất nhiều tình tiết, câu chuyện xung quanh việc sáng tác tác phẩm này.
Đáng chú ý nhất là lần đầu tiên tại Việt Nam, bộ lễ REQUIEM (Cầu Hồn) của Mozart được giới thiệu tới công chúng.
Trong phụng vụ Công giáo, từ “Requiem” được trích ra từ câu ca nhập lễ “Requiem oeternam dona eis, domine, et lux perpetua luceat eis” (Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên họ). Bộ lễ Requiem khác với các bộ lễ thông thường ở chỗ có thêm Ca Tiếp Liên Dies Irae. Dàn nhạc đã trình bày qua bảy phân đoạn.
Đây là tác phẩm cuối đời của ông. Tác phẩm này cũng như cái chết bí ẩn của Mozart đã và đang là nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tác các thể loại khác.
Mỗi khi một tác phẩm được trình diễn xong, những tiếng vỗ tay vang dội khắp lòng thánh đường. Kết thúc buổi hòa nhạc là hoa, tiếng chúc mừng, cái bắt tay thân thiện.
Chỉ là những âm thanh, thế mà nhân loại đã khám phá ra cả một thế giới âm nhạc. Và trước cái hay của những giai điệu, người ta phải thấy mình nhỏ bé biết bao trước sự vô cùng của Thiên Chúa, vì ngoài âm nhạc còn có toán học, hội họa, khoa học, kinh tế, vật lý, hóa học… Xin cảm ơn những vị đã được thần linh Chúa soi sáng để cống hiến cho nhân loại những nét đẹp tuyệt vời ẩn dấu trong công trình tạo dựng vụ trụ của Thiên Chúa.
CHƯƠNG TRÌNH NHƯ SAU
PHẦN I
- Đối với giới chuyên môn âm nhạc, Nghệ Sĩ Ưu Tú Tạ Minh Tâm là Trưởng Khoa Thanh Nhạc của Nhạc viện Tp. HCM. Đối với công chúng, ngoài là một ca sĩ xuất sắc, ông còn được quen biết qua các chương trình Chung Sức, vai Bác sĩ trong phim “Blouse Trắng”.
- bài thánh ca “ALLELUIA” trích trong bản Motet “Exultate Jubilate” ĐƯỢC Mozart sáng tác năm 16 tuổi và được trình diễn lần đầu tiên tại Milan vào năm 1773. Thường bài này được trình bày với giọng soprano. Đặc biệt hôm nay chúng ta sẽ được thưởng thức với giọng tenore của Tạ Minh Tâm
- Ave Maria được Charles Gounod sáng tác giai điệu dựa trên phần đệm đàn là bản prelude số 1 trích từ tập Bình Quân Luật của Johann Sebastian Bach
- Đệm đàn: Cổ Tấn Thu Hương, giảng viên của Nhạc viện Tp. HCM
1. ALLELUIA Wolfgang Amadeus MOZART (3:30)
(Tenore: TẠ MINH TÂM – Piano: THU HƯƠNG)
2. AVE MARIA Johann Sebastian BACH - Charles GOUNOD
(Tenore: TẠ MINH TÂM – Piano: THU HƯƠNG) (3:20)
- Nghệ Sĩ Ưu Tú ÁNH TUYẾT – Phó Trưởng Khoa Thanh Nhạc của Nhạc viện Tp. HCM.
- Sergei Rachmaninov (1873 - 1943) là nhà soạn nhạc người Nga. Ông còn là một pianist có ảnh hưởng nhiều nhất của Tk. XX, chỉ huy dàn nhạc, được xem là khuôn mặt lớn cuối cùng của thời kỳ Lãng mạn của Am nhạc kinh điển Au châu.
Ý nghĩa của bài hát ZDSES KHOROSHO sẽ đước Anh Tuyết hát bằng tiếng Nga:
“Nơi đây mới bình yên làm sao. Nhìn kià!, xa xa dòng sông cuồn cuộn chảy. Không có gì ngoài nỗi thinh lặng ngự trị, Chỉ còn mình tôi với Thượng Đế, hoa, và hàng thông xanh.”
- Đệm đàn: Cổ Tấn Thu Hương, giảng viên của Nhạc viện Tp. HCM
3. ZDES KHOROSHO Sergei Vasilievich RACHMANINOV
(Soprano: ÁNH TUYẾT - Piano: THƯ HƯƠNG) (3:00)
4. TOSCA (Trích Nhạc kịch “Tosca”) Giacomo PUCCINI (3:00)
(Soprano: ÁNH TUYẾT - Piano: THƯ HƯƠNG)
5. PANIS ANGELICUS César FRANCK (3:40)
(Baritono: CÔNG LÂM - Piano: PHƯƠNG HẠNH)
6. PREGHIERA Francesca Paolo TOSTI (3:20)
(Soprano: NGỌC TUYỀN - Piano: PHƯƠNG HẠNH)
- Nhà thờ Đa-Minh Ba Chuông rất hân hạnh được đón tiếp Nghệ Sĩ Nhân Dân Trần Hiếu trong lần thứ hai biểu diễn tại đây.
- OMBRA MAI FU là bản aria trích từ nhạc kịch Xerxes của George Frideric Handel. Lời tựa có nghĩa “Chưa bao giờ có một bóng mát như vậy”, được hát bởi Xerxes, vai chính của vở opera. Bản aria này còn được biết dưới tên gọi “Largo của Handel” mặc dù tốc độ chính lại là larghetto (hơi chậm). Trong lúc sinh thời của Handel, vở opera này không thành công. Nhưng đến Tk. XIX, riêng bản aria này được làm cho sống lại và được thế giới đón nhận nồng nhiệt.
- Đệm đàn Nguyễn Thiện Phương Hạnh, giảng viên của Nhạc viện Tp. HCM. (nhắc lại việc đệm đàn của Hạnh cho 2 tiết mục trước)
7. OMBRA MAI FU George Friderik HANDEL (4:00)
(Baritono: TRẦN HIẾU - Piano: PHƯƠNG HẠNH)
8. THE PRAYER Carole Bayer SAGER – David FOSTER
(Tenore: TRIỆU LỘC, THẢO TRANG) (4:30)
9. CON TE PARTIRÒ Francesco SARTORI–Lucio QUARANTOTTO
(Tenore: TRẦN NGỌC; Soprano: THU GIANG) (4:10)
PART II
1. AVE MARIA (A Cappella) HOÀNG Cương
- Tác giả nguyên là Giám Đốc Nhạc viện Tp. HCM, Giáo sư HOÀNG CƯƠNG
- Mời tác giả lên sân khấu để giao lưu ngắn: Sáng tác này được viết trong hoàn cảnh nào? (mặc dù tác giả không phải là người Công giáo như đã có một sáng tác thánh ca tuyệt vời)
- Đây là buổi début (trình diễn lần đâu của tác phẩm này).
Mời Cha Sở, Giuse Phạm Hưng Thịnh lên tặng hoa cho tác giả.
- Giới thiệu Nguyễn Bách, Giảng viên Nv Tp. HCM, chỉ huy, là người đã điều khiển tác phẩm này cũng như cả phần II của chương trình với sự có mặt của Hx và Dàn Nhạc Suối Việt – một thành viên trong các Hội đoàn của Gx. Đa Minh – Ba Chuông.
2. SYMPHONY in G-DUR, No. 100 – II. Movement Joseph HAYDN
- “Creation” là một trong hai bản oratorio cuối đời của Haydn. Tác phẩm dựa trên cốt truyện Kinh Thánh về sự sáng tạo thế giới và trên lời thơ của John Milton trong tác phẩm “Thiên đường đã mất” (The Lost Paradise)
3. TRỜI CAO THUẬT LẠI VINH QUANG (trích oratorio “CREATION” – Sự Sáng Thế”) Nguyên tác: Joseph HAYDN; Lời Việt: Nguyễn Bách
REQUIEM
- Đây là tác phẩm cuối đời của nhạc soạn nhạc thiên tài, MOZART. Có rất nhiều tình tiết, câu chuyện chung quanh việc sáng tác tác phẩm này. Trong lúc đầy thất vọng vì bệnh tật, vì cuộc sống vật chất, kinh tế, Mozart được một người lạ mặt đặt hàng viết 1 bộ lễ Cầu Hồn – Requiem. Nỗi vui mừng như ngọn lửa chợt bùng lên đã nhanh chóng lụi tàn khi người đặt hàng không đến lấy và ông đã phải thốt lên: “Đây là bản Cầu hồn cho chính tôi!”. Ít lâu sau, ông qua đời.
- Cấu trúc tác phẩm dựa trên bộ Lễ Cầu hồn của đạo Công giáo, nhưng có thêm những phần khác như: phần Mở đầu, bài Dies Irae (Ngày thịnh nộ)
- Giai điệu đầu tiên mà qúy vị sẽ được nghe là kèn fagotto đi cùng với bè Basso trong trích đoạn 1: KYRIE. Đây là ý tưởng trụ cho toàn bộ bài thánh ca được viết theo phong cách phức điệu một cách thiên tài. Giai điệu mang màu sắc của nhạc Bình ca mà Mozart đã từng hát trong các ca đoàn khi còn nhỏ. Nét cổ xưa của giai điệu chính trong KYRIE được khẳng định trong hợp âm kết thúc bài lại là một quãng 5 đùng, thay vì là một hợp âm ba nốt.
Bài thứ 2: DIES IRAE (Ngày Thịnh nộ) lại chính là bái thánh ca đầu tiên mà ông viết khi bắt đầu sáng tác bộ lễ Requiem này. Ông chia bà ithơ dài DIES IRAE thành sáu phân đoạn để sáng tác các bài tiếp theo của REQUIEM. Ở đây, chúng tôi chỉ trích ra các bài: DIES IRAE, TUBA MIRUM, REZ TREMENDAE MAJESTATIS và RECORDARE, JESU PIE. Đặc biệt, trong bài TUBA MIRUM, qúy vị sẽ được thưởng thức tiếng kèn trombone độc tấu đi cùng với các giọng ca lần lượt xuất hiện từ thấp lên cao là Basso, Tenore, Alto, và Soprano. Nét giai điệu đẹp như hát của kèn trombone và cách cấu trúc tác phẩm như vậy được Mozart mô tả như một Cảnh Phán Xét vào ngày chung cuộc.
Cuối cùng, cả dàn nhạc và hợp xướng cùng hợp lại với nhau trong bài LACRIMOSA, được coi là một cuộc du hành của Mozart vào lãnh vực hòa âm Tk. XVIII do việc xuất hiện ở đây những hợp âm, cách dùng hòa âm kỳ lạ. Mozart đã cố gắng hoàn tất LACRIMOSA ngay hôm ông qua đời! Các âm hình của bộ Dây được mô tả như những giọt nước mắt than khóc rơi xuống. Đến nay, người ta vẫn đánh giá LACRIMOSA như là một trong những tác phẩm gây cảm xúc nhất.
Phần trình diễn REQUIEM của Mozart do Ban Hợp xướng và Dàn nhạc Suối Việt dướ isự chỉ huy của nhạc trưỡng Nguyễn Bách được kết thúc bằng phân đoạn SANCTUS DOMINUS DEUS SABAOTH. Đây là bài thánh ca duy nhất mang niềm vui, hân hoan mà chúng ta gặp trong REQUIEM. Ở bài thánh ca ngắn này tập trung cả thiên tài của ông: Phần đầu là âm nhạc hòa điệu (homophony) trang trọng của âm nhạc thời kỳ Baroque; Phần tiếp theo là đoạn đa âm (polyphony) nhanh thường gặp trong âm nhạc thời kỳ Phục Hưng.
- Giới thiệu các solist của OPERA VIỆT: Soprano: Ngọc Tuyền, Alto: Triệu Yên, Tenore: Anh Bằng và Basso: Klong HaGim
- Giới thiệu nhạc trưởng.
4. Bộ Lễ “REQUIEM” (Các trích đoạn quan trọng) Wolfgang Amadeus MOZART
a. Kyrie eleison
b. Dies irae
c. Tuba mirum (Soli – SATB)
d. Rex tremendae majestatis
e. Recordare, Jesu pie (Soli – SATB)
f. Lacrimosa dies illa
g. Sanctus Dominus Deus Sabaoth
Maria Vũ Loan
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 01:48)
THÁNH GÍA ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THĂM VIẾNG MELBOURNE ÚC CHÂU
Tối 25/4 tại nhà thờ chính tòa thánh Patrick khoảng hai ngàn giới trẻ đại diện các giáo xứ đã tề tựu về nhà thờ chính tòa Melbourne để cùng với Đức Tổng Giám Mục Hart, cùng 5 giám mục, đông đảo các linh mục và giới trẻ cử hành Thánh lễ đón chào các biểu tượng Đại Hội Giơi Trẻ Thế Giới Sydney 2008. Trước khi cử hành thánh lễ giới trẻ của Giáo phận Sale đã khiêng Thánh gía và biều tượng Mẹ Maria lên gian cung thánh và trao lại cho giới trẻ của Tổng giáo phận Melbourne, sau đó ĐTGM Hart đã đại diện giáo phận đón chào Thánh gía và công bố trong vòng hai tuần liên tiếp những biểu tượng của ĐHGT 2008 sẽ hành trình khắp nơi trong giáo phận.
Sáng nay 27/4 lúc 11.30 là giờ kính viếng Thánh Gía và ảnh Mẹ Maria của công đoàn Công giáo Melbourne. Trước 11 giờ các linh mục tu sĩ và giới trẻ cũng như giáo dân đã tề tựu đông đủ trước nhà thờ chính tòa và đúng 11.30 tiến vào nhà thờ làm giờ thánh sau đó là mỗi người lên hôn kính Thánh gía và tượng ảnh Mẹ Maria mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gửi gấm lại cho giới trẻ trên toàn thế giới.
Sau khi kính viếng Công đoàn Việt Nam đã rước Thánh giá và ảnh Mẹ Maria về chủng viện Melbourne các nhà thờ chính tòa khoảng 2 cây số qua các đường của thành phố Melbourne.
Sau 2 tuần tại Melbourne Thánh giá sẽ được xuống tầu đi qua tiểu bang hải đảo Tasmania.
Sau đây là một vài hình ảnh của CĐCGVN kính viếng Thánh giá và ảnh Mẹ Maria.
|
| Cộng đoàn qui tụ trước nhà thờ chnh tòa St. Patrick Melbourne |
|
| Linh mục tu sĩ và ban tổ chức qui tụ trước nhà thờ chnh tòa St. Patrick Melbourne |
|
| Rước Thánh Gía ra khỏi nhà thờ chính tòa |
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng SDB
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 01:37)
PHÁT DIỆM - Ngày 23.4.2008, một ngày của Chúa đã được Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Giáo phận Thanh Hóa, Giám quản Giáo phận Phát Diệm chọn làm ngày Truyền chức Linh mục cho Phó tế Phêrô Nguyễn văn Phương.
Đúng 9 giờ sáng, đoàn rước Đồng tế do Đức Cha Giuse Chủ sự đã cùng quý Cha trong giáo phận và ngoài giáo phận, quý Hội Dòng, gia đình và các vị ân nhân của Thầy Phó tế Phêrô tiến vào vương cung Thánh Đường Nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm. Đức Cha Giuse Chủ sự Thánh lễ đồng tế cùng với 70 linh mục và có thể thấy giáo dân đến tham dự khoảng trên 3.000 tín hữu. Xin dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì Thánh lễ diễn ra rất tốt đẹp và trọng thể trong không khí tràn ngập niềm vui, hân hoan và tạ ơn.
Tân Linh mục Phêrô Nguyễn văn Phương sinh năm 1971, quê tại giáo xứ Hoài Lai, giáo phận Phát Diệm. Ngay khi học xong cấp III, năm 1988, Cha đã được nhận vào lớp tu sinh do Đức Cha Giuse Nguyễn văn Yến phụ trách và giảng dạy. Đến tháng 9 năm 2000, Cha Phêrô vào học Đại Chủng Viện thánh Giuse Hà Nội. Ngày 31 tháng Năm năm 2007, Cha lãnh nhận chức Phó tế. Ngày hôm nay, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh đã trao thánh vụ chức Linh mục cho Cha Phêrô cùng với mong ước và tin tưởng vào Tân Linh mục sẽ luôn luôn thực thi sứ mạng cao đẹp Chúa đã trao theo như câu khẩu hiệu từ tinh thần của thánh Phanxico “Yêu thương và Phục vụ” mà Cha Phêrô đã cầu nguyện và chọn cho cuộc đời linh mục của mình.
Cuối Thánh lễ, Cha Phêrô đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và bảy tỏ lòng tri ân thành kính Đức Cha, Cha Cố, các Cha trưởng hạt, quý Cha trong giáo phận và ngoài giáo phận, quý Hội Dòng cùng quý Ân nhân, thân nhân trong gia đình và toàn thể anh chị em giáo dân đang hiện diện trong Thánh lễ vì tình yêu mến đến đây hiệp dâng Thánh lễ cảm tạ Thiên Chúa. Và Cha Phêrô tin rằng, tình Chúa, tình người luôn ấp ủ ngài trong suốt mọi ngày trong ơn gọi làm Linh mục của Chúa, Cha Phê rô chia sẻ: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Đây là câu tục ngữ mà ai trong chúng ta cũng thuộc và muốn chính mình cũng như những người khác thực hành như vậy. Mỗi người chúng ta, dù ở Đấng bậc hay ơn gọi nào thì ngày nào chúng ta cũng được uống no thoả rât nhiều hông ân mà phát xuất nguồn từ chính Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn cho con người nhận ra điều đó để cảm tạ, ngợi khen Ngài”.
Trong tâm tình đó, Cha Phêrô dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Cha một hồng ân đặc biệt; Thiên Chúa đã ban cho giáo xứ Hoài Lai một vị Linh mục được hằng ngày dâng Thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa.
Teresa Avila Thùy Chi
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 16:06)
CHICAGO - Chúng tôi vừa nhận được thư báo tin của Dòng Ngôi Lời cho biết: vào ngày 24 tháng 5 năm 2008 tại Chicago/Techny,IL Dòng Ngôi Lời, Tỉnh Dòng Chicago được Thiên Chúa thương ban cho thêm 9 tân linh mục, trong đó có 8 tân linh mục Việt Nam và một Trung Quốc. Sau đây là danh sách các tân chức:
|
| Các ứng viên Linh mục Dòng Ngôi Lời khóa 2008 |
1. L.m. Đinh Xuân Chiến, SVD, bài sai phục vụ tại Hoa Kỳ, Tỉnh Dòng Miền Nam
2. L.m. Đinh Ngọc Ký, SVD, bài sai phục vụ tại Hoa Kỳ, Tỉnh Dòng Miền Tây
3. L.m. Đỗ Thành Michael, SVD, bài sai phục vụ tại nước Mozambique, Phi Châu
4. L.m. Nguyễn Công Anthony, SVD, bài sai phục vụ tại nước Mozambique, Phi Châu
5. L.m. Nguyễn Châu Joseph, SVD, bài sai phục vụ tại Hoa Kỳ, Tỉnh Dòng Miền Nam
6. L.m. Nguyễn Quang Khoa, SVD, bài sai phục vụ tại nước Mexico
7. L.m. Nguyễn Văn Long, SVD, bài sai phục vụ tại Hoa Kỳ, Tỉnh Dòng Miền Tây
8. L.m. Phan Trọng Chinh, SVD, bài sai phục vụ tại nước Paraguay
9. L.m. Chen Zhongxue, SVD, bài sai phục vụ tại nước Trung Quốc / Hồng Kông
Đây là hồng ân và món quà Thiên Chúa ban cho, qua sự khuyến khích, hy sinh, và nâng đỡ về mọi mặt của gia đình quý tân linh mục và rất nhiều quí ân nhân cùng bạn hữu trong bao năm qua và còn tiếp tục nữa. Nguyện xin Thiên Chúa luôn chúc lành cho qúi tân linh mục, gia đình và Nhà Dòng Ngôi Lời.
Dòng Ngôi Lời là một Dòng truyền giáo quốc tế với hơn 6000 linh mục và tu sĩ phục vụ trên 67 quốc gia. Nên những tân linh mục Ngôi Lời này được bài sai đi rao giảng Lời Chúa khắp nơi nơi.
Các bạn trẻ muốn liên lạc tìm hiểu về Dòng Ngôi Lời, xin liên lạc:
L.m. Đinh Đức Quang, SVD, Director of Formation, Divine Word Theologate, địa chỉ: 5342 S. University Ave, Chicago, IL 60615, Tel. 626.922.7221, email: [email protected] Lễ Thụ Phong Linh Mục của Thầy Phó Tế Giuse Nguyễn Ngọc Lâm Ngoài ra chúng tôi cũng được tin vui khác là Thầy Phó Tế Giuse Nguyễn Ngọc Lâm sẽ được thụ phong linh mục vào ngày Lễ Hiện Xuống, 11 tháng 5 năm 2008.
Thầy Lâm sẽ là linh mục Việt Nam thứ hai được thụ phong cho Giáo Phận Saint Augustine, Jacksonville, Florida. Linh mục đầu tiên thụ phong cho giáo phận Saint Augustine là cha Bùi Quang Dũng.
Xin qúi độc giả thêm lời cầu nguyện cho các tân chức được tràn đầy hồng ân Thiên Chúa và chia mừng với gia đình các tân chức.
VietCatholic
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 07:56)
THUẬT NGỮ “TỬ VÌ ĐẠO” VIẾT THÀNH “TỬ ĐẠO “, CÓ NÊN KHÔNG ?
Trong nước, Đức Cha Phaolo Bùi Văn Đọc chủ trương làm quyển “Từ vựng Công giáo Việt nam”, ngoài nước, VietCatholic “dịch” Từ điển Tôn giáo. Các nhà thông thái Việt nam thấy rõ đã đến lúc phải có Từ điển thống nhất cho Giới Công giáo Việt nam.
Như là hưởng ứng việc làm của các Đấng, tôi xin đóng góp một số suy nghĩ trong cách dùng một ít từ ngữ. Bài nầy xin nói đến thuật ngữ “tử vì đạo” được nói gọn lại là “tử đạo”.
1/ Tử vì đạo
Tiền nhân chúng ta đã dùng ba từ “Tử vì đạo” như một thuật ngữ để chỉ chứng nhân của Chúa Kytô đã tuyên xưng mình chỉ tôn thờ Thiên Chúa, chỉ tôn thờ Chúa Kytô mà thôi và khước từ tôn thờ thần thánh khác trước áp lực của thế quyền đến nỗi bằng lòng chịu chết vì niềm tin nầy.
Trong lá thư Ông Ben Tô Thiện viết cho cha Philipphê Marini ở Roma ngày 25-10-1659, có đoạn viết: “Ơn Đức Chúa Blày (Đức Chúa Trời) blả cỗn (trả công) cho thầy đờy đờy (thầy đời đời) bấy nhiêu mlờy tôy (lời tôi) chép tháng mườy (mười) Igreja (Giáo hội) mà thư nầi (nầy) thì ngài (ngày) lệ Ba thánh Daria cù ôn (cùng ông) thánh Chrisanto tử vì đạo…”.
Hai quyển sách viết của linh mục Bỉnh ở Lisboonne, Bồ đào nha, năm 1822, quyển thứ nhất có nhan đề “Truyện nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng Trão (Trong), ngài viết: ‘Nói sự từ khi Tổ Tôn ta biết Đ.C.B (Đức Chúa Trời) mà thờ phượng cũ (cùng) các th’ (thánh) chịu tử vì đạo, và các kẻ nhân đức cũ (cùng) nhiều sự khác …”
Quyển thứ hai, đoạn thứ bảy viết: Nói sự thầy André trẻ tử vì đạo.
Một số kinh chung cho các địa phận:
- Kính lạy Các Thánh Tử Vì Đạo nước Việt nam, ơn Chúa thương đã được sức mạnh đổ máu mình ra vì lòng kính mến Đức Chúa Giêsu….. xin các thánh hợp một lòng cùng rất Thánh Đồng trinh Maria là Nữ vương các Thánh Tử vì đạo.
- Kinh cầu Đức Bà: Nữ vương các Thánh tử Vì đạo (Vị nghĩa xã mệnh giả chi hậu).
- Kinh cầu Tên rất thánh Đức Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là sức mạnh Các Thánh tử vì đạo.
2/- Tử đạo
Có khuynh hướng dùng song song thuật ngữ Tử vì đạo và Tử đạo
- Kinh cầu cho các Đấng chân phúc tử đạo Annam được phong hiển thánh (báo Đức Bà Hằng Cứu giúp tháng hai năm 1938, số 32, trang 24).
- Một Đấng Tử vì đạo … chết vì Đức Chúa Giêsu làm vua (báo Đức Bà Hằng Cứu giúp số 33, tháng 3 năm 1938, Hà nội trang 49).
Bây giờ, người ta dùng: Các Thánh tử đạo.
3/ Các sách báo
Eugène Gouin, Dictionnaire Vietnamien, Chinois, Français, Saigon 1957.
Tử: tử đạo = devoir des enfants. Tử đạo = chemin de la mort. Tử đạo (tử vì đạo) = mourir pour la religion.
Marguerite-Marie thiollier, Dictionnaire des religions, Lê Diên dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hanoi, 2001. Dịch Martyre = tử vì đạo, tuẫn đạo (tiếng Hy lạp: martus, -uros, bằng chứng). Tra tấn, khổ hình, cái chết mà một người nào đó gánh chịu để bảo vệ lòng tin tôn giáo của mình.
Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công giáo Anh Việt, Nhà xuất bản tôn giáo, 2002. Martyr dt. Thánh tử đạo, thánh tử vì đạo, thánh chứng nhân (= người thà chịu đau khổ, thậm chí chịu chết hơn là chối bỏ đức tin (faith) hay các nguyên tắc của Kitô giáo).
4/ Cái lý của tiền nhân dùng thuật ngữ Tử Vì Đạo
Từ ngữ TỬ đươc dùng: ngày sinh, ngày tử, giấy khai sinh, giấy khai tử, giờ sinh, giờ tử v.v... Từ ngữ tử là chữ Hán đã được dân ta dùng rộng rãi như chữ nôm.
Từ ngữ ĐẠO đươc dùng: đi đạo, vào đạo, theo đạo, có đạo, đạo Phật, đạo Gia tô, đạo Công giáo như chữ nôm. Vì thế, tiền nhân chúng ta gồm những bậc túc nho, thâm nho đã không nói chết vì đạo là tử đạo mà nói chết vì đạo là tử vì đạo. Dầu Eugène Gouin giải thích từ ngữ “tử đạo có ba nghĩa khác nhau, thật sự chỉ có một nghĩa: tử đạo là con đường chết, hoàn toàn trái với ý nghĩa tử vì đạo. Trong bầu không khí, vua chúa quan quân đi bắt tín hữu của Chúa Kitô, ba chữ tử vì đạo dễ hiểu và như là ba chữ vàng dành cho người công giáo hơn hẵn hai chữ tuẫn đạo vừa khó hiểu vừa không phải là khẩu hiệu giúp người ta sống đạo. Vì thế, tiền bối của chúng ta đã dùng thuật ngữ tử vì đạo.
LM Fx Nguyễn Hùng Oánh
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 02:46)
MỘT LINH MỤC XÂY SẴN NHÀ AN NGHỈ TIỀN NHÂN CHO GIÁO DÂN
Huế, Việt Nam.-(25.4.2008)
Nhằm giúp giáo dân tiết kiệm được nhiều chi phí trong việc cải táng khi nghĩa trang của giáo xứ sắp có lệnh phải di dời. Một linh mục, đang xây sẵn ngôi nhà có sức chứa gần 5.000 hộp đựng hài cốt, phía sau Thánh đường của khuôn viên giáo xứ.
Chính quyền địa phương đang có dự án nới rộng đô thị để lấy lại di tích lịch sử- văn hoá có tên gọi là Thành Lồi, làm khu du lịch, một công trình kiến trúc, hình thang với 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trung bình mỗi cạnh từ 350-750 mét, được đắp bằng đất, cao chừng 2-4 mét của người Chăm có từ thế kỷ 15.
|
| Nhà an nghỉ tiền nhân Phường Đúc, công trình đầu tiên của giáo phận Huế. |
Di tích nầy đã trở thành hoang phế từ thế kỷ 18, những cư dân địa phương đã biến vùng đất gò đồi này làm khu nghĩa trang, trong đó có khu nghĩa trang của giáo xứ Phường Đúc.
Linh mục Trần Văn Quý, quản xứ Phường Đúc cho biết, nghĩa trang sắp di dời của giáo xứ rộng chừng 6000 mét vuông với hơn 700 ngôi mộ của giáo dân được chôn cất gần Thành Lồi, cách Huế 7 cây số về hướng Tây.
Cha Quý 64 tuổi, đã khởi công xây nhà an nghỉ tiền nhân đầu tiên của giáo phận Huế (từ ngày 26/12/2007 – 11/5/ 2008), với chiều dài 29 mét, rộng 6 mét, cao 16 mét, tổng kinh phí 1,3 tỷ đồng, gồm ba tầng, mái cong theo mô hình đình chùa Á đông, trên đỉnh có Thánh giá và các bức phù điêu nói về Chúa Ba Ngôi, Ngày Phán Xét và mầu nhiệm Năm sự mừng; bên trong có đủ máy móc để bảo quản hài cốt bằng tia cực tím.
Cha Quý đã gặp nhiều khó khăn như chờ giấy phép quá lâu, hoặc từ dự án ban đầu ngài dự trù 800 triệu, do bão giá, vật liệu tăng nhanh, ngân sách hụt, ngài đã viết thư xin giáo dân, ân nhân của ngài trong giáo xứ và các nơi trong và ngoài nước giúp đỡ.
‘’Đây sẽ là nghĩa trang các linh mục giáo phận Huế vì trong tương lai khi nghĩa trang các linh mục Huế ở đồi Thiên Thai có thể sẽ di dời’’, cha Quý nói rằng gian chính giữa Nhà an nghỉ sẽ đặt hài cốt các linh mục, đã từng coi sóc giáo xứ Phường Đúc từ năm thành lập giáo xứ 1658 cho đến nay, cũng như hài cốt của các vị xuất thân từ Phường Đúc..
Ông Gioan Phan Tấn Trọng, chủ tịch hội đồng giáo xứ đánh giá: ‘’việc xây sẵn nhà an nghỉ rất có ý nghĩa cho giáo xứ Phường Đúc, vì năm nay 2008 kỷ niệm đúng 350 năm thành lập giáo xứ’’,.
Lễ hội sẽ được tổ chức trọng thể vào hai ngày 11/5-12/5/2008 là Lễ Chúa Thánh Thần, mừng bổn mạng Giáo xứ với nhiều gian hàng Chợ Quê cũng là dịp khánh thành nhà an nghỉ tiền nhân’’
Ngoài ra, ông Trọng còn cho biết, phía sau vườn, sát chân Thành Lồi, có mộ cha Phêrô Belmonte, dòng tên, chết rũ tù vì đạo ngày 27/5/1700, và 4 ngôi mộ đất của gia đình ông Jean de la Croix, một người được triều đình Huế ưu đãi vì ông đã có công đúc cho vua những khẩu súng đại bác rất đẹp.
Theo lịch sử giáo xứ ghi lại, chính ông Jean de la Croix, một người công giáo Bồ Đào Nha, từ thế kỷ 15 đã thuyết phục được chúa Hiền, chấp thuận cho một vị linh mục đến ở vùng Thợ Đúc ( tức giáo xứ Phường Đúc, ngày nay ).
|
| Cha Quý ( bên trái) và ông chủ tịch giáo xứ Phường Đúc |
Ngoài ra, một số giáo dân cho biết trong vùng nghĩa trang của giáo xứ sắp di dời có 12 vị tử đạo Việt Nam, trong đó có 2 vị của giáo xứ Thợ Đúc bị án thảo tượng.
Án thảo tượng là án chung thân do các chúa triều Nguyễn áp đặt lên giáo dân không chịu bỏ đạo, họ bị đưa về cơ sở nuôi voi tại thôn Nguyệt Biều và Thợ Đúc ở Thừa Thiên Huế. Tại đây, hằng ngày họ phải đi cắt cỏ cho voi ăn cho đến khi họ qua đời. Người dân địa phương, Lương cũng như Giáo quen gọi là 12 Ông Cỏ. Năm 1999 Đức tổng giám mục Huế đã giao cho cha Phêrô Quý tôn tạo lại 12 ngôi mộ nầy.
Giáo xứ Phường Đúc từng được chọn làm toà giám mục và đặt đại chủng viện đầu tiên cho giáo đoàn đàng trong (1741-1888).Từ thế kỷ 16 đến nay, giáo xứ Phường Đúc đã cống hiến cho Giáo hội 16 linh mục trong đó có linh mục Thánh Emanuel Nguyễn Văn Triệu, linh mục sử gia công giáo Phan Phát Huờn, linh mục Giuse Phan Thiện Ân nguyên bề trên Dòng Chúa Cứu Thế, hiện là linh hướng Đại chủng viện Hà Nội.
Phêrô Nguyễn Ngọc Giáo
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 21:56)
Băng-Cốc--- Vào Chúa nhật ngày 20/04 vừa qua, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, giám mục phụ tá giáo phận Bùi Chu, trong chuyến đi dự cuộc họp của Hội Đồng Giám mục Á Châu, đã kết hợp tới viếng thăm sinh viên Việt Nam và cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở Băng-Cốc, Thái Lan.
• Alô! Nghi hả? Em gọi điện thoại thông báo cho các bạn chiều mai 4 giờ có thánh lễ tiếng Việt nhé! Có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, từ Việt Nam sang thăm đấy!. Nhắn chị Thoa tập hát nữa nghe!
• Cha Đức ơi, ngày mai thì làm sao chuẩn bị kịp?
• Thì cứ cố gắng hết sức đi!!!
Vậy mà, bất chấp nỗi lo lắng của sinh viên chúng tôi, thánh lễ Việt Nam tại trường đaị học Assumption, vẫn diễn ra trong sự ấm cúng, thân tình của các Kitô hữu Việt Nam trên xứ sở Chùa Vàng.
Cùng đồng tế trong thánh lễ với Đức cha Phêrô, có cha Giuse Nguyễn Tiến Đức- dòng Đa Minh Việt Nam, và cha Gioan Phan Quốc Trực- dòng Ngôi Lời. Hiện diện trong thánh lễ hôm nay, có qúy xơ Việt Nam-dòng Mân Côi, qúy xơ Việt Nam- dòng Lasan Thái Lan và qúy thầy dòng Chúa Cưú Thế Việt Nam..
Đến tham dự thánh lễ với sinh viện Việt Nam, còn có các bạn lao công Việt Nam ở Băng-Cốc. Họ là những bạn trẻ người Việt vì hoàn cảnh khó khăn đã sang Thái lao động. Vì là những người sang Thái làm việc không được chính phủ công nhận, nên họ luôn lo âu, bất ổn vì sợ cảnh sát Thái bắt. Vậy mà, họ đã vượt những chặng đường dài, bất chấp khó khăn, đến với Chúa và để gặp gỡ Đức Cha Phêrô trong tâm tình của những con dân Việt Nam đến gặp mặt vị chủ chăn.
Thánh đường Assumption bé nhỏ như càng ấm cúng hơn bởi cộng đoàn chúng tôi ngồi xích lại gần nhau để cùng chia sẻ tâm tình với nhau, với vị chủ chăn, và với Chúa.
Số người tham dự vượt ngoài dự đoán, nên khi chia nhau tờ giấy hát, có chỗ hai người phải coi chung một tờ. Tiếng hát dù thiếu tiếng đàn piano đệm thường ngày, nhưng vẫn không kém phần trang trọng và thân tình. Mọi người ai cũng hồ hởi bởi ai cũng hiểu đâu phải dễ có dịp được tham dự thánh lễ của Đức Cha Việt Nam trên đất nước đền chùa Thái Lan này!
Một sự trùng hợp thú vị là bài tin mừng ngày hôm nay đề cập về sự mạc khải của Chúa Giêsu “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống.” Trong bài giảng, đức cha Phêrô đã hun đức đức tin cho chúng tôi khi nói: “Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến với Chúa Cha…” Ở đất nước Phật Giáo như Thái Lan, tìm đường đến với Chúa, đi lễ, đến nhà thờ quả không thuận tiện như ở Việt Nam, nhất là đối với các bạn trẻ sang lao động. Đối với sinh viên chúng tôi, việc giữ Chúa trong lòng, tránh xa các cám dỗ của đời sống xa nhà, thật là khó!. Huống hồ những bạn trẻ cùng tuổi với chúng tôi, họ vừa phải đánh vật với cuộc sống bên này, vừa phải tìm đường đến với Chúa, nên họ vất vả hơn chúng tôi bội phần!
Những tâm tình của cha Đức với Đức Cha Đệ tự nhiên làm tôi xúc động! Để tổ chức một thánh lễ cho người Việt quả là một sự cố gắng lớn của các cha cũng như của cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở Băng- Cốc. Khởi sự từ việc tìm nhà thờ, đến việc tránh cảnh sát Thái, và trốn chủ nhà để đến nhà thờ, những người đi lao động vẫn không quản ngaị để đến với Chúa.
Tôi cảm phục những người dù vất vả, khổ cực nhưng vẫn giữ trọn niềm tin và hướng về Chúa như một điểm tựa vững chắc! Và tôi cũng thầm cảm ơn Chúa, cảm ơn những đóng góp của các bạn sinh viên đã tạo điều kiện để tôi và những bạn trẻ khác được đến gần Chúa và muốn sống theo Lời Chúa daỵ.
Buổi lễ đã kết thúc trong tình thân ái của mọi người. Những nụ cười thật tươi bên đức cha Phêrô, bên qúy cha qúy xơ và các bạn trẻ công giáo, có lẽ không chỉ lưu laị trong quyển album của sinh viên công giáo, mà còn trong trái tim mỗi người tham dự thánh lễ ngày hôm đó!!!
Phương Nghi Vũ
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 09:19)
PHÁT DIỆM 23/04/08 -Chiều nay, ngày 23 tháng 4 năm 2008, hồi 15g, tại giáo xứ Trì Chính, giáo phận Phát Diệm, Đức Cha Giám quản Giuse Nguyễn Chí Linh cùng linh mục đoàn Phát Diệm, quý cha đến từ các giáo phận Hà Nội, Hải phòng, Thanh Hóa, Bùi Chu, Thái Bình, đã dâng Thánh lễ trọng thể khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ Trì Chính (1908-2008).
Từ cổng vào nhà thờ Trì Chính, chúng tôi đọc được băng rôn « Hồng Ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người » và trên lễ đài là một câu trong Thánh vịnh 99 « Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ». Trong thánh lễ, cả hai bài đọc (Sir 50, 24-26; 1 Cor 1,3-9) và bài Tin Mừng (Lc 19,11-17) đều nói lên tâm tình tri ân Thiên Chúa. Năm Thánh là dịp để giáo xứ Trì Chính cảm tạ muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đổ xuống trên giáo xứ, trên mỗi người và cũng là dịp để các thế hệ người Trì Chính tri ân tổ tiên, các Đấng các bậc đã hy sinh, nhiệt tình gieo và vun trồng đức tin cho họ trong suốt một trăm năm qua.
Nằm dọc theo bờ sông Vạc, cách Tòa Giám Mục Phát Diệm khoảng 1 km, giáo xứ Trì Chính là một giáo xứ chỉ có 1.300 nhân danh với 3 giáo họ: Trị Sở, Kiến Thái, Thủy Cơ. Trì Chính nhỏ bé, nhưng lại là một trong những giáo xứ kỳ cựu của giáo phận Phát Diệm. Họ Kiến Thái vinh dự là nơi sinh trưởng của Đức Cha Gioan B. Phan Đình Phùng, vị giám mục đầu tiên xuất thân từ quê hương Phát Diệm. Hơn nữa, đầu thế kỷ XX, Trì Chính là nơi tọa lạc những cơ sở tu trì, đào tạo, in ấn của giáo phận Phát Diệm: Dòng Kín Carmel (1939), Trường Thử, Nhà in Lê Bảo Tịnh, trụ sở Nguyệt san Đường Sống. Một trăm năm đã đi qua, biết bao nhiêu sự kiện thăng trầm đã diễn ra, để lại bao nhiêu mất mát và thương tích trên mảnh đất của giáo xứ nhỏ bé và nghèo nàn này. Trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, nhiều trận bom đạn dội xuống đây, phá hủy bình địa Dòng Kín, (sau này là nhà in Lê Bảo Tịnh), Cô nhi viện, trường học. Hiện nay Trường Thử (do Đức Cha Gioan B. Nguyễn Bá Tòng mua đất năm 1936 và Đức Cha Anselmo T. Lê Hữu Từ thực hiện từ năm 1946-1954) vẫn còn đó, nhưng Chính quyền đang mượn từ nhiều năm nay.
Trong biến cố 1954, đa số giáo dân Trì Chính đã đi di cư vào miền Nam, từ con số 2.100 nhân danh, sau 1954 chỉ còn lại 8.000 người, dưới sự coi sóc của Cha Giuse Trần Văn Lại. Trong những thập kỷ 60 và 70, Trì Chính xơ xác điêu tàn vì chiến tranh, vì những khó khăn mọi mặt của thời thế kéo theo thiếu thốn về nhân sự. Đã có lúc tưởng chừng cái tên giáo xứ Trì Chính bị xóa sổ. Quá khứ đau thương và đen tối như thế, nhưng hôm nay, nhìn vào một giáo xứ sầm uất với những sinh hoạt phong phú của nhiều hội đoàn, một cộng đoàn sống đạo sốt sắng, trong bài giảng của mình, Đức Cha Giám quản Giuse Nguyễn Chí Linh đã nói đến cuộc đời thánh Phaolô Tông đồ, đến gương của thánh Alphongsô trạng sư, để làm nổi bật một chân lý: cho dù lịch sử có thế nào, Thiên Chúa vẫn yêu thương, quan phòng; Thiên Chúa có thể biến những sự dữ thành sự lành, và theo thánh Phaolô « mọi sự đều có ích lợi cho những ai có lòng yêu mến » (Rm 8,28). Như vậy, dưới con mắt đức tin, tất cả đều là hồng ân của Chúa. Cuối bài giảng, Đức Cha Giám quản lấy hình ảnh một em bé nép vào lòng mẹ vì em hoàn toàn tin tưởng vào mẹ mình để nói lên đời sống đức tin, tâm tình phó thác, tri ân như sức mạnh, như nền tảng để xây dựng một giáo xứ hiệp nhất và yêu thương.
Thánh lễ kết thúc khi chiều đã tắt nắng. Các xe ôtô biển số 29D, 16N, 36E vội vã lên đường. Trong dòng người từ thánh đường tỏa ra các lối, tôi như đọc được niềm vui, một niềm vui thiêng thánh, trên những khuôn mặt của giáo dân Trì Chính, nhất là của cha quản nhiệm Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, người đã trực tiếp cùng giáo dân Trì Chính cả tháng trời miệt mài làm đường, trồng cây, sửa sang khuôn viên nhà thờ để đón chào sự kiện trọng đại này. Tôi cũng thấy những nụ cười rạng rỡ của những người ngoài Công giáo, hàng xóm của nhà thờ, như ông Như, bà Lan và rất nhiều người khác nữa. Cả một tháng qua, họ đã xóa tan những mặc cảm, họ hiểu hơn vấn đề đất đai của giáo xứ, họ hòa mình cùng giáo dân Trì Chính xây dựng khuôn viên thánh đường cho khang tranh hơn, đẹp đẽ hơn. Cha Hồng Phúc nói với tôi: « Đó là dấu hiệu đầu tiên của ơn Chúa xuống cho giáo xứ Trì Chính đấy ! ».
Vũ Văn Được
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 20:32)
CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG, năm A
Ga 20, 19-23
Xem ra có một cái gì đó vẫn chưa ổn đối với các tông đồ khi Chúa Giêsu bị bắt, bị treo trên thập giá và ngay cả khi Ngài đã sống lại ! Cái chưa ổn, đó là phong ba bão táp trong lòng các tông đồ. Thầy Giêsu, một Vị Thầy đầy uy quyền, làm nhiều phép lạ, đã bị giết chết. Làm sao các tông đồ lại có thể yên lòng, bình chân như vại được ru ? Các Ngài cứ tưởng Thầy Giêsu sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen để rồi các được nhiều đặc quyền đặc lợi. Nhưng đùng một cái, mọi sự đều biến tan theo mây khói. Các Ngài sợ hãi người Do Thái, ở im lìm trong một ngôi nhà tại Giêrusalem, các cửa đều đóng kín và rồi Chúa Phục Sinh hiện đến, thổi hơi ban Thánh Thần cho các Ngài. Cuộc đời các Ngài thay đổi từ đây…
CHÚA PHỤC SINH HIỆN ĐẾN THỔI HƠI, TRAO BAN THÁNH THẦN VÀ 50 NGÀY SAU CHÚA THÁNH THẦN NGỰ ĐẾN KHIẾN CUỘC ĐỜI CÁC TÔNG ĐỒ HOÀN TOÀN ĐƯỢC ĐỔI MỚI:
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại cách rất rõ rệt, sau khi hiện ra, trấn an các tông đồ trong ngôi nhà cửa kín then cài, Chúa Phục Sinh thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho họ. Người nói:”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” ( Ga 20,22 ).Tuy nhiên, năm mươi ngày sau khi Chúa sống lại, vào buổi sáng Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa.Các tông đồ bỗng thay đổi hẳn: sự nhút nhát, sợ hãi biến khỏi các ông. Các ông đã trở nên những chứng nhân hiên ngang rao giảng Tin Mừng. Bởi vì, các tông đồ đã nhận được sự bình an của Chúa Phục Sinh. Sự bình an thật trong tâm hồn. Bình an của Chúa Phục Sinh khiến các tông đồ có thể đối diện với khổ đau và đối diện ngay cả cái chết. Do đó, Chúa Phục Sinh đã truyền lệnh cho các Ngài:” Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” ( Ga 20, 21 ). Các tông đồ được Chúa sai đi. Các Ngài đã hiên ngang, kiên cường vì như bài sách công vụ thuật:” Chính trong ngày lễ trọng đại của người Do Thái, năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Dịp lễ đặc biệt này qui tụ nhiều dân thuộc mọi thứ tiếng về Giêrusalem. Cũng trong ngày lễ vô cùng trọng đại này mà hoạt động của Chúa Thánh Thần được biểu lộ một các rõ ràng. Các tông đồ của Chúa Phục Sinh nói tiếng lạ và nhiều người thuộc mọi ngôn ngữ đều hiểu những gì các Ngài nói. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần tạo nên sự hiệp nhất chứ không như tình trạng con người muốn xây tháp Babel xưa. Còn thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã viết: “ Trong một Thánh Thần chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần “ ( 1 Co 12, 13 ). Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ, an ủi, soi sáng, ủy lạo vv…Chúa Thánh Thần còn được ví như: ” Quả tim mới “ theo ngôn ngữ của ngôn sứ Edêkiên. Hội Thánh của Chúa ở trần gian trong niềm tin của mình Chúa Thánh Thần chính là nguồn sống mới, nguồn sống vô biên.
CÁC TÔNG CHỖI DẬY, RAO GIẢNG VÀ XÂY DỰNG MỘT NGÔI NHÀ CHUNG ĐẦY ẮP TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ HIỆP NHẤT:
Được đầy tràn Thánh Thần, các tông đồ nhất nhất đã chỗi dậy, đã nắm lấy lịch sử của Hội Thánh. Các Ngài đã ra đi khắp tứ phương thiên hạ để đến với muôn dân, xây dựng Giáo Hội huynh đệ và hiệp nhất. Các Ngài đã để cho Chúa Thánh Thần mở toang tâm hồn, mở toang cõi lòng của họ, không còn nhát đảm sợ sệt, không còn xao xuyến hoang mang, nhưng các Ngài đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh và giới thiệu Nước Trời cho nhiều người. Nhờ Chúa Thánh Thần nhờ ngọn lửa tình yêu, các tông dồ đã mau mắn, nhanh nhẹ ra đi làm chứng cho Chúa bất chấp hiểm nguy, bất chấp khó khăn cho dù phải hy sinh tới cả tính mạng của mình. Đi tới đâu, các tông đồ cũng xây dựng giáo đoàn, xây dựng Hội Thánh. Và Giáo Hội của Chúa luôn đầy ắp tình thương, luôn xây dựng nước trời. Lễ Hiện Xuống là một cuộc hiển linh, một sự bầy tỏ Hội Thánh cho thế gian. Công Đồng Vaticanô là một Lễ Hiện Xuống mới. Công Đồng Vaticanô tuyên bố:” Bằng việc liên hệ của mình với Đức Kitô, Giáo Hội là một loại bí tích hay là một dấu chỉ sự hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa và hợp nhất mọi dân nước. Giáo Hội cũng là khí cụ kiến tạo nên một sự hiệp nhất như vậy”.
GIÁO HỘI MỜI GỌI CHÚNG TA LÃNH NHẬN CHÚA THÁNH THẦN:
Như các tông đồ cùng với Mẹ Maria trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện, chờ đón lãnh nhận Chúa Thánh Thần, mỗi người Kitô hữu chúng ta khi được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cũng đang được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng. Mọi Kitô hữu đã có Chúa Thánh Thần luôn được mời gọi làm chứng cho Chúa, bởi vì Hội Thánh là Hội Thánh truyền giáo. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh có nghĩa là đến với những người nghèo, những người neo đơn, đau khổ, những người gặp khó khăn, những người tù bị tù đầy, những người bệnh hoạn tật nguyền. Làm chứng cho Chúa là mở tung cửa lòng của mình ra để cho Chúa ngự. Làm chứng cho Chúa là không nhát đảm chối Chúa khi gặp khó khăn, dám tuyên xưng niềm tin khi phải tuyên xưng niềm tin. Mỗi người Kitô hữu phải có thái độ sám hối, quay về như Phêrô: ” Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy “. Làm chứng cho Chúa là xây dựng sự hiệp nhất giữa nhau, giữa các cộng đoàn, giữa các giáo xứ, giáo họ. Làm chứng cho Chúa là gieo vãi tình thương và bình an của Chúa cho nhiều người. Tình thương và bình an là hoa trái tốt lành của Chúa Thánh Thần. Sự bình an phát xuất bởi Chúa Phục Sinh và tình thương tự hiến do Chúa trao tặng cho nhân loại. Chúng ta cầu xin tái diễn một Lễ Hiện Xuống mới để mọi người hiểu biết sâu xa hơn về Giáo Hội của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến! Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến.
Cách đây hơn 2.000 năm, Thánh Thần của Chúa Phục Sinh bắt đầu ngự xuống trong tâm hồn các tông đồ cách đầy quyền năng. Chúng ta mừng ngày lễ trọng đại này với tất cả niềm tin và tình thương. Xin Chúa Thánh Thần đến trên chúng ta và biến đổi tâm hồn chúng ta hầu chúng ta trở nên những chứng nhân kiên trung của Chúa Phục Sinh.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 20:25)
CHÚA NHẬT THĂNG THIÊN (4/5/08).
Thiên đàng hỏa ngục là đâu?
Ở ngay trên qủa địa cầu đang quay.
Ta luôn có Chúa hằng ngày,
Ngài luôn hiện diện ở ngay lòng mình.
Mỗi khi san sẻ tận tình,
Ái nhân vì Chúa ta hình dung ra.
Ắt lòng sẽ thấy an hòa.
Bình an hạnh phúc khác xa lụy trần.
CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG (11/5/08).
Thánh Thần Thiên Chúa trong ta,
Là nguồn sức mạnh chan hoà thảnh an.
Thánh Thần nguồn mạch khôn ngoan,
Theo Ngài sẽ thắng Satan dẫn đường.
Đường Ngài chỉ lối yêu thương,
Nẻo ngay ắt thoát tai ương cõi trần.
Lợi trần thôi thúc bản thân,
Lụy trần chỉ chuốc lấy phần khổ đau.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI (18/5/08).
Chúa Trời Ngài ở trên trời?
Hay Ngài hiển trị giữa loài thế nhân?
Ta không thấy bởi mắt trần,
Chân thành ắt cảm nghiệm gần sát ta.
Yêu Người mến Chúa thiết tha.
Trọn tình hiếu nghĩa có Cha bên mình.
CHÚA NHẬT LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA (25/5/08).
Máu trong thân thể chính là,
Mạch nguồn sự sống nuôi ta hằng ngày.
Bao người chết đói đó đây,
Vì không lương thực, điều này chứng minh.
Do nhân thế thiếu sẻ tình,
Tình là lương thực dưỡng sinh con người.
Máu Mình Chúa là của nuôi,
Luân lưu huyết quản dưỡng đời tình chung.
Trương Hoàng
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 19:07)
9. Nếu các con muốn được ơn bền đỗ đến cùng, thì nhất định sẽ được.
(Thánh Augustine)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 19:06)
NGỰA CON QUA SÔNGNgựa con và ngựa mẹ cư ngụ bên một con sông đẹp, mỗi ngày ngựa mẹ đều vác lương thực qua sông để đem lương thực cho thôn làng ở phía đối diện.
Một hôm, ngựa mẹ kêu ngựa con đến trước mặt và nói:
“Con ạ, con đã thành một người lớn rồi, nên học giúp mẹ làm chút việc. Hôm nay thì do con đem lương thực đi nhé !” ngựa con nghe xong thì rất phấn khởi, vui vẻ nói: được.
Ngựa con chở lương thực và rất nhanh thì đến bên con sông nhỏ, nó nhìn thấy nước chảy rất mạnh thì trong lòng nghĩ rằng: nước sông sao mà sâu thế này, không biết mình có qua được không ? Khi nó đang còn do dự, thì nó thấy bác trâu đang gặm cỏ bên bờ sông, thế là nó vội vàng chạy đến hỏi:
“Bác trâu, bác có thể nói cho cháu biết con sông này nước sâu bao nhiêu ?”Bác trâu ngẫng đầu lên cười, nói:
“Cháu yên tâm, con sông này nước không sâu đâu, chỉ có ngang cổ chân của bác mà thôi.”Ngựa con nghe xong thì an tâm chuẩn bị qua sông, đột nhiên nó nghe một âm thanh nói:
“Ngựa con, tiên vàn đừng qua sông, nước rất sâu đó !” Ngựa con theo tiếng nói mà đi tới, nhìn thấy một con sóc đang đu ở trên cây lớn, lắc lắc cái đuôi lớn, nói:
“Mấy ngày trước, một người bạn của tớ đùa giỡn bên sông này, vì không cẩn thận nên rơi xuống nước, kết quả là bị nước cuốn trôi mà chết.”Bác trâu nói nước rất cạn, con sóc nói nước rất sâu, ngựa con không biết nghe ai, chỉ có cách là trở về nhà hỏi mẹ, mẹ nó sau khi hiểu sự tình thì dùng lời thành khẩn ý sâu xa nói với ngựa con:
“Vậy thì con có thử đi qua không ? Kinh nghiệm của người khác không nhất định là thích hợp với con !”Ngựa con nghe lời mẹ nói, lại đi đến bên bờ sông, nó thử tiến một bước thì phát hiện nước chỉ đến ngang đầu gối nó mà thôi. Cuối cùng ngựa con cũng qua sông cách thuận lợi, chở lương thực nhắm hướng thôn làng mà đi rất vui vẻ.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Làm việc thì nên suy nghĩ học cách làm độc lập, không thể chỉ nghe người khác, bởi vì kinh nghiệm và ý kiến của người khác không nhất định là thích hợp với mình và công việc mình đang làm, chỉ có chúng ta tự mình suy nghĩ và thử xem sao, mới có thể biết được lý lẽ trong đó.
Có một vài em không muốn làm bài tập ở trường mà chỉ muốn làm bài tập ở nhà, bởi vì các em khi lên lớp thì không nghe lời thầy co giảng, muốn về nhà làm bài tập để có cha mẹ hoặc anh chị làm dùm; cũng có một vài em học sinh luôn cứ nhờ người khác làm bài tập, vì các em đó không tích cực học hành, kết quả là em không theo kịp chúng bạn, thế là nản chí và bỏ học.
Lắng nghe ý kiến của người khác là điều tốt, nhưng không phải tất cả mọi ý kiến đều thích hợp với mình. Tốt nhất là học cách của con ngựa nhỏ là về nhà hỏi mẹ rồi tự mình đi làm thử xem sao.
Các em thực hành:- Nghe lời thầy cô giảng bài khi đến trường.
- Tập cách suy nghĩ độc lập, chỉ lúc nào “bí lù” mới hỏi người khác.
- Cha mẹ là người đáng tin cậy nhất để các em hỏi những điều mà mình muốn biết.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 16:23)
Mẹ Maria trong xưởng thợ Thánh GiuseTháng năm, Thánh Hoa, tháng kính Mẹ Maria, lại trở về không chỉ với bầu trời trong xanh, khí hậu tươi mát dịu dàng, nhưng năm nay ngày mồng 1 tháng 5 đồng thời cũng là ngày Giáo Hội kính trọng thể Lễ Chúa Thăng Thiên và đương nhiên cũng là ngày lễ Thánh Giuse Thợ. Sự trùng hợp đáng yêu của ba biến cố vĩ đại trên là dịp thuận tiện mời gọi tất cả chúng ta cùng đầy lòng yêu mến hướng nhìn cuộc sống của Thánh Gia Thất Na-da-rét.
|
| "Et erat subditus illis" (Lc 2,51) |
Thật ra, về những năm sống ẩn dật của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria và của Thánh Cả Giuse ở Na-da-rét, không một sử liệu nào tường trình lại một cách đầy đủ và rõ ràng, hoặc bằng văn từ hoặc bằng hình ảnh. Chỉ có một hoạt cảnh được trình bày bằng tranh trước đây mấy thế kỷ, đó là hoạt cảnh trong xưởng thợ Thánh Giuse của Cesare Mariani (xem hình kèm đây). Năm 1883, Cesare Mariani đã vẽ bức họa đó trong nhà thờ Thánh Giuse Thợ: Mẹ Maria đứng dựa tay vào bàn mộc trong xưởng thợ của Thánh Giuse, mặc chiếc áo khoác dài mầu xanh da trời và đang âu yếm nhìn Giêsu Con Mẹ đang tập cưa một thanh gỗ, đưới sự dìu đắt đầy tận tình và kiên nhẫn của người cha nuôi Giuse. Nhưng chính thanh gỗ mà trẻ Giêsu đang cưa đục đó lại là một cây thập giá, như dấu chỉ báo trước cái chết đau thương sau này trên Núi Sọ của Người. Dưới bức ảnh được đề hàng chữ bằng tiếng La-tinh:
«Et erat subditus illis» - Và Người tùng phục các ngài! (Lc 2,51).
Mariani là một đại diện của trường phái Rôma có tên là Purismus lịch sử, ngược lại với trường phái Ba-rốc và cổ điển. Đó là một trường phái không muốn chứng minh gì hơn là thực tại lịch sử; nhưng cũng vì thế, tác động do trường phái này mang lại có tính cách lạnh lùng và nhạt nhẽo.
Tuy thiếu đi những hình ảnh về những năm tháng ẩn dật của Mẹ Maria ở Na-da-rét, nhưng qua tác phẩm «Kommentar zum Magnifikat» của ông, chính Martin Luther đã diễn tả một cách rõ ràng về cuộc sống của Mẹ Maria như sau:
«Bà (Mẹ Maria) không khoe khoang tự mãn, không kiêu kỳ vênh vang cho mình đã trở thành Mẹ Thiên Chúa. Bà không đòi hỏi danh dự, nhưng Bà tiếp tục chu toàn mọi công việc trong gia đình như trước kia: Vắt sữa bò, nấu nướng, rửa bát đĩa, quét dọn nhà cửa và làm hết mọi việc trong nhà như một nữ gia nô hay một người mẹ nội trợ, kể cả những việc nhỏ nhặt và tầm thường nhất, như thể bà không hề nhận lãnh được những ân sủng vô cùng trọng đại nào cả. So sánh với các người phụ nữ láng giềng lối xóm, người ta không hề ghi nhận được gì có vẻ cao quý khác lạ nơi Bà hơn trước kia; Bà không yêu sách đòi hỏi gì cả, nhưng Bà luôn vẫn là một người phụ nữ nghèo hèn giữa đám những người đói khổ. Ôi, thật là một con tim đơn sơ và trong trắng biết bao! Ôi, thật là một đứa con tuyệt vời biết chừng nào của cả nhân loại! Làm sao những sự vô cùng trọng đại như thế lại được che dấu trong một con người nhỏ nhoi hèn yếu như thế!» (IV,4).
Lạy Mẹ Maria, chính vì tâm hồn đầy khiêm nhu chân thành như thế của Mẹ, Mẹ đã được Thiên Chúa tôn lên là Nữ Vương của cả trời đất. Xin Mẹ dạy cho chúng con biết sống khiêm nhu như Mẹ, để chúng con luôn xứng đáng là những đứa con yêu của Mẹ và ngày sau được cùng Mẹ về hưởng hạnh phúc Thiên đàng muôn đời. Amen
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 10:07)
Bó bông hoa tháng Năm
Trong thiên nhiên, thời tiết tháng Năm mát dịu, cành lá của cây cối trổ xanh tươi, bông hoa nhú nụ nở tươi thắm, loài Chim chóc, Ong Bướm, Chuồn Chuồn bay chuyền lượn, kêu hót trong khắp không gian… Một sức sống mới vươn lên tô điểm cho khu vườn nhiều mầu sắc rực rỡ.
Niềm vui đời sống đức tin cũng hòa lẫn với thiên nhiên trời đất trong cung cách mừng kính Đức mẹ Maria, mẹ Chúa thiên đình.
Tại sao lại như thế được?
Mầu xanh cành lá cây cối trong thiên nhiên là hình ảnh của sức sống, của niềm hy vọng và cùng hướng chỉ về Đức mẹ Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ sinh hạ Chúa Giêsu.
Cánh hoa nở bung vươn mình trong ánh nắng giữa không gian là hình ảnh tấm lòng mở rộng của Đức mẹ Maria đón nhận ý định của Thiên Chúa để Chúa Giêsu xuống trần gian làm người.
Mầu sắc tươi thắm của bông hoa diễn tả vẻ vinh quang thần thiêng thánh đức của Chúa Giêsu, người con của Đức Mẹ Maria.
Không chỉ ngoài thiên nhiên cây cối bông hoa xanh tươi bung nở vào tháng Năm, nhưng còn trong ý nghĩa suy diễn cho cuộc sống con người nữa: mầu xanh niềm hy vọng và đời sống triển nở.
Nên tháng Năm cũng là Tháng biểu hiệu của tình yêu: tình yêu vợ chồng, tình yêu mẹ cha, mà người tín hữu Chúa Kitô hằng xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ phù hộ cho được bền vững trong sáng nguyên tuyền.
Tình yêu vợ chồng, tình yêu mẹ cha luôn phát triển xanh tươi như lá cành cây cối giữa hai người và nẩy sinh bông hoa tươi thắm kết qủa là con cái.
Tình yêu đó không phải là điều gì có đó để chấp nhận, hay quên lãng lơ là. Nhưng là kho tàng báu vật cao qúy nhất đời con người cần phải được hằng quan tâm trân trọng gìn giữ bằng mọi cách cho lành mạnh tươi đẹp.
Một trong những cách thế đó là đời sống cầu xin tâm linh đạo đức.
Xin hái bó hoa mầu xanh tươi thắm, cùng thắp sáng cây nến đức tin dâng kính mừng Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức Mẹ phù hộ giúp đôi bạn trẻ nam nữ lòng vui mừng đón nhận cùng qúy trọng tình yêu vợ chồng của nhau. Tình yêu vợ chồng là ân đức thửa vườn Trời cao trao tặng đời con người.
Xin kết bó bông mầu đỏ nồng thắm cùng thắp sáng cây nến lòng biết ơn dâng kính Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức Mẹ phù hộ gìn giữ cha mẹ chúng con. Các ngài là ân đức cây cao bóng rợp Trời cao ban tặng cho con cháu.
Xin thu lượm bó bông hoa mầu trắng tươi tốt như giọt sương ban mai, cùng thắp sáng cây nến lòng yêu mến dâng kính mừng Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức mẹ phù hộ giúp các cha mẹ đón nhận con cái là ân đức hoa qủa Trời cao ban tặng cho gia đình, xã hội và Giáo hội.
Xin bện bó bông hoa mầu vàng cùng thắp sáng cây nến lòng cậy trông dâng kính Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức mẹ phù hộ gìn giữ con em bạn trẻ đang lứa tuổi phát triển. Họ là ân đức hạt giống trong sáng tạo của Thiên Chúa.
Xin quấn vành bông mầu tím cùng thắp sáng cây nến Chúa Phục sinh dâng kính Mẹ Chúa thiên đình. Xin Đức mẹ phù hộ cho những linh hồn đã qua đời được đón nhận ánh sáng sự sống lại như lòng họ tin tưởng mong muốn. Họ là ân đức tạo vật được cứu chuộc trong khu vườn sáng tạo của Thiên Chúa.
Tháng Hoa kính Đức mẹ Maria
LM. Nguyễn Ngọc Long
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 10:04)
Trong tương quan
40 ngày sau lễ Chúa Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời.
Nhưng Trời là gì ? Phải chăng Trời ở xa tít vượt khỏi tầng mây xanh?
Bài tường thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế ký viết:Thiên Chúa làm ra cái vòm ở trên và gọi vòm đó là trời. ( St 1,6).
Xưa nay hễ nói hay nghĩ đến trời chúng ta hướng tầm nhìn con mắt, hay ngón tay chỉ lên vòm trên cao đó.
Nhưng trời theo cách hiểu của đức tin không là nơi chốn hình thể địa lý, mà là trong tương quan.
Trời trong tương quan, là sự liên đới ràng buộc trọn vẹn giữa con người với Thiên Chúa của mình. Thánh Giáo phụ Augustino khi suy niệm về đời sống vĩnh cửu đã có tâm tình: „ Chính Thiên Chúa là nơi chốn cu ngụ của chúng ta“.
Lễ mừng Chúa Giêsu về trời mang ý nghĩa, Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, hóa thân làm người, đã cất nhắc bản chất con người tự nhiên của mình vào trong tương quan tình yêu kết hợp với Thiên Chúa Cha.
Như thế, Ngài tạo lập ra một không gian cho những ai tin theo Ngài, như Ngài đoan hứa: Ngài về trời trước dọn chỗ cho mọi người: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở…Thầy đi đến đó trước để dọn chỗ cho anh em“ (Ga 14,2).
Hình ảnh tâm tư này phải chăng cũng là hình ảnh tâm tư của con người chúng ta khi phải sống xa quê nhà, lòng hằng mong ước hướng về quê cũ?
Quê hương của ta không phải chỉ là nơi chốn đã sinh ra, cùng cư ngụ lâu năm, nhưng còn là của những liên đới đan bện vào nhau: xã hội cùng gia đình.
Quê hương cũng không phải chỉ là hình thể địa lý với ngôi nhà, đường xá, cầu cống, ruộng vườn…nhưng còn là điều gì tinh thần thiêng liêng nữa: cung lòng tình mẹ cha.
Quê hương cũng không phải chỉ là không gian dài rộng vuông tròn, cao thấp…nhưng còn là sự an bình cho thân xác cùng tâm hồn: đức tin vào Thiên Chúa.
Con người phải sống xa khỏi quê hương hạnh phúc thiên đàng, vì do hình phạt tội nguyên tổ gây ra. Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, qua đời sống sự hy sinh chịu chết, rồi sống lại và trở về trời, đã mở ra con đường dẫn đưa con người trở về lại trong tương quan với quê hương thiên đàng đã bị mất: TRỜI.
Lễ Chúa Giêsu lên Trời, 01.Mai 2008
LM. Nguyễn Ngọc Long
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 19:07)
8. Thánh sủng là từ trong tay của Thiên Chúa mà đến, nhưng qua tay Đức Mẹ Maria để đến với chúng ta.
(Thánh Bernard)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 19:06)
CỘNG ĐOÀN VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNHDù cho cộng đoàn rất tuyệt vời, thì cũng không thể trị liệu được căn bệnh hiu quạnh (cô đơn) mà chúng ta mang trên mình, chỉ có sau khi chúng ta phát hiện sự hiu quạnh này có thể biến thành bí tích, thì mới tiếp xúc với sự khôn ngoan; bởi vì bí tích này là thánh hóa, chính là sự hiện diện Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không trở lại trốn tránh sự cô đơn của chúng ta, và nếu chúng ta tiếp nhận vết thương của mình, thì chúng ta sẽ phát hiện đó là con đường để gặp Chúa Giê-su Ki-tô; khi chúng ta không nhờ công việc và hoạt động, hoang tưởng và tạp âm để trốn tránh hiu quạnh, khi chúng ta đối với vết thương của mình mà vẫn giữ nguyên tri giác, thì chúng ta sẽ hội kiến được Thiên Chúa.
Ngài là Đấng thi ân và an ủi, là Đấng đáp trả lại lời khóc than của chúng ta; khóc than của chúng ta phát xuất tự trong tăm tối cô đơn của chúng ta.
Sinh hoạt cộng đoàn chính là giúp chúng ta không trở lại trốn tránh vết thương quá sâu, lưu lại trong hiện thực của tình yêu. Cộng đoàn giúp chúng ta tin tưởng: nếu chúng ta có thể trở thành chất bổ dưỡng của tha nhân thì trung tâm của sự hoang tưởng và cái tôi sẽ dần dần được chữa lành. Chúng ta là một cộng đoàn được thiết lập trong sự tương thân, do đó mà mỗi người chúng ta đều có thể trưởng thành, đều có thể đem vết thương của chúng ta mở ra trước mặt Đấng vĩnh hằng, để Chúa Giê-su có thể thâu qua nó mà hiển hiện chính mình Ngài.
Tác giả: Ôn Lập Thành
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. dịch từ tiếng Hoa.
---------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
[email protected] [email protected]
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 19:04)
NÚI THÁI SƠN SO SÁNH CAO THẤP Núi Thái Sơn ở đông nhạc, núi Hoành Sơn ở nam nhạc, núi Hoa Sơn ở tây nhạc, núi Hằng Sơn ở bắc nhạc, núi Tùng Sơn ở trung nhạc, hợp lại gọi là “ngũ nhạc”. Thái Sơn là đầu của ngũ nhạc, địa vị trong cụm núi tự nhiên có quyền uy.
Trước đây thời nhà Đường, đại thi nhân Đổ Phủ đã làm thơ ca ngợi:
“Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu.” Trăm ngàn năm trở lại, Thái Sơn nghe được rất nhiều lời tán tụng, nó không nín được nên có một vài cảm giác lâng lâng kiêu ngạo.
- “Hừm, trong các đỉnh núi cao và nguy hiễm nhất, đẹp đẽ kỳ vĩ nhất, ưu tú hoa lệ nhất, hùng vĩ nhất thì thuộc về Thái Sơn là ta. Ta đưa tay ra là có thể hái được đóa mây trên trời, các anh có thể được như thế không ?”Các ngọn núi nhỏ vội vàng nịnh nọt nói:
“Ngài là chí tôn trong các ngọn núi, chúng tôi làm sao dám so với ngài được ?”Ngọn gió đem lời của Thái Sơn đưa vào trong lỗ tai của quần núi “ngũ nhạc”, mọi người sau khi nghị luận thì quyết nghị bình chọn ra một ngọn núi cao to.
Thái Sơn là người báo danh thứ nhất và nắm chắc là mình nhất định sẽ được quán quân, nó biểu môi nói:
“Thật là có mắt mà không thấy thái sơn, có cần phải so sánh như thế này không ?”Nhưng, kết quả so sánh và đánh giá thì quán quân là thuộc về đỉnh Thánh Mẫu, các đỉnh núi năm mồm mười miệng nói:
“Đỉnh Thánh Mẫu cao 8.848 mét, anh cao 1.524 mét, hai ngọn núi cao thấp cách nhau gần gấp sáu lần, anh à, anh cách quá xa.”Thái Sơn không cam chịu lép vế, nói:
“Vậy thì ta không so với đình Thánh Mẫu, á quân nhứt định là về ta ?”Các đỉnh núi lại cười:
“Ha ha ha, trên thế giới các ngọn núi cao trên 5.000 mét đều có khắp nơi, ngay cả trong “ngũ nhạc” anh cũng không phải là cao nhất mà. Bắc nhạc Hằng Sơn, tây nhạc Hoa Sơn đều cao hơn anh rất nhiều !”Thái Sơn trầm mặc rất lâu rồi thở nhẹ nói:
“Ngoài trời còn có trời, ngoài núi còn có núi, câu nói này thật đúng không sai.” Từ đó về sau, Thái Sơn trở thành khiêm tốn.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
“Thước có chỗ ngắn, tấc có chỗ dài”, ý nghĩa của câu nói này là con người ta ai cũng có cái hay cái dở. Nhân vô thập toàn, phải nhìn thẳng chỗ hay và chỗ kém của mình thì không thể coi trời bằng vung.
Con người ta ai cũng biết cái hay cái dở của mình, nhưng vì kiêu ngạo nên trở thành kẻ mù ngay chính trong con người của mình:
Có những bạn không biết hát, nhưng vì là lớp trưởng nên cũng làm vẻ ta đây có học hát và biết hát như ai, thế là hát trật bậy trong buổi sinh hoạt quan trọng làm cho mọi người cười ồ lên. Các bạn đó không khiêm tốn nhờ người khác hát dùm cho mình.
Có những bạn biết gia mình giàu có nên khi cô giáo dạy gì thì nói: ba mẹ tớ có thuê thầy dạy kèm rồi. Các bạn này không hiểu được buổi học chính quy và học thêm nó khác nhau như thế nào...
Núi Thái Sơn tuy là đứng đầu “ngũ nhạc”, nhưng không phải vì thế mà khoe khoang, bởi vì nó không cao hơn các ngọn núi khác, chẳng qua là vì vị thế của nó tốt nhất trong năm ngọn núi mà thôi.
Các em thực hành:- Khiêm tốn hơn nữa khi gia đình mình giàu có hơn các bạn.
- Khiêm tốn hơn nữa khi mình học giỏi hơn các bạn.
- Luôn cầu nguyện với Chúa cho mình được sống khiêm tốn.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 15:11)
Lễ Chúa Lên Trời/A
Lời trối thiêng liêng của Ðức Giêsu!
(Mt 28,16-20)
Mùa Phục Sinh kéo dài năm mươi ngày. Nghĩa là chúng ta mừng lễ Phục Sinh của Ðức Giêsu suốt năm mươi ngày liền. Vâng, sự Phục Sinh của Chúa là một biến cố vô cùng trọng đại và mang đầy ý nghĩa đối với cuộc sống chúng ta, hay nói đúng hơn, đối với sự cứu rỗi và hạnh phúc viên mãn của chúng ta, đến nỗi chúng ta phải cần một thời gian lâu như thế để «ăn mừng». Và thời gian trọng đại đó đã được Kinh Thánh chia làm ba phần: Biến cố Sống Lại – Lên Trời – Chúa Thánh Thần Hiện Xuống!
Ðức Giêsu chịu đóng đinh đã thắng vượt sự đau khổ và sự chết. Thiên Chúa đã cho Người sống lại trong một cuộc sống mới, cuộc sống trường cửu và bất tử, một cuộc sống chỉ nơi Thiên Chúa mới có. Và từ nơi đó, Người đã gửi Chúa Thánh Thần xuống trên các môn đệ và trên toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta cuộc tạm biệt các môn đệ của Ðức Giêsu và đồng thời chuyển đạt cho chúng ta lời trối thiêng liêng của Người!
Trước hết, Người đã khẳng định: «Thầy đã được ban cho mọi quyền hành trên trời dưới đất!» Ðức Giêsu đã chứng thực vai trò quan trọng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Ðức Giêsu không hành động theo ý riêng, nhưng theo trọng trách Chúa Cha đã giao cho. Vì thế, ngoài Người ra, không có bất cứ ai có được sự tương quan thân tình và chặt chẽ với Chúa Cha như Người với Chúa Cha. Qua Ðức Giêsu, Chúa Cha đã tác động một cách cụ thể trên toàn thể vũ trụ: trên trời cũng như dưới đất! Và qua Ðức Giêsu, chúng ta có thể nhìn thấy được những gì Chúa Cha muốn hiện thực ở trên trời cũng như ở dưới đất.
Tiếp đến, Ðức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người đến bước theo con đường của Người, rửa tội cho họ và dạy cho họ biết sống theo thánh ý Thiên Chúa. Công cuộc truyền giáo của Người, công cuộc dẫn đưa toàn thể nhân loại trở về cùng Chúa Cha của Người chưa hoàn tất. Còn nhiều người chưa tin nhận Thiên Chúa. Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát. Vì thế công cuộc truyền giáo của các môn đệ, của tất cả chúng ta mới được khởi sự. Ðức Giêsu đã để lại cho đoàn môn đệ nhỏ bé của Người một lời trối thiêng liêng, một sứ mệnh vô cùng cao quí, vô cùng to lớn và vô cùng nặng nề.
Ý muốn của Ðức Giêsu là mọi người biết tìm đến cùng Người, đến cùng Chúa Cha, và nhờ thế tìm gặp được sự cứu rỗi. Ðức Giêsu không muốn cho con người bị giam cầm trong sự bất toàn của họ. Người muốn dẫn đưa con người đến sự hoàn thiện, đến sự cứu rỗi, vì Người không thể dửng dưng trước số phận con người được. Người dấn thân cho hết mọi người. Người mong muốn cho họ điều thiện hảo nhất!
Cả chúng ta nữa, những người đã được lãnh nhận phép thánh tẩy, chúng ta cũng muốn cho tất cả mọi người tìm gặp được đức tin vào Thiên Chúa, tìm gặp được sự cứu rỗi. Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng mong muốn cho tất cả mọi người biết sống theo giới răn của Ðức Giêsu, hầu cho sự công bằng được hiện thực trên thế giới và hầu cho tình bác ái không còn là một lời nói đẹp, trống rỗng, nhưng là một sức mạnh có thể biến đổi được cuộc sống chung của nhân loại.
Nhưng chúng ta cũng đã cảm nhận được khả năng nhân loại của chúng ta quá hạn hẹp biết chừng nào! Vâng, nhiều khi chúng ta tự cảm thấy một cách rõ ràng sự bất toàn của mình, khả năng quá yếu kém và quá giới hạn của mình, đến nỗi chúng ta đâm ra thối chí nản lòng và muốn nhắm mắt buông xuôi, để mặc cho mọi sự muốn ra sao tùy ý. Nhiều khi chúng ta tự chợt thấy mình đang trong cơn thử thách như thế. Nhưng trong những giờ phút yếu mềm như thế, tôi lại cảm thấy được an ủi là sứ mệnh trọng đại đó không phải là lời cuối cùng của Ðức Giêsu, nhưng là lời hứa chân thành của Người: «Và đây, Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế!» (Mt 28,20b).
Ðức Giêsu ở cùng chúng ta, ở cùng từng người trong chúng ta. Ðức Giêsu ở cùng tôi! Và Ðức Giêsu ở cùng Giáo Hội của Người, ở cùng cộng đoàn các tín hữu của Người: Trên khắp mọi nẻo đường họ đi, trong tất cả mọi thành công và thất bại của họ. Ðúng như lời Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã nói trong bài giảng dịp đăng quang của ngài: «Ai tin vào Ðức Giêsu, sẽ không bao giờ cô đơn!».
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 11:57)
CON CÁM ƠN CHA,
VÌ CHA LÀ LINH-MỤC.
1. NHƯ MỘT LỜI NHẮC NHỞ.
Nhận lời giảng lễ tạ ơn cho Cha mớì hôm nay làm tôi nhớ lại hơn 4 năm trước đây vào ngày Chúa nhật, 18-4-2004, tôi đại diện Liên Đoàn Công-Giáo Việt-Nam tại Hoa-Kỳ đến dâng lễ tại Giáo xứ Đức Mẹ Lộ-Đức ở Houston, Texas để cám ơn cha sở và giáo dân của giáo xứ nầy đã rộng rãi công đức cho qũy xây cất Nguyện Đường Đức Mẹ La-Vang tại Hoa-Thịnh-Đốn. Sau khi dâng lễ xong tôi cùng với đứa cháu đi xuống cuối nhà thờ để có dịp chào thăm và cám ơn anh chị em giáo dân thì một thiếu phụ tiến đến, nắm tay tôi và nói: “Con cám ơn Cha, vì Cha là linh-mục. Cha cứ là linh mục như vậy mãi nghe, Cha”.
Thiếu phụ này tôi chưa hề quen biết đã cám ơn tôi, vì tôi là linh mục. Hôm đó, một thoáng nghĩ trong đầu tôi: Linh mục được cám ơn vì đã rửa tội, đã làm phép cưới, đã đi kẻ liệt, đã xức dầu, đã làm phép nhà, đã dàn xếp một vụ bất hoà cho một cặp vợ chồng lục đục, đã làm nghi thức an táng cho người chết vv.., nhưng họa hoằn như hôm nay tôi mới được cám ơn vì mình là linh mục. Năm đó (2004), sau 32 năm làm linh mục, lần đầu tiên tôi mới gặp và được nghe một người giáo dân cám ơn vì tôi đã đáp lại ơn gọi làm linh mục.
Rồi cũng từ đó thỉnh thoảng tôi nhớ lại lời “Cha cứ là linh mục như vậy mãi, đừng bỏ cuộc nghe, Cha” như một nhắc nhở của Chúa nhắn cho riêng mình. Cho đến nay, đã sống 36 năm trong thiên chức linh mục cũng giống như những cặp vợ chồng chung sống 36 năm trong cuộc đời làm đôi. Thời gian đầu thì tíu ta tíu tít tạ ơn Chúa đã ban cho mình một người phối ngẫu tuyệt vời, dễ thương, nhưng sau một thời gian chung sống, thay vì tíu tít tạ ơn lại quay ra phàn nàn kêu trách Chúa, sao Chúa lại gởi cho con một người bạn đường như một thánh gía qúa nặng. Phần tôi chưa bao giờ phàn nàn về ơn gọi và lý tưởng linh mục của mình, nhưng thỉnh thoảng tôi tự đặt ra cho mình câu hỏi TẠI SAO CHÚA CHỌN TÔI LÀM LINH MỤC và cũng tự tìm cách trả lời nhờ cuốn sách mang tựa đề “NHỮNG MẢNH VỤN TÂM TÌNH CỦA NỀN TU ĐỨC THỜI ĐẠI MỚI” do cha Phạm Quốc Hưng, CSsR biên soạn.
2. LÀM LINH MỤC HAY LÀ LINH MỤC.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Cha mới JB. Bennet Trần-Thiên-Bình vừa mới được thụ-phong linh-mục sáng hôm qua, 26-4-2008 tại nhà thờ chính toà GP. St. Paul & Minneapolis dưới sự đặt tay của Đức TGM. Harry Flynn. Hôm nay là cơ hội tốt, tôi mượn lại lời cám ơn của một nữ giáo dân trên đây, và xin mạn phép thay mặt qúy vị và anh chị em nói lời chúc mừng và gởi một thao thức, một ước nguyện tới người anh em tôi trong thiên chức linh mục: “Chúng tôi cám ơn Cha Trần Thiên-Bình vì Cha là linh mục. Xin Cha cứ là linh mục như vậy mãi, đừng bỏ cuộc nghe, Cha!”. Xin Cha cứ LÀ Linh mục, đừng LÀM Linh-mục. LÀ Linh mục thì Linh mục liên tục và suốt đời... còn LÀM linh mục thì có lúc LÀM có lúc KHÔNG. Cầu chúc Cha Bình khi nào cũng LÀ linh Mục thánh thiện như ngày hôm nay và suốt đời. Về điểm này, ĐGH Bênêdictô XVI trong chuyến tông du Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ từ 15-20/4/08 vừa qua đã có dịp nhấn mạnh: “Điều quan trọng là cần có những linh mục tốt, thánh thiện hơn là số lượng linh mục đông”.
3. TÌNH CHÚA QUANG PHÒNG
Trọng kính qúy qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Cha JB. Trần-Thiên-Bình trở nên linh-mục hôm nay, đối với tôi qủa là một sự quan phòng đặc biệt của Chúa và là một kỷ niệm khó quên.
Năm 1979 tôi gặp cậu bé JB. Bennet Trần Thiên-Bình vượt biên với cô mình là bà Nguyễn Thị Giang tại trại tiếp-cư Kaitax East Hongkong. Thỉnh thoảng cậu bé Bình làm chú giúp lễ cho tôi. Tôi vào Mỹ tháng Tư, 1980 và sau đó mẹ con và cô cháu bà Nguyễn Thị Giang cũng vào Mỹ, định cư tại vùng Orange County, Cali. Năm 1981 cô Giang của Bình gọi điện thoại cho tôi: “Cha ơi, cha có cách chi giúp cháu Bình được không, vì con thì hay đau yếu, sợ không đủ điều kiện dìu dắt nổi cháu ăn học thành tài theo như nguyện ước của cha mẹ cháu trước khi cô cháu rời Việt-Nam”. Tôi trả lời chị Giang, “nghe chị nói vậy thì biết vậy, cứ từ từ rồi tính”. Sau đó tôi gọi điện thoại hỏi ý kiến Bác Nguyễn Xuân Trường có cách gì giúp Bình được không. Hai bác đồng ý đón Bình vào nhà và hứa sẽ tận tình giúp đỡ. Tôi nghĩ thế là từ nay Bình đã có chỗ tựa. Cuối mùa thu năm ấy, Bác Trường và tôi ra tận phi trường Grand Rapids đón một cậu bé lùn tịt, đầu đội chiếc bêrê đen, kiểu Tàu Hongkong, mang chiếc quần Jean màu xám sậm, tay cầm một xách tay nhỏ đựng quần áo, từ trong phi-cơ bước ra và đem về nhà. Và cũng từ đó bé Bình trở thành đứa con trai út trong gia đình bác Trường và các anh các chị trong nhà cưng Binh như đứa em ruột. Bình tiếp tục được hai bác Trường săn sóc cưng chiều, nuôi cho ăn học từ cấp tiểu học, lên trung học rồi xong đại học. Tốt nghiệp đại học, Bình tìm được việc làm tốt và hợp khả-năng nên tiến thân rất nhanh trên đường nghiệp vụ. Bình đã từng là Business-Manager cho một chi nhánh của một ngân hàng lớn. Thỉnh thoảng gặp Bình, tôi thường nhắc Bình hãy coi hai Bác Trường như cha mẹ của mình, tuy hai bác không có công sinh nhưng có công dưỡng, cho nên con cố gắng: “gần thì rày viếng mai thăm, xa thì thỉng thoảng một năm vài lần”. Khi nào Binh cũng thưa: “Dạ, thưa cha, con đã!”
4. CHIA SẺ NIỀM VUI:
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Cách đây khoảng hơn 6 năm (2002) tôi nhận được điện thoại của Bình báo cho tôi một tin vui: Bình sẽ vào đại chủng viện Giáo phận St. Paul & Minneapolis để làm linh mục. Tôi ngạc nhiên và vui mừng. Ngạc nhiên vì một thanh niên điển trai, với chừng ấy tuổi đời, căng đầy sức sống, đang có việc làm tốt, có luơng cao thì chắc có nhiều cô ngắm nghé, tình nguyện nâng khăn sửa túi, nay dứt được bụi trần để đi tu. Tôi vui mừng, vì tuy Bình không phải là con thiêng liêng của tôi, nhưng là đứa con của giáo xứ Đức Mẹ Lavang tại Grand Rapids, Michigan, sẽ đi tu làm linh mục thì giáo xứ cũng hãnh diện, và lấy làm vinh dự. Kể từ năm 2000, giáo xứ Đức Mẹ Lavang tại Grand Rapids đặt ra một chiến dịch cầu nguyện cho mỗi gia đình, mỗi dòng họ có một ơn gọi tu trì mới, thánh thiện, và ước mơ của giáo xứ là kể từ năm 2000 đến năm 2008-2012 sẽ có một chủng sinh xuất thân từ giáo xứ sẽ được thọ phong linh-mục hay một nữ tu khấn trọn. Nay giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực. Chúng tôi cảm tạ Chúa, chúc mừng và cám ơn Cha Bình vì Cha là linh mục.
Những ngưòi có niềm vui to lớn nhất phải kể đến là bà cố và anh chị em của cha mới, bên cạnh đó là hai bác Nguyễn Xuân Trường đã dìu dắt Cha Bình từ lúc còn tấm bé cho đến lúc thành thân, thành nhân hôm nay. Hai bác Trường đây là song thân của một khoa-học-gia Mỹ gốc Việt trẻ tuổi nhất năm 1983, tốt nghiệp Ph.D. vật lý lúc mới 24 tuổì đầu. Hai bác Trường chủ trương đầu-tư trí-thức cho quốc- gia nên nhận bảo-trợ và làm cha mẹ nuôi cho nhiều thanh thiếu niên Việt-Nam tị nạn đến Mỹ, không nơi nương tựa thì căn nhà của bai bác Trường là tổ ấm tình thương, trong số đó có 2 người con thiêng liêng và một đứa cháu ruột của tôi. Trong lúc chủ-trương đầu-tư trí thức cho quốc-gia thì gia đình hai Bác Trường lại trở nên vườn ươm ơn gọi linh-mục cho Giáo Hội. Cha Bình đây là đứa con nuôi thứ hai của hai bác Trường làm linh mục. Người con nuôi đầu tiên của hai Bác Trường chịu chức linh mục năm 4-6-1994 là Lm Giuse Hoàng San Khánh, cháu gọi tôi bằng chú ruột, hiện đang là Chưởng Ấn tại Giáo Phận Honolulu ở Hawai. Ngoài ra trong gia-đình hai Bác Trường cũng có một người cháu ruột linh mục là Cha Philipphê Nguyễn Đình Sự, được hai bác Trường mang theo sang Mỹ năm 1975, chịu chức linh mục ngày 13-6-1987, hiện là cha sở một giáo xứ lớn nhất tại Giáo-phận Grand Rapids, Michigan.
5. CHÚA CHỌN TÔI LÀM LINH MỤC CHỈ VÌ TÔI YẾU ĐUỐI”.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Đây là tư tưởng trong chuơng đầu do một vị Phó Giám đốc chủng viện chia sẻ với các chủng sinh, những đồ-đệ thân-tín của Ngài, sẽ là những linh mục tương lai. Tác giả của câu nói ấy cứ nhắc đi nhắc lại: Phêrô, Mai-đệ-Liên, Âu-Cơ-Tinh, các Tông đồ. .. là những con người yếu đuối, nên Chúa đã chọn. “Chúa chọn tôi làm linh mục chỉ vì tôi yếu đuối”. Câu nói ấy của Cha Phó Giám Đốc chủng viện được Cha Quốc Hưng nhắc đến trong cuốn sách vừa kể qủa đúng cho cá nhân của tôi. 36 năm qua là một chứng nghiệm hùng hồn, bởi vì có nhiều lúc thất bại không cưỡng được, thay vì thành tâm nhìn nhận mình yếu đuối, chỗi dậy bước đi, tôi đã quay ra hạch hỏi và đổ lỗi cho Chúa: “Tại sao Chúa lại chọn con, để con ra nông nỗi nầy?” Sự yếu đuối trở thành bản tính thứ hai gắn liền với con người linh mục của tôi. Nhiều phen tôi đã lỗi phạm điều tôi biết là không nên làm và bỏ không làm những điều đáng ra tôi phải thực hiện theo kinh nghiệm của Thánh Phaolô. Thế mà Chúa vẫn tiếp tục tha thứ và nâng đỡ tôi trong những yếu hèn, hoan lạc với tôi trong những thành công lớn nhỏ. Chỉ vì con yếu đuối nên Chúa đã chọn con. Ôi sao huyền nhiệm và khó hiểu qúa về tình thương của Chúa dành cho một con người mỏng giòn và yếu đuối như con, mong biến con nên món qùa tặng cho thế giới. Liệu thế giới có tiếp ục đ ón nhận con như một món qùa tặng Chúa trao ban không?
6. “LINH MỤC LÀ MÓN QÙA QÚY CHÚA TRAO TẶNG NHÂN LOẠI, NHƯNG TRUNG THÀNH VỚI THIÊN CHỨC VÀ ƠN GỌI LINH MỤC LÀ MÓN QÙA NHÂN LOẠI DÂNG TẶNG LẠI THƯỢNG ĐẾ”.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Tư tưởng nầy của một nhà tu đức tân thời ở nơi chương hai của cuốn sách trích dẫn trên đây hẵn đã làm cha mới giật mình. Vế đầu của tư tưởng nầy thật đúng cho cá nhân cha Bình. Quả tình Chúa đã trao ban thiên chức linh mục cho nhân loại qua Cha Bình như một qùa tặng nhưng không. Còn chuyện “trung thành với thiên chức và ơn gọi linh mục để biến đời mình thành món qùa dâng tặng lại Thượng đế” trong tâm tình tạ ơn thì hiển nhiên Cha Bình sẽ rất lo sợ và xin qúy vị và anh chị em cầu xin cùng Chúa ban cho Ngài ơn trung thành với ơn gọi linh, khởi sự từ ngày hôm qua. Xin cho cha Bình ơn khiêm hạ để tình thương Chúa mãi mãi hiện diện trong Cha.
Ở đây tôi nhớ tới lời hứa của Chúa: “Nầy Ta hằng ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xưa nay ai cũng hiểu câu nói ấy ám chỉ việc Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Nhưng nếu một ngày kia, Giáo Hội không còn ơn gọi làm linh mục nữa, liệu Chúa Giêsu có còn tiếp tục hiện điện trong Bí Tích Thánh Thể nữa không?
Đứng trước liệt qúy vị và anh chị em Chúa hôm nay, tôi có qúa tham vọng không khi nêu lên đề nghị nầy? Ngày 22-4-08 vừa qua ĐGH đương kim chúc lành cho sáng kiến của Thánh Bộ Linh Mục và Tu Sĩ khi Thánh Bộ nầy phát động phong trào MẸ THIÊNG LIÊNG và CHẤU THÁNH THỂ CẦU NGUYỆN CHO SỰ THÁNH THIỆN CỦA LINH MỤC. Qúy vị và anh chị em chưa phải là ông bà cố thực sự, nhưng có dám và vui lòng nhận làm ông bà cố thiêng liêng cho một số chủng sinh, linh mục và hy sinh mỗi tuần một nửa tiếng hay một tiếng đến nhà thờ Chầu Thánh Thể cầu cho các linh mục được thánh thiện? Thời đại nầy, hơn bao giờ hết, cần nhiều linh mục thánh để biến đổi thế giới như lời khẳng định của ĐGH mà tôi có dịp nhắc đến trên đây.
7. “KHỞI ĐI BẰNG YÊU THƯƠNG, KẾT THÚC TRONG YÊU THƯƠNG, NHƯNG CAO ĐIỂM CỦA YÊU THƯƠNG LÀ SỰ HIỆN DIỆN”.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em,
Đây là tư tưởng trong phần cuối của cuốn sách nói trên. Qúy ân nhân, qúy thân nhân nội ngoại và qúy bằng hữu thân sơ đã thương tình mà đến với cha mới trong thánh đường St. Adalbert nầy, tham dự thánh lễ tạ ơn với người con cưng của Chúa, của Giáo Hội, của giáo xứ và của gia đình họ Trần sáng sớm hôm nay. Cá nhân cha mới cảm thấy Chúa đã quan phòng sắp xếp và đã thương tuyển chọn để lãnh nhận hồng ân trọng đại là trở nên linh mục Chúa qua việc đặt tay của Đức Tổng Harry Flynn, Giám Mục Giáo Phận St. Paul & Minneapolis ngày hôm qua. Bởi vậy cá nhân cha mới cậy nhờ và tha thiết xin qúy ân nhân và thân hữu vui lòng đến, cùng hiện diện và chung lời cảm tạ ơn Chúa với Ngài trong thánh lễ tạ ơn nầy. Tân linh mục Trần Thiên-Bình luôn luôn quan niệm và xác tín rằng qúy vị đến được cũng là thương, không đến được cũng là thương, nhưng cao điểm của yêu thương là sự hiện diện. Chính vì lý do ấy mà tôi mạn phép thay Ngài thân thưa với liệt qúy vị mấy lời tâm tư nầy. Có thể vì một lý do nào đó, một số trong qúy vị đó đã dự tính sẽ đến, nhưng vào phút chót đã không đến được, nhưng ngay từ giây phút nầy đã thực sự hiện diện với cha mới trong tâm tình cảm tạ on Chúa “ở đây và bây giờ”. Đây là một biểu lộ trong sự hiệp thông thiêng liêng cao qúy. Sự hiện diện của mỗi qúy vị và anh chị em trong dịp dâng lễ tạ ơn của cha Bình hôm nay thiệt là trân trọng và cao qúy. Đối với cha mới và gia đình, đây là món qùa tuyệt hảo nhất, bởi đây là cao điểm của yêu thương, lột tả hết được tình thương mến của liệt qúy vị và anh chị em Chúa trong gia đình giáo xứ St. Adalbert nầy, muốn nâng đỡ tân linh mục tiếp tục kiên vững trong ơn gọi làm linh mục thánh thiện suốt đời như món qùa thế giới dâng tặng lại cho Chúa.
8. MUỐN CON LÀ LINH MỤC THÌ BỐ MẸ PHẢI LÀ LINH MỤC TRƯỚC.
Trọng kính qúy cha, kính thưa qúy vị
thưa anh chị em và cách riêng kính thưa bà cố,
Thật là một thiếu sót to lớn và rất bất công, nếu tôi không nhắc đến ở đây điểm nầy. Cha Bình trở thành linh mục hôm nay là bông hoa, là nụ kết thành trái từ cây cổ thụ là ông cố John Bennett. Rất tiếc thân phụ của Cha Bình không còn nữa để chứng kiến được những hy sinh to lớn trong kiên nhẫn, những đe dọa liên tục trong vai trò tông đồ giáo dân vào hoàn cảnh VN sau năm 1975 để giữ vững giuờng mối cho một họ đạo bé nhỏ nay trở thành một giáo xứ tương đối có tầm vóc thuộc Tổng Giáo Phận Saigòn. Bên cạnh cây to bóng cả trong sứ vụ tông đô giáo dân ấy, bà cố là hậu phương lớn cho ông cố. Bà cố là người liên tục giữ vai trò trưởng Hội Đạo Binh Đức Mẹ trong nhiều năm kể từ sau năm 1975 cho đến ngày rời giáo xứ thân yêu để sang Mỹ đoàn tụ với con cháu, nhưng lòng trí khi nào cũng gắn liền với giáo xứ mẹ ở Việt-Nam. Những hy sinh to lớn ấy của ông bà Cố đã chung đúc nên linh mục JB. Trần Thiên-Bình hôm nay.
Chúng tôi cầu nguyện cách riêng cho ông cố JB. Bennet và chúng tôi đặc biệt cám ơn bà cố vì bà cố là mẹ của linh mục Trần Thiên-Bình. Không có ông bà cố thì Giáo Hội, Giáo Phận, Giáo xứ và dòng họ Trần không có đuợc linh-mục JB. Bennet Bình hôm nay. Bên cạnh ông bà cố là những người có công sanh và nuôi dưỡng đức tin, thì hai bác Nguyễn Xuân Trường là những người có công dưỡng dục cho cha Bình trở nên linh mục hôm nay. Hai Bác xứng đáng là “ông bà cố nuôi” với tất cả niềm trân trọng, tri ân của những người đã nhờ hai Bác mà thành đạt trong ơn gọi linh mục như Cha Sự, Cha Khánh và cha Bình đây.
9. TÂM HUYẾT ĐÀN ANH GỞI LẠI CHO ĐÀN EM.
Thưa cha Bình thân yêu! Tuổi đời của Cha là 37. Tuổi linh mục của tôi là 36. Đây là tâm huyết của một linh mục đàn anh đi trước cha trong 36 năm kinh nghiệm, xin gởi tặng Cha những món qùa xé lẻ không trọn gói nầy:
1. Trong đời sống mục vụ và rao giảng, xin Cha cầu nguyện nhiều rồi suy nghĩ kỹ những điều Cha muốn nói thì Cha sẽ nói được những điều Cha suy nghĩ.
2. Hãy bám kỹ vào Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn sống của đời linh mục và là chìa khóa mở vào các ngóc ngách của đời mục vụ.
3. Hãy dâng kính Mẹ Maria mỗi ngày một chuỗi Mân côi.
4. Hãy yêu thương giói trẻ thì giới trẻ sẽ mang bố mẹ chúng đến làm việc tông đồ cho Cha.
5. Trung thành với các giờ kinh phụng vụ, nguyện gẫm ban sáng và xét mình ban tối (bằng cách trả lời 2 câu hỏi: Hôm nay tôi đã làm điều gì đúng và hôm nay tôi đã làm điêu gì sai?)
6. Nếu có yếu đuối hãy khiêm hạ nhìn nhận mình bất toàn rồi chỗi dậy từ sự yếu đuối, bắt đầu lại từ đầu.
Đây là những đúc kết được viết ra từ kinh nghiệm mục vụ để giúp tôi, giúp cha trung thành với ơn gọi Linh mục như một món qùa chúng ta dâng tặng lại cho Chúa trong tâm tình biết ơn.
Trọng kính qúy cha,
Kính thưa qúy vị và thưa anh chị em.
Chúng ta cùng hiệp ý tạ ơn Chúa và tiếp tục cầu nguyện cho cha JB. Trần Thiên Bình được “là linh mục như vậy mãi, đừng bỏ cuộc” như lời chúc nguyện của một nữ tín hữu nhắc nhở tôi ngày 18-4-2004.
Đến muôn đời xin cảm tạ Chúa và cám ơn liệt qúy vị và anh chị em hết thảy.
Muôn vàn trân trọng,
Giảng lễ tạ ơn của cha JB. Bennet Trần-Thiên-Bình, ngày 27-4-2008 tại giáo xứ St. Aldalbert, MN.
LM Phêrô Hoàng-Xuân-Nghiêm
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 10:51)
THĂNG THIÊN, SỰ HƯỚNG VỀ
Sự hướng về bao quát trong thiên nhiên, dường như mọi thọ tạo đều hướng về trời cao; điều này được thấy rõ nét nhất nơi cây xanh thảo mộc. Trong thiên nhiên, ở cõi vật chất, hình ảnh của ngọn núi là bộc lộ sự hướng về trời cao, biểu trưng bằng sự vươn tới. Trong các động vật, sự hướng về biểu lộ trong chu kỳ tiến hóa, từ bậc thấp lên bậc cao. Nơi con người, sự hướng về biểu trưng bằng hình ảnh con người đứng cao đưa hai tay vươn lên cõi trời thăm thẳm.
Sự hướng về luôn là biểu cho mọi sự sống đang bước lên trong ngày đăng quang của hòan vũ. Tạo dựng hướng về ngày đăng quang, không còn là quay về điểm khởi đầu để bắt đầu chu kỳ mới. Vạn vật hướng về theo lối đường thẳng, như biểu tựơng của sự sống trong tiến hóa liên tục, trong hướng chiều vươn lên tới trời cao. Hình ảnh vươn cao mãi rõ nét nhất là hình ảnh của một cây sự sống, Léonard de Vinci diễn tả bằng một phân đọan trong bức họa Nữ Thánh Anne, Đức bà Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng. Cây sự sống vươn thẳng, hằng năm thay mùa trút lá, cuộc hóan cải không ngừng được diễn tả bằng sự trút lá để mọc ra những chiếc lá mới, và cũng theo chu kỳ thay lá đó, ngọn mỗi ngày vươn cao. Tự thân, cây xanh đó biểu hiện ba cấp của vũ trụ: Đất - Người - Trời, đó cũng là hình ảnh biểu trưng của Tam Tài gồm ba yếu tố kết thành: Trời - Đất - Người, làm nên một thể thống nhất. Trời biểu lộ tính chất Dương, Đất biểu lộ tính chất Âm, Người so với Trời biểu lộ tính chất Âm, Người so với Đất mang tính chất Dương.
Trời - Đất - Người biểu hiện điển hình cho các bộ ba khác. Trong Đạo Mẫu bộ ba được biểu hiện Trời - Đất - Nước, trong gia đình biểu hiện bộ ba Cha - Mẹ - Con, trong lịch sử biểu hiện bộ ba Không gian - Thời gian – Con người. Trên Trống Đồng Đông Sơn, bộ ba biểu hiện Chim – hươu - người. Bộ ba biến thiên trong kiến trúc có thấy như Tam Quan, trong cảnh quan tổng thể: thiên nhiên - kiến trúc - người. Con số ba biểu hiện tư duy đặc thù số lẻ của người nông nghiệp Phương Nam.
Cây xanh tập trung nơi nó biểu tượng ba cấp độ vũ trụ, rễ bám sâu vào trong đất, khỏang giữa không gian giữa trời và đất là những cành lá vươn dài tỏa rộng, như thế đứng của con người dang hai tay ôm lấy hòan vũ, ngọn trên hết những cành lá là đầu đội trời. Tổng quan nhìn theo cấp độ của con người có thể diễn tả: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, thân đứng thẳng như cây trục của thế giới. Con người là trung tâm của hòan vũ là đỉnh cao của tạo dựng.
Con người tội lỗi cả vũ hòan quằn quại rên siết, bởi vì chân con người không vững để đủ làm trụ đứng cho loài thọ sinh. Khi con người bất hòa với trời, có nghĩa là con người để đầu ngọn cậy chúi đầu xuống đất, hình ảnh này biểu trưng cho sự quằn quại, chứ không còn biểu trưng cho sự hướng về tuyệt đối. Con người là trục thẳng đứng của thế giới khi trục đứng ấy ngả nghiêng thì thế giới chịu sự nghiêng ngả. Sự thực con người đã ngả nghiêng bởi sự lỗi của mình, cho nên cần có một cây đứng vững để con người bám vào làm trụ.
Cần có một cây trường sinh. Cây đó, đã được trồng trong nhân loại là cây trường sinh treo Đấng Cứu Thế. Henri de Lubac đã mượn dòng văn trữ tình của Chrisostome - Giả Danh để diễn tả trong bài giảng ngày Phục Sinh, đã goị cây Trường Sinh đó là: “Vật đỡ vững chắc của Tạo Hóa, mối liên kết của vạn vật, chỗ dựa cho cả trái đất, nơi con người cư trú, sự đan thoa vũ trụ mang tất cả bản tính con người. Được an định bằng những chiếc đinh vô hình của Thần Linh để biểu lộ một ý chí tối thượng; đỉnh đầu đội trời, gốc cây cắm rễ, cánh tay mở rộng đến vô biên ôm lấy hòan vũ”.
Như vậy, là đã có một cây thực sự là trụ đỡ nâng tòan vũ hướng về mà Thiên Chúa đã trồng vào trong nhân thế. Ý chí của con người từ nay không còn biểu lộ sự gục ngã hòan tòan nếu họ biết ngước mắt nhìn lên (Hình ảnh con rắn đồng). Bóng tối là sự đóng chặt, nhốt kỹ, bị xé tan khi con người mở ra để ánh sáng theo tự nhiên của bản chất là tràn vào. Sự vươn lên không mỏi mệt của con người được bảo đảm không hề tắt trong ý chí hướng thượng. Tội lỗi, sự dữ, cái xấu …không giam giữ nổi cũng như không thể đánh quỵ một con người, nếu con người còn ngước mắt nhìn lên.
Sự hướng về được biểu lộ trong ánh mắt nhìn lên, từ nay đã hòan tòan mở ra cho con người một lối thoát, không có gì có thể kìm giữ được nổi một con người khi họ còn biết nhìn lên. Nhìn lên là tư thế của một con người xứng đáng là một con người. Con người nhìn lên để vạn vật được chỗi dậy, nếu con người tin vào khả năng phi thường đó, con người sẽ tiếp tục trở thành trục của thế giới, là đỉnh cao của thọ tạo.
Hướng về, nhìn lên là mở ra một con đường hy vọng, sự hy vọng của một bậc thang bước lên từ hữu hình sang vô hình, mà nhiều nền văn hóa biểu trưng. Cây được dựng lên, họ nhảy múa, ca hát, thực hành lễ hội chung quanh gốc cây nêu ngày lễ. Hình ảnh đó cũng được diễn tả những bằng cây trụ đứng được dựng trong Thánh Đường, trong nhà rông của người dân tộc, trong các Chùa Chiền biểu trưng bằng cây bửu tháp, trong cây sồi của người Celtes, cây Gia của người Đức, cây oliu của người Hồi. Sự hy vọng ở đâu và lúc nào cũng được biểu lộ trong hầu hết các tôn giáo, niềm hy vọng đã thắp sáng sự thành tín.
Sự hy vọng, niềm trông đợi trong niềm tin của Kitô Giáo không dừng tại đó, không chỉ là hướng về mà còn là bay về, không chỉ là bám đất mà là lên trời. Không ràng buộc nào nữa có thể giữ chân con người, đó là niềm hy vọng cuối cùng của vạn vật và con người.
Lên trời hay thăng thiên là một hành vi dứt bỏ hòan tòan mọi quyến luyến trong hòan vũ này để tới nơi hòan tòan mới, hòan tòan không còn tỳ ố. Trong nhân loại đã có một người thăng thiên, dứt bỏ hòan tòan và đến nơi hòan tòan của Tuyệt Đối, con người số một của hòan vũ đó là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Đức Giêsu Kitô, một nhân loại mới được thâu họp. Hạnh phúc và sung sướng tràn ngập trong hòan vũ này chảy lan tràn như sữa và mật trong ngày Chúa Thăng Thiên. Sự dữ đã hòan tòan sụp đổ, không còn có một cơ may nào để giữ chân một con người. Con người đã siêu thăng, sự nguyên tuyền đã được tái tạo vượt xa sự nguyên tuyền trong ngày đầu sáng tạo. Sự trội hẳn đã khơi mầm trong hòan vũ, một nhân loại mới được sinh lại hòan tòan mới trong Đức Giêsu Kitô, nhờ Đức Giêsu Kitô. Đó là niềm tin, sự hy vọng lớn nhất của nhân loại, trong Ngài (Đức Giêsu Kitô) và nhờ Ngài con người và vạn vật thấy mình được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.
Thăng thiên là lối mở về phía vô biên mà Thiên Chúa đã khai mở cho nhân loại, từ đó niềm xác tín trên trái đất này, ngày càng gia tăng khi tuyên xưng mầu nhiệm: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi…”. Thật sự là một mầu nhiệm khi mọi dòng suy nghĩ được bắt đầu sinh ra ở dưới thế, viên mãn ở trên trời, ở nơi Thiên Chúa ngự được hòan tất. Con người từ đó biết rằng sinh ra để sống chứ không để chết, mọi cuộc đời đếu mang một ý nghĩa và giá trị để đòi buộc con người phải tôn trọng sự sống. Như vậy, từ lối khai mở của Thiên Chúa về chốn thăng thiên, con người được mời gọi làm cho tòan vũ này trở nên một nơi đáng sống, cưu mang và thừa hưởng sự sống.
Thăng thiên được diễn tả rất nhiều trong nền hội họa của Kitô giáo, ở đó, diễn tả con người được giải thóat khỏi xác hay chết này bằng những hình ảnh hai tay giơ cao như để cầu nguyện, gối quỳ biểu hiện lời khấn vái, thân mình được nâng lên khỏi mặt đất mà không cần gì để đỡ nâng, những chòm sao kết thành triều thiên đội trên đầu, và đôi khi có những thiên thần cất cánh đưa con người lên không trung. Tất cả những thể loại biểu hiện ấy diễn tả con người lúc nào cũng hướng về nơi tòan thiện, tòan mỹ và chân lý mỗi ngày một hơn trong mọi nỗ lực của trần thế. Có nhiều cấp độ của sự thăng hoa, đó là những bậc thang trên linh đạo, ngày mỗi ngày hòan thiện hơn theo lời mời gọi: “ Các con hãy trở nên hòan thiện hơn như Cha của các con là Đấng Tòan Hảo ngự trên trời” (Mt 5, 48). Trở nên tòan hảo là đánh dấu một khát mong mọc từ đất thấp vươn tới trời cao, và được hòan thành nơi đó. Trong các khát khao của nhân loại đã được nhận lời, được hình thành và là câu trả lời của Thiên Chúa nơi nhân loại, là nơi Đức Maria, Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác. Đó là một sự kiện bảo đảm chắc chắn cho mọi con đường nỗ lực vươn lên trong nhân loại. Tinh thần hóa tuyệt đối của tòan thể con người từ xác thể tới tâm hồn, để thấy rằng thân xác bởi khí huyết này là khởi sự cho thân xác thần thiêng, sự chết của xác thể này là sự nảy mầm cho thân xác bất tử.
Thăng Thiên và cuối cùng để nhận thấy rằng con người là gì mà được Thiên Chúa quá yêu thương, phàm nhân là chi mà Thiên Chúa lại quá bận tâm và nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương con người quá đỗi. Ngài đã dựng nên con và đã không để con đời đời trong sự hư vô, để cho con có và có tất cả.
Lm Giuse Hòang Kim Toan
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 10:44)
LỄ THĂNG THIÊN
GIÁO HỘI THI HÀNH SỨ VỤ MỚI
A. DẪN NHẬP.
Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người chịu chết trên thập tự để chuộc tội cho lòai người, để con người được quyền làm con Chúa và được thừa hưởng Nước Trời. Ngài đã đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, chiêu tập môn đệ, thành lập Giáo hội để tiếp nối công việc của Ngài ở trần gian. Sau khi đã hòan tất sứ mạng một cách hòan hảo, Đức Giêsu trở về cùng Chúa Cha để được hưởng vinh quang mà Cha đã dành cho Ngài. Hôm nay là lễ Thăng Thiên và cũng là ngày bàn giao quyền năng và sứ mạng của Ngài cho các môn đệ và Giáo hội.
Trước khi từ giã các Tông đồ đi về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu trao lại sứ vụ của Ngài cho các ông là loan báo Tin mừng cho muôn dân. Tuy Đức Giêsu hứa sẽ ở cùng các ông cho đến ngày tận thế nhưng Ngài không trực tiếp giảng dạy được mà phải nhờ đến các ông và Giáo hội. Từ đó, Giáo hội phải nhận lấy trách nhiệm tiếp nối công trình của Ngài như Ngài đã dạy: ”Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hiệp thông với các môn đệ được chứng kiến việc Chúa lên trời, ta cùng mang lấy tâm tình và bắt chước công việc các ông sau khi Chúa về trời, đó là “Chúa về trời, ta vào đời”. Ta phải vào đời để làm tròn sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta, đó là “Làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Chúa”(Mt 28,20) bằng đời sống chứng nhân của mình. Đồng thời hãy vui mừng phấn khởi với lời hứa của Chúa: ”Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con… để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thiên đàng là quê hương của chúng ta, nơi Chúa đang chờ đợi. Nhưng dầu sao chúng ta phải nỗ lực không ngừng để tiến tới nơi đó vì “Nuớc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”(Mt 11,12; Lc 16,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 1,1-11: Bài đọc 1 được rút ra từ sách Công vụ Tông đồ của thánh Luca và cũng là tác giả của sách Tin mừng thứ ba. Thánh Luca cho biết Chúa Giêsu kết thúc công việc mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài, nay Ngài về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trước khi về trời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ hai điều:
* Thứ nhất Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Hãy tin tưởng chờ đợi.
* Thứ hai Ngài trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp cùng trái đất.
+ Bài đọc 2: Ep 1,17-23: Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để nhận biết mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, và mở trí lòng ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã lãnh nhận. Đức Kitô đã được trỗi dậy từ cõi chết, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn vật: ”Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,23).
+ Bài Tin mừng: Ga 28,16-20: Thánh Matthêu kết thúc sách Tin mừng của Ngài bằng một bài ngắn gọn tường thuật việc Chúa Giêsu từ giã các môn đệ mà về trời. Ý chính của bài Tin mừng này cũng giống như bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ hãy tiếp nối công trình của Ngài. Tuy Ngài không hiện diện để các ông trông thấy hay nghe thấy nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng một cách thế mới để hoạt động trong Hội thánh. Ngài sẽ còn ở lại với Hội thánh cho đến ngày tận thế. Phần các ông ở lại, hãy thực hiện lời Chúa: ”Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chúa về trời, ta vào đời.
I. ĐỨC GIÊSU VỀ TRỜI.
Sau khi sống lại, Đức Giêsu liên tiếp hiện ra với các môn đệ để vừa xác nhận việc Ngài sống lại vừa để bổ túc việc dạy dỗ các ông.
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ trong thời gian bao lâu ? Thánh Luca cho biết là 40 ngày (các sách ngụy thư nói đến 50 ngày hay 18 tháng), một thời gian khả dĩ cần thiết để kiện tòan việc dạy dỗ các tông đồ.
Hôm nay Đức Giêsu quyết định ra đi vĩnh viễn trong một cuộc hiển linh đầy quyền năng, một cuộc Thăng thiên về nhà Cha trên trời. Có người cho rằng đây là lần hiện ra lần sau hết với 500 môn đệ để mọi người chứng kiến việc Chúa lên trời. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho biết chỉ có 11 tông đồ qui tụ về Galilê để được dạy dỗ và chứng kiến việc Chúa lên trời. Sở dĩ chỉ có 11 tông đồ vì Giuđa đã phản bội Chúa, đáng lẽ phải hối hận và đi tìm gặp Chúa đệ tạ lỗi thì lại đi thắt cổ tự tử (Mt 27,5).
Thánh Matthêu cho biết tiếp: ”Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông (Mt 28,16). Trong Thánh Kinh, núi là nơi mang một tính chất thiêng liêng. Theo thánh Matthêu, các bản văn, lề luật quan trọng đều được ban ra từ trên núi như Thập giới, Tám mối phúc thật (Mt 5,1), Biến hình (Mt 17,1). Núi là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, để tôn vinh và thờ lạy.
Khi thấy Đức Giêsu “Các ông phục lạy Ngài”(Mt 28,17). Thánh Matthêu có ý dùng chữ “Phục lạy”. Động từ này có ý nghĩa thần học chính xác. “Phục lạy” chỉ được dùng cho những ai đã nhận biết phẩm vị của Đức Giêsu và nhìn nhận phẩm vị này qua cử chỉ đó như ba nhà Đạo sĩ đến triều bái Chúa Hài nhi (Mt 2,11), người phung cùi được sạch (Mt 8,2), các môn đệ trên thuyền (Mt 14,33), người đàn bà xứ Cana (Mt 15,25). Hôm nay các ông thờ lạy cách kính cẩn hơn nữa vì Ngài huy hòang trong ánh sáng Phục sinh, vì nơi Ngài “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được trao phó”. Tuy nhiên, cũng có mấy ông còn hòai nghi, nhưng không nói rõ tên ai.
Đức Giêsu tiến lại gần họ và phán: ”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”(Mt 28,18). Đức Giêsu đã chính thức trao quyền hành và sứ mạng của Ngài cho các ông để tiếp tục hòan thành. Hôm nay Đức Giêsu ra đi nhưng là ngày các môn đệ lên đường, họ có nhiệm vụ đi chinh phục thế giới. Chinh phục bằng lời giảng dạy, chinh phục bằng phép rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Hôm nay, sau cuộc bàn giao, Đức Giêsu lên trời, các môn đệ phấn khởi nhìn theo, nhưng các ông còn nghe văng vẳng bên tai lời Chúa kết thúc Tin mừng: ”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Rồi họ xuống núi trở về xây dựng Giáo hội, làm cho Giáo hội thêm vững mạnh và phát triển chờ đợi Ngày Chúa lại đến. Giáo hội của Chúa sẽ đứng vững kiên cường không một thế lực nào có thể làm sụp đổ như lời sử gia Ba lan, ông Henryk Sienkievick, nói: ”Các bạo Chúa cùng với triều đại của họ đều lần lượt tiêu tan – Nhưng con thuyền của người dân chài Galilê cầm lái vẫn hiên ngang lướt sống”. Đấng là chủ con tầu đã chẳng từng nói đó sao (Mt 16,18) ?
II. CHÚNG TA VÀO ĐỜI.
1. Chúa về trời.
a) Chúa Giêsu về với Cha.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ về cùng Cha, Ngài hay nhắc đến Cha Ngài, đến nỗi ông Philipphê đã thưa với Ngài: ”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8).
Sau khi hoàn thành sứ mạng của Cha giao phó là chịu chết chuộc tội cho nhân loại và sống lại để phục hồi cho con người sự sống mới, thì Chúa Giêsu đã lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được đặt làm chủ tể muôn loài: ”Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1,11)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên trời hay mừng lễ Thăng thiên. Theo chữ Nho thì “Thăng” là lên và “Thiên” là trời. Xét theo nghĩa chữ thì “thăng thiên” chính là “lên trời”. Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ? Nói như vậy là Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ đâu có “lên trời” !
Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của tác giả Matthêu. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà người dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là “trời”, cái gì thấp thì gọi là “đất”, tình trạng tiến khá hơn thì gọi là “lên”, lùi tệ hơn thì nói là “xuống”. Như thế, “thăng thiên” hay ‘lên trời” không chỉ một chuyển động trong không gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thế thì được diễn tả là “giáng trần” hay “xuống đất”. Hôm nay Ngài trở về tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì được diễn tả là “lên trời”. Bởi vì, Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang, Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên “ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi “ở dưới đất”.
Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.
Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh tưởng tượng kia để đạt đến ý nghĩa đích thực của việc thăng thiên: đó là Đức Giêsu đã lấy lại vinh quang, Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đặc biệt cho chúng ta (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 215).
b) Có thiên đàng không ?
Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, đó là phần thưởng Cha dành cho Ngài sau khi đã hoàn thành sứ mạng được giao phó. “Lên trời” hay “lên thiên đàng” cũng là một, chỉ khác từ ngữ, còn ý nghĩa vẫn như nhau. Vậy Chúa Giêsu lên trời cũng có nghĩa là lên thiên đàng.
Trước đây Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ việc Ngài ra đi và đi để làm gì trong bài Tin mừng Chúa nhật 5 vừa qua: ”Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thày, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Chúa Giêsu đi dọn chỗ cho chúng ta ở đâu, nếu không phải là ở thiên đàng ? Đúng vậy, Chúa Giêsu lên trời tức là lên thiên đàng như ở trên chúng ta đã nói. Do đó, chúng ta đặt ra hai vấn đề:
* Thiên đàng thế nào ?
Ta không biết rõ Thiên đàng như thế nào, nhưng ta chỉ biết đó là nơi ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh hạnh phúc thiên đàng nói lại cho ta điều họ thử nghiệm như sau:
Các Tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa Giêsu được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông (Cv 1, 9-10).
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan ngây ngất nhìn Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê (Mt 17,1tt).
Còn thánh Phaolô thì thốt lên như sau: ”Người ấy đã được nhắc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
Thiên đàng như thế nào không ai biết và nếu có biết thì không thể nào diễn tả được.
* Thiên đàng ở đâu ?
Ta dùng hai từ “lên thiên đàng” và “xuống hỏa ngục”, hai từ ấy gợi cho chúng ta cái ý nghĩ về một không gian vật chất có thể trông thấy được, sờ mó được. Nhưng đúng ra, thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là một trạng thái của tâm hồn. Tâm hồn ta có thể là thiên đàng, cũng có thể là hỏa ngục. Nếu thi sĩ Nguyễn Du nói “Thiện tâm ở tại lòng ta” thì ta cũng có thể nói: ”Thiên đàng hỏa ngục ở ngay trong lòng ta”.
Truyện: không có thiên đàng
Chính vì hiểu Thiên đàng là không gian vật chất nên ông Kroutchev, thủ tướng của Liên xô cũ, đã nói với ký giả C. Sulberger ngày 5.9.1961 rằng: ”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung, anh YOURI GAGARINE. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu, mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc. Không có chi giống như thiên đàng cả. (Sau đó) chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi đã gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh rằng: ”Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy trông cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về, và anh đã xác nhận lời tuyên bố của Gagarine: ”Hư vô ! Chỉ có hư vô”.
Rồi Kroutchev xoa tay kết luận: ”Cho nên người Cộng sản chúng tôi không tin có đời sau”(Information catholique, ngày 1.10.1961, tr 14).
2. Ta vào đời.
Khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ ngây ngất nhìn lên trời để chiêm ngắm vẻ đẹp của Chúa Giêsu. Các ông đã quên trần gian, đến nỗi hai thiên thần phải hiện đến nhắc nhở cho các ông hãy quay về với thực tại, nghĩa là hãy quay về với đời sống hằng ngày, nhưng lòng vẫn hướng về trời. Vậy, Chúa đã về trời, còn chúng ta vào đời để làm gì ?
a) Để loan báo Tin mừng.
Quang cảnh Chúa Giêsu lên trời đẹp quá, khiến các môn đệ còn ngước mắt lên trời nhìn theo. Các ông ước ao được hưởng vinh quang và vẻ đẹp của Chúa Giêsu như khi Ngài biến hình trên núi Taborê. Còn đang say sưa nhìn trời thì hai thiên thần hiện ra nhắc nhở cho các môn đệ “Sao các ông còn đứng nhìn trời” ? Điều này nhắc nhở cho các ông và mọi Kitô hữu hãy quay trở lại với thực tế trần gian để tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu.
Vậy vào đời để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là gì ? Ta hãy nghe lời nhắc nhở sau cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ ở cùng anh em cho đến tận thế”(Cv 1,11).
b) Để chuẩn bị về quê trời.
Ngày lễ Thăng thiên hôm nay nhắc nhở chúng ta sống tốt lành và hướng lòng ta về trời là quê hương, như thánh Phaolô nói: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).
Quê trời là niềm hy vọng của chúng ta, là động lực khuyến khích chúng ta chấp nhận một cuộc sống đầy gian nan ở trần gian này, nếu không thì những cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô ích. Thánh Ambrôsiô nói: ”Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta đều là ảo tưởng (1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.
Ai muốn lên thiên đàng thì phải yêu mến Chúa và yêu mến Chúa thì phải thi hành lời Chúa như Ngài đã phán: ”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các đều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thi hành lời Chúa là phải đem ra thực hành các điều Chúa dạy; điều này đòi hỏi mọi Kitô hữu phải cố gắng, phải hy sinh, phải dấn thân, phải nép nình vào mà đi qua cửa hẹp, bởi vì Chúa đã nói:”Không phải cứ kêu Lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Cha Ta ở trên trời” (Mt 7,21)
Việc lên trời là việc của từng người, mỗi người phải quyết định lấy, không ai có thể làm thay được. Chúa thương yêu chúng ta thật, nhưng Ngài không áp đặt chúng ta, Ngài không cưỡng chế chúng ta phải về trời, Ngài luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Nhưng dù sao, muốn lên thiên đàng cũng phải có điều kiện như người ta nói:
Lênh đênh trên cửa Thần phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. Ca dao)
Mỗi người phải khéo lèo lái con thuyền của mình trên biển trần gian này mới được yên ổn, giống như ở Thánh hóa, ngày xưa có cửa biển Thần phù (bây giờ không biết có còn không), ở đó có dòng nước xoáy, rất nguy hiểm, người chèo qua đó phải rất cứng tay và khéo léo, nếu không sẽ bị chìm. Người ta lấy câu ca dao này để khuyên mọi người phải sống tốt lành để khỏi hư đi. Người ta rất khéo léo dùng chữ “tu” ở đây. Theo chữ Nho, chữ “tu” thì có nghĩa là “sửa”. Tu thân là sửa mình. Vậy ai khéo tu thân tích đức là người khéo chèo chống thì sẽ nổi, sẽ được rỗi; còn ngược lại thì sẽ bị chìm, tức là phải trầm luân.
Truyện: Ai muốn lên thiên đàng ?
Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị giảng thuyết hỏi giáo dân:
- Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng lên.
Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy, chỉ trừ một người: anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi anh ta:
- Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu ?
Chàng uể oải trả lời:
- Chả đi đâu cả ! Tôi muốn được lên Thiên đang ngay ở đây.
Những người muốn một đời sống dễ dàng thường quên mất sự kiện này là: để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm công việc mà đáng lẽ chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch mà không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 18:58)
7. Thánh sủng của Thiên Chúa, khi chưa được mà cầu thì ắt được; mất đi, cầu thì được lại, được rồi thì luôn gìn giữ không để mất.
(Thánh Bernard)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 18:57)
CÂY DU LỚN VÀ CÂY CỎ XANH NHỎTrên dốc núi có một cây du lớn, dưới gốc cây du mọc một đám cỏ xanh nhỏ.
Một hôm, cây du lớn hỏi cây cỏ xanh nhỏ:
- “Các ngươi coi tớ có cao không ?”
- “Cao.”
- “Có mạnh khỏe không ?”
- “Mạnh khỏe”.
- Có đẹp không.”
- “Đẹp.”Cây du lớn nghe được câu trả lời của đám cỏ xanh nhỏ thì rất là phấn khởi, ưỡn ngực kiêu ngạo nói:
“Đó đều là kết quả công lao của tớ ngày ngày dùng sức lực để làm việc.”Cỏ xanh nhỏ nhìn thấy thái độ kiêu ngạo của cây du lớn, trong lòng có chút khó chịu, nói:
“Cây du lớn ạ, anh không nên kiêu ngạo, nếu không có chúng em thì anh cũng không có ngày hôm nay.”-
“Tại sao không có tụi mày thì tớ không có ngày hôm nay ? Chúng mày chỉ là những cây cỏ nhỏ xíu, còn tớ là một cây đại thụ, tại sao ta không thể rời khỏi các ngươi chứ ?” cây du lớn nói mà mặt mày không vui vẻ.
- “Thật đó, từ khi anh sinh ra cho đến hôm nay, chúng em luôn bảo vệ anh. Khi trời nắng nóng, chúng em giữ nước lại cho anh, không để anh vì nước chưng cất mà bị chết khát; khi trời mưa, chúng em...”Cây cỏ nhỏ nói chưa hết lời thì cây du lớn bèn cất giọng oang oang hùng hổ nói:
“Nói tầm bậy, tụi bây là những cây cỏ nhỏ xíu thì có tài cán gì chứ ?”Cây cỏ nhỏ rất buồn và khó chịu, nó cầu cứu với bà gió đem nó và các anh chị em của nó đi nơi khác. Bà gió cũng không thích kiểu kiêu ngạo của cây du lớn, nên đem các cây cỏ nhỏ qua một nơi khác đất đai phì nhiêu hơn.
Ngày lại ngày, ba năm qua rất nhanh.
Một hôm, mưa lớn trút xuống như thác đổ, trôi hết lớp đất bùn dưới chân cây du lớn, do đó rễ cây phơi bày ra; gió mạnh ào ào thổi đến, thổi luôn cả thân cây du lớn nghiêng ngã một bên không đứng lên được. Lúc ấy, cây du lớn mới nghĩ đến lời của cây cỏ nhỏ đã nói, do đó mà cảm thấy rất hối hận.
- “Cây cỏ nhỏ, cây cỏ nhỏ, mau đến cứu tớ với !” Đó là câu nói cuối cùng của cây du lớn trước khi chết.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Muôn sự vạn vật đều có liên hệ với nhau, không có người nào thoát khỏi sự giúp đỡ của người khác mà tự mình trưởng thành, cho nên chúng ta càng nên phải yêu quý sự giúp đỡ của người khác.
Con cái nhờ sự nuôi nấng của cha mẹ mới được thành tài như hôm nay; bạn bè biết động viên nhau để cùng nhau thăng tiến vươn lên; nhà máy cần phải có công nhân làm việc, nhà máy càng lớn thì công nhân càng nhiều, đó là sự hổ trương để hai bên cùng có lợi và xã hội nhờ đó mà phồn thịnh... Mọi người đều hổ tương với nhau để sinh tồn, và để cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp như ý muốn của Thiên Chúa.
Nếu người học giỏi rồi thì kiêu ngạo không thấy sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè, thì trước sau gì họ cũng sẽ bị loại bỏ; nếu người có tiền của giàu có rồi thì kiêu ngạo không thấy tiền bạc mình có là nhờ nhà máy, xí nghiệp, công ty mà mình đang làm, thì trước sau gì họ cũng sẽ trở thành mối lo cho xã hội...
Thiên Chúa là Đấng rất công bằng, không thiên vị ai, càng có tiền của, càng học giỏi thì càng thấy mình rất cần đến sự giúp đỡ của mọi người...
Các em thực hành:- Luôn khiêm tốn nhận sự giúp đỡ của người khác, cụ thể là của bạn bè..
- Khiêm tốn khi giúp đỡ bạn bè.
- Luôn nhớ cầu nguyện cho những ai đã giúp đỡ mình cách này hay cách khác.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 21:01)
Trước khi về trời Đức Kitô hứa ban Thánh Thần cho nhân loại. Thánh Thần đến hướng dẫn, khơi lại trong tâm trí điều Đức Kitô rao giảng, làm tái sinh điều đã nghe.
Để được hưởng ân huệ này cần phải cộng tác với Thánh Thần. Thiếu cộng tác với Thánh Thần sẽ không thấu hiểu điều Chúa dậy. Cố gắng giải thích theo hiểu biết cá nhân khó tránh khỏi sai lạc. Không khéo đi sai đường mà vẫn không nhận ra.
Đức Kitô cho biết thế gian không nhận biết Thánh Thần. Không thể dùng lí luận hợp lí thế gian nhận biết về Thánh Thần vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người.
Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người.
Thế gian mù mờ đến độ không biết về Thánh Thần để nêu thắc mắc. Người ta chỉ có thể nêu thắc mắc khi nghe qua, hiểu chút ít. Chưa nghe bao giờ thì không có kiến thức nêu thắc mắc, nói chi đến tìm hiểu.
Điều kiện để nhận ơn Thánh Thần là phải yêu mến Thiên Chúa, phải vâng lời Thiên Chúa bằng cách chu toàn lề luật yêu thương thể hiện qua các điều răn dậy ta cách sống yêu thương, khiêm nhường và đối xử với nhau bằng lòng mến. Thiếu các điều trên nhận thức về Thánh Thần khó tránh khỏi sai lạc vì bị ảnh hưởng bởi ý riêng.
Thực tế cho thấy có những giải thích khác nhau, đôi khi trái nghịch nhau về cùng điều Chúa truyền dậy. Rất có thể Thánh Thần hướng dẫn điều đó cho cá nhân hơn là cho cộng đoàn. Hướng dẫn cá nhân khác với hướng dẫn cộng đoàn. Thí dụ ơn gọi của cá nhân không thể là ơn gọi chung cho cộng đoàn. Tài năng Chúa trao cho các nhân không phải của cộng đoàn, mặc dù được khuyến khích giúp việc chung, nhưng vẫn là của cá nhân. Áp đặt dấu chỉ cá nhân lên cộng đoàn là sai. Người lãnh đạo có thể tin đây là điều Chúa nói với tôi. Chúa không nói với cộng đoàn sao bắt cả cộng đoàn thực hiện dấu chỉ cá nhân. Cần cẩn trọng để biết đâu là dấu chỉ riêng cho cá nhân, đâu là dấu chỉ cho cộng đoàn.
Chúa nói với cộng đoàn qua Giáo Hội nào? Thưa là Giáo Hội do chính Chúa sáng lập đặt nền tảng trên các tông đồ. Thuộc về Giáo Hội đó, lắng nghe lời chỉ bảo và sự hướng dẫn của Giáo Hội đó sẽ học được điều công chính. Nên cẩn trọng và khôn ngoan khi đón nhận các giải thích khác. Không phải vì đầu óc kì thị hay tự kiêu mà là khôn ngoan tránh rơi vào lạc giáo. Căn bản của lạc giáo do thiếu hướng dẫn của Thánh thần. Hành động theo ý riêng không thể là môn đệ Chúa vì:
Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin cùng Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết người. (
Ga 14,15-17).
HAI MÓN QUÀ Hai món quà Thiên Chúa ban cho nhân loại luôn hỗ trợ, hỗ tương nhau. Món quà thứ nhất do Chúa Cha ban tặng; món quà thứ hai do Chúa Kitô ban cho. Món quà thứ nhất chính là Đức Kitô con một Thiên Chúa; món quà thứ hai Con Chúa trao tặng là Thánh Thần. Cả hai món quà thế giới không có để cho. Thiên Chúa là Đấng duy nhất trao tặng món quà
vì yêu mến,
vì muốn ở cùng nhân loại,
vì mời gọi con người dự vào chương trình tái tạo
và sai con người loan báo tin vui cứu độ
vì Chúa đã sống lại thật như lời đã tiên đoán.Tất cả những việc trên đều qui hướng về một Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta được mời gọi để loan báo cho nhân loại một Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương đến độ Chúa Cha ban chính Con Mình. Yêu thương đến độ Chúa Con ban Thánh Thần đến ở giữa anh em, hướng dẫn anh em, chỉ bảo anh em về điều Thầy đã truyền dậy và Thánh Thần đến để anh em khỏi sống mồ côi.
Món quà Thiên Chúa trao ban con người hoặc nhận cả hai, hoặc từ chối cả hai. Không thể nhận một bỏ một. Để nhận ơn Thánh Thần trước tiên phải đón nhận Đức Kitô. Từ chối Đức Kitô là từ chối Thánh Thần và từ chối Thánh Thần sẽ không được hướng dẫn để hiểu về Đức Kitô. Không thể yêu quí điều không hiểu, không biết. Do vậy yêu mến Đức Kitô cũng là yêu mến Thánh Thần Đức Kitô ban tặng và yêu mến Thánh Thần Đức Kitô ban tặng sẽ yêu mến Đức Kitô nhiều hơn. Ai yêu mến Đức Kitô thì Chúa Cha sẽ ở trong người ấy và Đức Kitô và Thánh Thần cũng ở trong người ấy. Yêu mến Thiên Chúa sẽ nhận lãnh cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
DẤU CHỈ Dấu chỉ để yêu mến Thiên Chúa chính là thực hiện điều Chúa truyền dậy vì chính Chúa xác nhận:
Ai yêu mến Thầy thì vâng giữ lời Thầy và Thầy sẽ xin cùng Chúa Cha ban cho Đấng Bảo Trợ.
Điều Chúa truyền dậy được chỉ bảo và hướng dẫn bởi Thánh Thần. Thánh Thần nói qua Giáo Hội vì Giáo Hội là hiền thê của Đức Kitô. Tiếng nói chính thức của Thánh Thần được xác định và hướng dẫn bởi Giáo Hội tông truyền do chính Đức Kitô thiết lập, đặt nền tảng trên cách thánh tông đồ.
TÌM BÀI CŨ :Suy Niệm:
http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.htmlTruyện ngắn:
http://www.stmarksinala.net.au/truyen.htmlHình ảnh:
http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Lm Vũđình Tường
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 19:16)
6. Thánh sủng thì không khoe khoang, ngay cái bóng của sự ác cũng nhất định tránh né.
(sách Gương Chúa Giê-su)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 19:15)
ONG MẬT VÀ CON RUỒIMùa đông rất lạnh đã qua, nàng xuân nhẹ nhàng đến đem lại nụ cười. Hơi thở của cô ta chính là gió xuân nhè nhẹ, phủ nhẹ vào má của mỗi người, mát mẻ hợp với lòng người; cái quần của nó chính là thảm cỏ xanh trải ra trên địa cầu, màu xanh tươi tốt; hai tay của nó ôm những cánh hoa tươi, tùy ý vãi giữa mặt đất, tay đến nơi đâu thì ở đó trăm hoa đua nở, muôn hồng nghìn tía.
Các con ong mật bắt đầu bận túi bụi, trong vườn trăm hoa, mỗi đóa đều phủ qua, các hoa đều hướng về ong mật gật đầu gởi lời thăm hỏi, phảng phất như hỏi:
“Hoan nghinh các bạn, ong mật nhỏ cần cù.”Các ong mật nhỏ sung sướng gật đầu xướng ca, khắp nơi hái hoa hút mật.
Lúc bấy giờ, trong đám cỏ có một con ruồi đang phục trên ngọn cỏ non đánh đung đưa. Nó nhìn thấy ong mật bận túi bụi bay tới bay lui, nhịn không được nên cười ha ha nói:
“Mệnh khổ à, các anh mỗi ngày từ sáng tới tối, từ khi sinh ra bận cho đến chết mà không cảm thấy phiền não, không cảm thấy mệt sao ?”Ong mật bận làm việc nên không có thời gian đối đáp với con ruồi, con ruồi lại nói:
“Các anh làm mấy việc khổ sai ấy thật khiến cho người khác chịu không nổi, nếu tôi giống các anh làm việc cả ngày như thế, thì nhất định sẽ bị bệnh thần kinh !” Ong mật nghe nhưng vẫn cứ như cũ không trả lời, bận bay khắp nơi hút mật hoa.
Con ruồi thấy ong mật không trả lời, bèn bắt đầu gàn bướng, nói:
“Nhìn tớ đây nè, sống tự do tự tại, thần tiên cũng không vui vẻ bằng tớ. Mỗi ngày nếu tớ không đi ăn tiệc, thì cũng vào nghỉ ngơi trong cung điện, tự nhiên lại ở trong thiên nhiên này hưởng thụ ánh nắng và mưa rơi, đó mới gọi là ăn sung mặc sướng, ngay cả cuộc sống của những người quý tộc cũng không bằng tớ. Nói cho các anh biết, ngay cả trong hoàng cung tớ cũng đã ở qua rồi đó.”Ong mật tìm đủ mật hoa rồi, từ trong nhụy hoa chui ra. Con ruồi vẫn không biết điều cứ nói khoác:
“Bất cứ ở đâu có tiệc tùng, dù là đám cưới hay mừng sinh nhật, dù là vương công quý tộc hay là trên bàn của vương phi công chúa, thì tớ luôn là người thứ nhất nếm các thức ăn hảo hạng.”Nó lên giọng tiếp tục nói:
“Thế nào rồi tớ cũng đến bên trong cái lý uống một ngụm rượu ngọt khai vị, rồi bay vào trong mâm cơm ăn chút sơn hào hải vị, ăn xong rồi thì bay chuyền qua bánh ngọt có dầu thơm phức muốn ăn bao nhiêu thì ăn.“ Con ruồi chìm đắm trong sự tâng bốc đẹp đẽ, ngay cả âm điệu cũng biến đổi nữa:
“Tớ còn có thể nghỉ ngơi trên khuôn mặt của người đẹp nữa đó.”Ong mật chịu không nỗi, ngắt lời của con ruồi:
“Tớ nghe nói mọi người ai ai cũng đều ghét bạn, dù cho bạn bay đến nơi đâu, thì người ta đều bặm môi trợn mắt đuổi bạn đi chỗ khác, cầm chổi đập ruồi để đuổi bạn.”Mặc dù con ruồi bị nói đến chạm tự ái, nhưng nó vẫn dùng khẩu khí bất cần đời nói:
“Vậy thì đã sao nào ! Không phải người ta cứ đuổi nhưng đuổi tớ không bay thì sao ? Đuổi tớ đi từ cửa chính thì tớ vẫn từ cửa sổ bay vào, dù da mặt tớ dày nhưng có thể ăn được thức ngon, bị xua đuổi thì có quan hệ gì chứ ?”Lần này ong mật cũng không muốn nhìn con ruồi bằng nửa con mắt, chúng nó đập đập đôi cánh bay vào những cánh hoa trong rừng rậm.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Cho đi tâm và lực thì mới có thể sáng tạo cuộc sống tốt đẹp của con người ở thế gian này. Người lao động là người vĩ đại, càng là người đáng được cho chúng ta tôn kính, bởi vì chúng ta ở đời đều mắc nợ nhau:
- Chúng ta nợ bác nông phu làm ra gạo để chúng ta ăn.
- Chúng ta nợ cô thợ may áo quần để chúng ta mặc.
- Chúng ta nợ thầy cô giáo đã truyền kiến thức cho chúng ta.
- Chúng ta hết nợ người này đến người khác vì những nghề nghiệp của họ đều làm cho cuộc sống của chúng ngày càng phong phú hơn...
Con ruồi chỉ biết đi ăn chực ăn ké của người khác mà thôi, vì nó không có lao động, không đổ mồ hôi để làm việc, cho nên nó không biết giá trị của lao động, chúng ta không nên bắt chước nó ăn không ngồi rồi đem chuyện người này người nọ nói ra...
Các em thực hành:- Không coi thường bác quét rác làm vệ sinh trong trường, vì đó là một nghề chân chính.
- Mỗi ngày giúp mẹ rửa chén quét nhà, để tập lao động chân tay.
- Nhớ cầu nguyện cho nghề nghiệp của bố mẹ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 17:14)
LINH MỤC KHIÊM TỐN VÀ TUÂN PHỤC TÒA THÁNH
Tiến trình án phong chân phước và hiển thánh cho vị tôi tớ Chúa - Cha Marie-Joseph Lagrange (1855-1938) Linh Mục dòng Đaminh - tiến triển tốt đẹp.
Cha Marie-Joseph Lagrange - tên thật là Albert Lagrange - chào đời ngày 7-3-1855 tại Bourg-en-Bresse (Ain), thuộc giáo phận Belley, nước Pháp, trong một gia đình Công Giáo thật đạo đức. Năm lên 3 tuổi, bé Albert được lãnh phép lành của thánh Jean-Marie Vianney (1786-1859), Cha sở họ Ars.
Sau khi đậu bằng tiến sĩ luật tại đại học Paris, năm 1878, Albert xin gia nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo thánh Đaminh. Năm 1880, Albert khấn dòng với tên Marie-Joseph Lagrange. Vì những biến động chính trị của Pháp lúc bấy giờ, thầy Marie-Joseph được gởi sang học thần học tại Saint-Etienne ở Salamanca, bên Tây Ban Nha và được thụ phong Linh Mục tại đây năm 1883.
Vốn yêu thích Kinh Thánh, cùng đức vâng lời đòi buộc, Cha Lagrange dành trọn thời giờ cho việc học hỏi và nghiên cứu Kinh Thánh. Cha được Bề Trên gửi đi Giêrusalem để thành lập một Học Viện Kinh Thánh. Học Viện chính thức khai trương ngày 15-11-1890. Kể từ đây cho đến phút cuối cùng, Cha Lagrange dâng hiến trọn cuộc đời mình để phục vụ Kinh Thánh, trong tư cách: nhà nghiên cứu, giáo sư, giám đốc Trường Kinh Thánh và Nguyệt San Kinh Thánh. Đồng thời Cha viết rất nhiều bài báo và sách. Tác phẩm nổi tiếng nhất là cuốn Phúc Âm Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Công trình chú giải Kinh Thánh của Cha Lagrange thật công phu, xứng đáng được giới học giả trí thức Công Giáo trích dẫn. Tuy nhiên, trong lãnh vực Kinh Thánh đa dạng, phức tạp và mênh mông, đã không thiếu những phản đối và thử thách. .. Tuy nhiên, dầu có bị hiểu lầm và bị kết án bất công, Cha vẫn giữ vững can đảm và một mực trung thành, tiếp tục công việc nghiên cứu Kinh Thánh và phục vụ Giáo Hội Công Giáo cho đến cùng.
Năm 1935, vì ngã bệnh, Cha Lagrange bắt buộc rời Giêrusalem và trở về Pháp. Ba năm sau, ngày 10-3-1938, Cha êm ái trút hơi thở cuối cùng tại Saint-Maximin (Var).
Linh Mục Marie-Joseph Lagrange là một nhà trí thức lỗi lạc, một chuyên viên nghiên cứu Kinh Thánh, nhưng nhất là, Cha là một tu sĩ. Chính danh xưng cuối cùng này giúp Cha can đảm chấp nhận thử thách và vượt qua thử thách một cách anh hùng, trong tâm tình khiêm tốn và hoàn toàn tuân phục Bề Trên cũng như Tòa Thánh.
Trước quyết định của Tòa Thánh. . Cha Lagrange khiêm tốn chấp nhận và nói:
- Tôi dốc lòng tuân phục hoàn toàn mọi quyết định của Tòa Thánh. Lòng tuân
phục Tòa Thánh - vẫn luôn là giới luật của chúng tôi - cho phép chúng tôi an tâm theo đuổi công cuộc học hỏi nghiên cứu mà trước đó chúng tôi đã sẵn sàng từ bỏ vì có dấu hiệu. Tôi xin thú nhận rằng: Những lời tuyên bố của tôi không phải rỗng tuếch, cũng không phải của một kẻ muốn gây chú ý, nhưng chúng phát xuất từ một người con, hằng tận tâm phục vụ và tùng phục Giáo Hội Công Giáo cũng như hết lòng hết trí tuân theo mọi phán quyết của giới thẩm quyền Tòa Thánh.
Với các vị Bề Trên dòng của mình, Cha Marie-Joseph Lagrange viết:
- Con không muốn lỗi đức vâng lời, dù là lỗi sự trọn hảo của đức vâng lời. Vì đã coi vâng lời như một lề luật không được vi phạm, con sẽ tiếp nhận câu trả lời của ngài như lời sấm của Chúa. Con không muốn nhận một phép ban để khỏi bị buồn lòng. Con nghĩ rằng ngài sẽ dễ dàng nhận biết lòng con cương quyết vâng lời cũng như sự thành thực thẳng thắn trong lời con nói.
Ngoài sự vâng lời đến độ anh hùng, Cha Marie-Joseph Lagrange còn nổi bật về sự khiêm tốn. Cha ghi trong chúc thư tinh thần:
- Tôi chỉ mong ước được quên đi và không đáng được chú ý. Sau khi tôi chết, có lẽ người ta sẽ cư xử công bằng, không phải đối với các sách tôi viết, nhưng là đối với tâm tình thúc đẩy tôi hành động. Ước nguyện duy nhất của tôi là được tắt thở trong niềm hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo và trong ơn thánh của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ tôi, với sự trợ giúp của Đức Mẹ MARIA Vô Nhiễm. Ý hướng của tôi là luôn luôn phục vụ Giáo Hội Công Giáo
... ”Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu ai bị vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi” (Matthêô 5,38-42).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 17:03)
Sống Nghèo Với Bình An Của Thầy Giêsu
Quả thật tôi rất yêu cuộc sống nghèo của Thánh Phanxicô thành Assasi. Nghèo mà Ngài Bình An vô cùng. Nghèo mà Ngài thật thoải mái cho chính bản thân của mình chẳng phải vướng bận vì mất công phải giữ Của. Ngài xuất thân là một con nhà giầu, con của một thương gia rất giầu có nhưng Ngài lại chuộng cuộc sống nghèo nên mới phải mang tội bất hiếu vì không nghe lời của Cha Ngài là nối nghiệp Cha. Ngài đã chọn cuộc sống nghèo để được theo bước chân của Thầy Giêsu rất chí ái. Ai muốn sống cuộc sống nghèo như Ngài Phanxicô phải về bán tất cả Của Cải của mình cho người nghèo rồi mới được Ngài Phanxicô nhận làm môn sinh.
Tôi cũng lại rất yêu cuộc sống nghèo của Mẹ Thánh Têrêsa thành Calcutta. Cuộc sống của Ngài tuy nghèo nhưng được Chúa ban cho rất An Bình. Nhờ An Bình của Chúa ban mà Ngài đã giúp được biết bao nhiêu người bất hạnh ghẻ chốc lở loét mà người đời xa lánh coi như chuột lở sống bên lề cuộc đời bị mọi người ghét bỏ, khinh khi, và đuổi xua. Ngài đã đón nhận tất cả những người khốn khổ này từng người một Ngài gặp được như đón nhận chính Chúa Giêsu. Ngài yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và dỗ dành như chính Chúa Giêsu hiện thân. Ngài là ai? Là một con người bình thường như chúng ta đây, hay Ngài là vị Thánh sống, có sức mạnh phi thường, có tài phép biến hóa nên đã làm được tất cả những việc và những điều phi thường mà không một ai trên đời có thể làm được như Ngài?
Mới vừa hôm qua đây thôi chứ không lâu, tôi vừa trải qua một cú xốc nhẹ thôi nhưng cũng đủ làm cho tôi phải suy nghĩ lại công việc mà tôi cũng định bắt chước các Thánh để làm toàn thời gian khi tôi về hưu? Hiện giờ thì nghề của tôi là y tá thấp kém và hèn mọn của Chúa mà thôi! nhưng công việc chưa đến nỗi gọi là nặng nề mà không xốc vác được. Ước muốn của tôi trong tương lai là xin việc làm vào những Viện Dưỡng Lão để chăm sóc cho các cụ cao niên, là làm tất cả những việc mà ai cũng từ chối để làm, ấy thế mà chỉ mới hôm qua đây thôi! khi đứng trước và đối diện với thực tế, tôi đã cảm thấy rất khó chịu vì mùi hôi nồng nặc cô đọng trong không gian và đầy một phòng. Đầu tôi liền cảm thấy choáng váng. Một mình quýnh quáng chẳng biết phải làm gì trước và làm gì sau? Tôi phải mất gần 5 phút mới lắng đọng, bình tâm, và suy nghĩ xem mình phải làm gì? Trong khi tôi làm việc vệ sinh sạch sẽ cho bà cụ thì tâm trí tôi cũng đang nói chuyện khôi hài với Chúa. Lậy Chúa con, Lậy Chúa con! Sáng nay Ngài dùng chi mà lại đến nông nỗi như thế này!? Nầy nhé con lo cho Ngài sạch sẽ và thơm tho rồi đấy nhé! Con hy vọng lâu lâu mới gặp một bữa như thế này thôi Chúa Giêsu nhé! và tôi nhìn bà cụ như nhìn thấy Chúa và bảo bà rằng: " Xong rồi đó! Thơm tho rồi thì bà nhìn tôi trong ánh mắt không còn tinh anh và dễ thương như một trẻ thơ, lấy tay vỗ vào trán và trả lời với tôi rằng: "Không nhớ gì hết, không nhớ gì hết".
Kinh nghiệm cho tôi thấy chẳng phải miệng cứ đọc kinh và bảo là con yêu mến Chúa mà được vào Nước Thiên Đàng đâu! Đấy là chắc mới có yêu Chúa được có một phần tư, vì yêu mến Chúa qua kinh kệ thì quá dễ rồi! Bởi làm một KiTô hữu từ khi mới sanh ra được rửa tội cho đến bây giờ thì nhất định ai cũng trong mình bắt buộc phải thuộc làu một mớ kinh. Nhưng yêu Chúa qua tha nhân quả thật mới là điều rất khó làm mà nhất là làm những công việc phi thường như Mẹ Thánh Têrêsa đã làm. Ngài không từ chối bất cứ một ai. Ngài phải có một trái tim yêu Chúa rất mạnh mẽ cộng Ơn Chúa xuống trên Ngài nên Ngài mới thật sự thấy Chúa Giêsu trong anh chị em. Còn tôi, một trái tim yêu Chúa chưa được chững chạc, còn rất non nớt, nên tôi chưa có cái hân hạnh thấy Chúa trong anh chị em của mình tuy dù tôi có rất cố gắng. Hy vọng Tình yêu của Chúa dần dần sẽ thêm và lớn mạnh trong tôi để tôi cũng tập đi trong Chúa từng bước một, từng ngày, và từng người một.
Quả thật quả thật khi nhìn vào cuộc đời của các Thánh không ai có thể chê trách các Ngài được. Các Ngài có một trái tim thật lớn và thật vĩ đại mà các Ngài đã dâng hiến cho Chúa và Chúa đã luôn yêu thương ban cho các Ngài Sức Mạnh, Tình Yêu, và Bình An để các Ngài làm được những việc phi thường để đem đến bao An Ủi cho những anh chị em sống lạc loài khắp mọi nơi trên toàn thế giới.
"Thầy ban Bình An của Thầy cho các con".
Quả thật nếu thế giới này hiểu được Bình An của Chúa Giêsu có tác dụng như thế nào trong cuộc đời của chúng ta, tôi thiết nghĩ không nơi nào có thể xẩy ra chiến tranh được. Tôi cũng ước gì toàn thể nhân loại anh chị em trên khắp mọi nơi biết dùng Bình An của Thầy Giêsu trong mọi sự, mọi suy nghĩ, mọi xét đoán, về anh chị em của mình thì thế giới này sẽ trở nên Thiên Đàng nơi Dương Thế ngay.
Quả thật có phải Quà quý nhất của Thầy Giêsu trao tặng cho các Tông Đồ mỗi lần Thầy đến để gặp gỡ và Lời Chào của Thầy bao giờ cũng là: "Bình An cho các con". Nếu không quý sao Thầy không đem quà đắt tiền lại tặng cho các Ngài mà lại chỉ là một câu vỏn vẹn và gọn lỏn có thế!? Thật vậy! Chỉ có một Lời Chào đơn sơ ấy của Thầy Giêsu mà tất cả các Tông Đồ cảm thấy ấm áp, vui mừng, và hớn hở. Có phải Thầy là Bình An? Hay khi ta có Bình An là ta có Thầy? Bình An của Thầy thật vô giá. Không có một Kho Tàng nào trên trần gian này có thể so sánh được Bình An của Thầy Giêsu đâu các bạn ạ! Kho tàng trần thế muốn có được thì bao giờ cũng mang đến cho anh chị em nước mắt, đau khổ, tang thương, mất mát, bất an, chia lìa, chia rẽ, hận thù, và giết nhau để tước đoạt? Còn Bình An của Thầy là khi ta nhận Thầy và mời Thầy vào cư ngụ trong nhà tâm hồn của chúng ta. Có Thầy, Bình An của Thầy là ta có tất cả! Có Thầy thì chúng ta cảm thấy chẳng gì quý giá hơn là có Bình An của Thầy. Bình An của Thầy là Bảo Hiểm cuộc đời của chúng ta bây giờ và mãi mãi đến tận cùng của đời sau.
Bạn thử suy nghĩ mà xem, có thứ bảo hiểm nào nơi trần thế này mà cho bạn sự Bình An đích thực hay không? Bảo Hiểm trần gian bạn phải tốn tiền mà vẫn phải luôn lo lắng và đôi khi còn phải bị tiền mất mà tật mang như có nhiều hãng bảo hiểm đã dụ dỗ người ta mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm nhà cửa, đồ hiếm quý, và v.v. .. nhưng không có một hãng bảo hiểm nào dám đảm bảo sự an toàn tánh mạng cho một ai cả! Nếu có lỡ xẩy ra tai nạn xe cộ, bạn bị cụt chân thì bạn cũng vẫn cụt chân. Nếu bạn có lỡ chết thì bảo hiểm cũng chẳng bồi thường cho bạn sống lại được đâu!.
Thật vậy cuộc đời tạm bợ trên trần gian này rồi thì tất cả cũng sẽ qua đi! Sống nghèo như các Thánh mà tôi lại thấy các Ngài sung sướng vì được đi thật sát vào cuộc đời bất hạnh của Chúa. Nghèo nhưng được sống chung, gần, và bên Chúa trong anh chị em. Chia sẻ vui, buồn, đắng đót. Cười ra nước mắt vì người cho có được hạnh phúc của người cho. Người nhận được hạnh phúc của người nhận. Nước mắt và tiếng cười chan hòa con tim. Cuộc đời không gì quý và hạnh phúc bằng tình yêu nhân loại luôn cho đi và không cần được nhận lại. À tôi quên, có nhận lại chứ! là nụ cười và ánh mắt thông cảm hiểu nhau thay cho lời cảm ơn.
"Bình An cho các con". Lậy Chúa! Ước gì toàn thể nhân loại chúng con biết quý trọng Bình An của Chúa ban cho nhưng không, nhưng lại là Kho Tàng Vô Giá cho những ai đang cảm nhận và đang có. Có tiền, có danh vọng, và có cả và thế gian mà không có Bình An của Chúa thì cuộc đời quả trống vắng và bất an. Xin Bình An của Chúa luôn là Hạnh Phúc trong tình Hiệp Nhất, Ôn Hòa, Bao Dung, Kiên Nhẫn, Nhịn Nhục, và Yêu Thương như Chúa luôn Yêu Thương chúng con. Amen.
Tuyết Mai
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 11:04)
Con tìm Chúa
Con tìm Chúa, Ngài ở đâu?
Khắp phố phường rực ánh đèn màu
Con không thấy Ngài ở đó
Nơi thôn dã đồng quê
Gió thổi vi vu gọi mưa về
Con chẳng thấy Ngài ở đó
Con tìm đến Chúa trong nhà thờ
Gần nơi cung Thánh
Những ngọn nến lung linh
Con ra ngoài tượng đài Thánh giá
Nhưng tất cả vẫn lặng thinh
Hình như Ngài cũng không ở đó?
Cho đến một hôm
Con lặng bước âm thầm
Tự hỏi sao con không tìm thấy Chúa?
Rồi con nhìn thấy một em bé
Ốm yếu xơ xác thân gầy
Em bé nhìn con mỉm cười
Con chợt nghe tim mình hồi hộp
Hình như có niềm vui
Hình như có dấu tích của Ngài
Trong nụ cười
Rất hồn nhiên và thánh thiện
Trong trắng như một Thiên thần
Con cũng mỉm cười đáp lại
Ôi Chúa ở đây rồi!
Chúa ơi! Trong cuộc đời
Con tìm Chúa khắp nơi
Mà con không hề hay biết
Chúa đang ở quanh con
Bên vệ đường ông lão ngồi ăn xin
Nơi bà cụ đi nhà thờ chống gậy
Trong chiếc áo rách te tua
Của một em bé gầy gò
Cầm miếng bánh bẻ ra cho người bạn
Và ngay cả nơi ông “đại gia”
Cầm tay dẫn qua đường một cụ già
Ở giữa ngã tư đầy xe cộ!
Chúa ơi! Con biết ra rồi
Chúa ở khắp mọi nơi
Nhưng nếu con đi tìm Chúa bằng con mắt
Con sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy
Con phải tìm Chúa bằng con tim
Bằng chính tâm hồn và niềm tin
Thì con mới thấy Chúa
Ngài ở khắp mọi nơi
Trên cõi trần này!
Sa Mạc Hồng
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 18:54)
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (29)
281. Một vạn lời nói hay không lay động bằng một gương tốt nhỏ
Một vạn lời nói hay: bay đi, biến tan, mất bóng.
Một gương tốt nhỏ: ở lại, quấy động, ám ảnh, lôi cuốn, và làm cho người ta theo Chúa.
282. Không ai dấn thân vào đời cho bằng người công giáo
Người công giáo không phải là người nhát gan, chán đời, không dám sống đời sống đến cùng độ của nó.
Người công giáo không phải là người yếu hèn, muốn xa lánh đời vì sợ chạm trán với cuộc sống đầy phủ phàng.
Người công giáo không phải là người thất bại, chỉ biết khoanh tay đầu hàng trước những khó khăn của cuộc sống.
Trái lại, để làm men, làm muối, làm ánh sáng theo như lời Chúa dạy, người công giáo đủ mọi cách để dấn thân vào cuộc đời.
Và đây là một sự dấn thân
hết sức mạnh mẽ vì làm gì cũng được: “Không có Thầy, các con không làm gì được” nghĩa là: “Có Thầy, các con làm gì cũng được”,
hết sức anh hùng vì khó mấy cũng tiến: “Các con hãy bền đổ cho đến cùng”,
hết sức tin tưởng vào sự thắng trận cuối cùng: “Các con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian.”
283. Mười điều sống hạnh phúc trong gia đình
1. Hãy luôn làm cho bầu khí trong gia đình được vui vẻ bằng đời sống vui tươi của mình.
2. Hãy luôn làm cho mọi người trong gia đình được vui vẻ bằng nụ cười của mình.
3. Hãy tránh xa lời nói và cử chỉ làm cho những người trong gia đình phải đau khổ vì mình.
4. Hãy tìm dịp kể nhiều chuyện vui, chuyện hữu ích cho mọi người trong gia đình nghe.
5. Hãy luôn nghĩ đến mọi người trong gia đình.
6. Hãy lấy làm thích thú về tất cả những gì đang xảy ra trong gia đình.
7. Hãy trả lời với mọi người trong gia đình một cách nhẹ nhàng và vui vẻ.
8. Hãy sống hoà thuận với mọi người trong gia đình và không bao giờ cãi lý với ai.
9. Hãy đối xử công bằng với mọi người trong gia đình.
10. Hãy luôn cầu nguyện cho mọi người trong gia đình.
284. Siêu nhiên và tự nhiên
Siêu nhiên của Thiên Chúa không phải loại bỏ tự nhiên của con người, nhưng siêu nhiên của Thiên Chúa được xây dựng trên tự nhiên của con người.
Người nào có những đức tính nhân bản tốt đẹp của con người tự nhiên, siêu nhiên của Thiên Chúa sẽ làm cho họ trở nên trọn lành thánh thiện.
Người nào không có những đức tính nhân bản tốt đẹp của con người tự nhiên, siêu nhiên của Thiên Chúa không thể nào làm cho họ trở nên trọn lành thánh thiện được.
Nếu người công giáo nào bị chê là “thiếu nhân bản”, ơn thánh của Chúa không làm được gì trong con người của họ.
Trước khi sống đời thánh nhân, người công giáo phải sống đời đầy đủ những tư cách nhân bản của con người.
285. Mầu nhiệm thay Dân Thiên Chúa trong Ngày Chúa Nhật
Suốt cả tuần lễ xa nhau, sống rải các khắp nơi, không đồng phục, không đeo huy hiệu, người công giáo sống như chút men trong đâu bột nhân loại.
Giờ đây, trong Ngày Chúa Nhựt, Ngày của Chúa, Ngày của Dân Chúa, người công giáo được Giáo Hội mời gọi đến dự Tiệc Thiên Chúa. Họ được đoàn tụ với nhau trong niềm vui, được quây quần quanh Vị Thủ Lãnh vinh quang, vô hình, là Đức Kitô, Đấng Chủ Toạ Bàn Tiệc Thánh qua sự hiện diện hữu hình của Ngài nơi vị linh mục quản xứ của họ.
Mầu nhiệm thay Dân Thiên Chúa trong Ngày Chúa Nhật! Vì thế, người công giáo sung sướng đợi Ngày Chúa Nhật để cùng nhau đi tham dự Thánh lễ. Và người công giáo rất không bằng lòng khi thấy mình bị ngăn trở cách nào đó trong việc đi tham dự Thánh Lễ Ngày Chúa Nhựt.
286. Tôi sẽ làm gì về cuộc đời của tôi?
Cuộc đời của tôi, tôi chỉ sống được một lần trên trần gian nầy mà thôi: tôi không thể nào sống thêm được lần thứ hai nữa để rút kinh nghiệm.
Cuộc đời của tôi, chính tôi phải sống, chính tôi phải đóng vai chính: tôi không thể nào mượn ai sống thay tôi được.
Cuộc đời của tôi, hay hoặc dở, tốt hoặc xấu, thanh cao hoặc đê hèn, đều do chính tôi định đoạt: tôi không thể nào đổ lỗi cho ai được, dẫu đó là người thân nhất của tôi, như cha mẹ tôi, như con cái tôi, như vợ chồng tôi.
Như vậy, cuộc đời của tôi quá hi hữu, quá quý báu, quá quan trọng!
Tôi sẽ làm gì về cuộc đời của tôi? “Đó là câu hỏi trên hết mà mọi thanh niên phải tự đặt cho mình khi quỳ trước Cây Thánh Giá sẽ rợp bóng ngôi mộ mình” (E.Langlois)
287. Phương pháp tự nhiên để tiêu diệt sự sợ hãi, để sống cuộc đời mạnh mẽ
1. Xét mình: để biết rõ những sở trường và những sở đoản của mình (như vậy, chúng ta mới hoàn-hảo-hoá được những sở trường của mình và bổ khuyết hoặc diệt trừ được những sở đoản của mình)
2. Tránh tính ưa sống cô độc một mình
3. Tập bình tĩnh: tập nhìn cho thẳng / tập thở cho có ý thức và điều hoà / tập sống điềm đạm như ít chớp mắt, thản nhiên khi nghe tiếng động, thản nhiên khi bị người ta chọc ghẹo hoặc được người ta khen, thản nhiên khi vui cũng như lúc buồn, thản nhiên khi thấy những cái gì dễ sợ hoặc khó chịu, …
4. Tập quyết định sau khi đã suy nghĩ kỹ, và một khi đã quyết định rồi, thì bắt tay hành động ngay, chứ không nhai đi nhai lại quyết định đó trong trí của mình nữa.
5. Tập tự kỷ ám thị: năng lẩm bẩm một mình: “Tôi là người can đảm” / “Tôi là người mạnh mẽ” / “Tôi là người không chút sợ sệt”.
6. Tập sống kiên nhẫn đến cùng: cắn răng chịu đựng những đau đớn thể xác và tinh thần / thất bại keo nầy, bày lại keo khác / làm bật tung và phá tan những chướng ngại vật đang chận đứng con đường tiến của mình, chứ không cam chịu cảnh đầu hàng hoặc đi thụt lùi / tìm sống bên cạnh những ai biết chân thành khuyến khích và nâng đỡ tinh thần…
7. Tập sống vệ sinh và điều độ để luôn có đủ sức khoẻ mà làm việc.
288. Phương pháp siêu nhiên để tiêu diệt sự sợ hãi, để sống cuộc đời mạnh mẽ
1. Cầu nguyện: Người mạnh nhất, là người biết chắp tay cầu nguyện. / Cầu nguyện đánh tan nỗi sợ hải: khi cảm thấy sợ, ta cầu nguyện thì được bình tĩnh ngay. / Hai nguồn sức mạnh của chúng ta: Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
2. Tin vào Chúa: Hết lòng tin vào Chúa và không sợ gì, chỉ sợ tội và sợ những gì làm mất lòng Chúa.
3. Thành thật tín nhiệm những người đáng tin cậy mà thôi.
4. Làm mọi việc với ý ngay lành.
289. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta hãy theo Chúa với tất cả sự sáng suốt và dứt khoát
Trước khi bằng lòng về ý định của Thiên Chúa do sứ thần Gabrien truyền đạt, Đức Mẹ trình bày sự khó khăn, và cố gắng hết sức tìm hiểu để đi đến một quyết định sáng suốt và dứt khoát.
Đức Mẹ dạy chúng ta, những linh mục và tu sĩ, một bài học rất quan trọng: khi chọn con đường đi theo Chúa, chúng ta chọn một cách sáng suốt, có bản lĩnh rõ ràng, có cá tính đặc biệt, có ý chí dứt khoát, chứ không phải chọn đi theo Chúa một cách mù quáng, một cách máy móc, một cách thụ động.
Và một khi đã quyết định theo Chúa, chúng ta chấm hết, chúng ta dứt điểm, chúng ta không còn luyến tiếc gì, chúng ta không còn thèm theo ai nữa, và chúng ta không bao giờ đặt lại vấn đề.
290. Suy nghĩ tốt về người khác, là thánh rồi
Đầu óc chúng ta thường rất dễ có những tư tưởng tiêu cực về người khác. Bở dó, khi chúng ta cố gắng nuôi những tư tưởng tích cực về người khác, khi chúng ta cố gắng tìm cách nghĩ tốt về người khác, chúng ta sống theo tinh thần của Tin Mừng Chúa Giêsu dạy.
Linh mục Faber nhận xét như sau: “Nếu ai đó có thói quen suy nghĩ một cách tốt lành về người khác, và họ suy nghĩ như vậy theo những lý do siêu nhiên, thì người đó không khác xa người thánh”.
LM Nguyễn Vinh Gioang
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 17:54)
5. Giá trị thời gian trong chốc lát tựa hồ bằng giá trị của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta mỗi giờ mỗi khắc có thể chiếm hữu Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, và cũng có thể tăng gia số lượng ân sủng của Ngài.
(Thánh Bernardino)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 17:52)
TRỞ THÀNH NGƯỜI MỤC TỬChúa Giê-su không phải là bác sĩ để trị bệnh cho chúng ta, rồi sau đó thì rời bỏ chúng ta. Người chữa bệnh này phải là một vị mục tử, một vị mục tử nhân lành dạy chúng ta phải đi như thế nào trên con đường chân lý, giống như người chữa bệnh kêu mời chúng ta đi chữa bệnh, người mục tử cũng kêu mời chúng ta đi làm người mục tử.
Từ một phương diện nào đó mà nói, thì mỗi người chúng ta đều là những mục tử: làm bố mẹ là làm mục tử của con cái, làm thầy cô giáo là làm mục tử của học sinh, linh mục là mục tử của giáo dân trong giáo xứ của ngài; một người bạn cũng có thể trở thành người mục tử của bạn mình, bởi vì họ có thể chỉ vẻ cho nhau. Tất cả mọi người chúng ta -từ một phương diện nào nó mà nói- đều nhận được sự kêu gọi làm người mục tử, bởi vì chúng ta đều có trách nhiệm đối với nhau.
Nghiên cứu về Chúa Giê-su là một mục tử như thế nào, thì chúng ta sẽ tìm được câu trả lời là mình nên làm mục tử như thế, đó là điều quan trọng. Thế gian này hổn loạn như thế nào, nguyên nhân chính là vì thế gian quá ít người mục tử hết sức dấn thân vào trong đàn chiên và vì đàn chiên, ít người hết lòng dấn thân vào làm mục tử của mọi người. Chức vụ mục tử là dù bất luận có phát sinh ra chuyện gì, thì cũng kiên quyết lấy thân mình trao cho người khác: nếu họ bị thương thì tôi cũng bị thương.
Chúng ta nên hiểu rõ sâu sắc ý nghĩa của chức vụ mục tử, hiểu rõ dấn thân trong chức vụ mục tử thì bao hàm những gì, khai thác nơi mỗi người chúng ta thì bất luận là tuổi tác như thế nào, có chức vụ gì trong xã hội, thì trách nhiệm chúng ta cần phải gánh vác là như thế nào !
Tác giả: Ôn Lập Quang
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. dịch từ tiếng Hoa.
------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
[email protected] [email protected]
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 17:51)
CON KIẾN BÁO ƠNMột ngày giữa mùa hè, khí trời oi bức, một con kiến đi ra tìm kiếm thức ăn, nhưng trời quá nóng nên nó cảm thấy miệng khô lưỡi rát, cho nên muốn tìm nước uống trước, thế là nó đi đến bên hồ nước.
Con kiến cẩn thận từng li từng tí đứng bên bờ hồ, nhưng mới vừa đem thân đi qua thăm dò thử, cúi đầu xuống trong nước thì bị nước cuốn trôi rất xa. Làm sao đây, nó lớn tiếng kêu:
“Cứu tôi với, cứu tôi với !” nhưng âm thanh của nó rất nhỏ khó mà nghe được.
Lúc ấy, một con chim cu đậu trên cành cây rậm rạp núp nắng, đột nhiên nhìn thấy con kiến trong nước, bèn vội vàng hái một ngọn lá quăng xuống trong nước cho nó. Con kiến phấn đấu dùng sức bơi, cuối cùng cũng thuận thế chạm phải ngọn lá, bình an trôi theo dọc bờ hồ.
- “Cám ơn chim cu đã cứu mạng”, con kiến suốt đời ghi nhớ công ơn cứu mạng của chim cu, nên luôn tìm cách để báo ân chim cu, nhưng sức lực của nó rất nhỏ, có thể giúp được gì cho chim cu chứ ?
Một hôm, trong rừng sâu có một thợ bắt chim đến, thợ bắt chim giương cung lẫy nỏ muốn bắn chim cu. Con kiến vừa nhìn thấy thì biết ngay ý đồ của ông thợ bắt chim, nó vội vàng triệu tập tất cả các anh em nhà kiến lại, cùng nhau bò lên chân của người bắt chim, dùng hết sức lực cắn chân của ông ta. Ông thợ bẫy chim vừa ngứa vừa đau nên la lên “ái dà, ái dà”, và không thể không ngừng lại để xoa chỗ ngứa, thế là chim cu nhân cơ hội ấy bay đi.
Người bẫy chim đi rồi, chim cu bay lại bày tỏ sự cám ơn đối với con kiến, con kiến nói rất thành thật:
“Cám ơn bạn đã cứu mạng sống tôi, bây giờ tôi có cơ hội giúp bạn thoát cảnh hiểm nghèo thì cảm thấy rất vui vẻ trong lòng.”(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Vui vẻ giúp đỡ người khác và biết đền đáp ơn người là một đức hạnh rất đẹp, chân thành và lương thiện, vì người khác mà giải quyết công việc sẽ làm cho chúng ta thu những lợi ích không ít.
Giúp đỡ người khác là giúp đỡ Thiên Chúa.
Giúp đỡ người khác là thước đo lòng bác ái.
Giúp đỡ người khác là thực hành Lời Chúa dạy.
Giúp đỡ người khác là bổn phận vinh quang của người Ki-tô hữu.
Nhưng, có một điều cũng quan trọng như giúp đỡ người khác, đó chính là phải có tấm lòng biết ơn và trả ơn khi người khác giúp đỡ mình:
- Biết ơn cha mẹ đã nuôi dạy mình nên người, và trả ơn các ngài là khi mình còn nhỏ phải biết vâng lời cha mẹ, và khi lớn lên thành người phải chăm sóc cha mẹ.
- Biết ơn thầy cô giáo đã trao kiến thức cho mình, và trả ơn các thầy cô là chăm chỉ học hành, và khi thành tài biết dùng cái học của mình để giúp ích cho xã hội và Giáo Hội.
Không có gì tồi tệ cho bằng làm người dửng dưng trước nỗi bất hạnh của người khác, và càng tồi tệ khi trở thành người vô ơn trước những việc mà người khác đã giúp đỡ cho mình.
Các em nhớ lấy điều ấy nhé !
Các em thực hành:- Luôn biết nói cám ơn khi người khác giúp mình.
- Để ý và tìm cách này hay cách khác để trả ơn cho người đã giúp đỡ mình.
- Vâng lời cha mẹ để làm đứa con ngoan, siêng năng chăm chú nghe lời thầy cô giảng bài, là một trong nhiều cách trả ơn cho cha mẹ và thầy cô đó.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 15:38)
Sơn Ca Linh
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 15:32)
Chúa Nhật VI Phục Sinh (A.2008): Câu trả lời hay nhất
Dẫn nhập đầu thánh lễ: Kính thưa ông bà và anh chị em,
Có thể nói được, sứ điệp phụng vụ hôm nay tập chú vào bí tích Thêm Sức và mầu nhiệm Chúa Thánh Thần. Việc Đức Kitô long trọng hứa ban Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, đến với các tông đồ, và việc các Tông Đồ đặt tay ban Thánh Thần cho các tín hữu tân tòng Samari đã cho thấy vai trò của bí tích Thêm Sức và sự tác động của Chúa Thánh trên những ai tin nhận Đức Kitô, và trên cộng đoàn Hội Thánh. Mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, nhờ bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng được trao ban Thần Khí của Đấng Phục Sinh là chính Thánh Thần Thiên Chúa, để chúng ta tiếp nối sứ mệnh của các Tông đồ ra đi làm chứng và loan báo Chúa Kitô trên mọi nẽo đường cuộc sống.
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, đặc biệt cho những anh chị em vừa lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm Sức trong dịp Phục Sinh vừa qua được sống tích cực - phong phú ơn goi Kitô hữu, làm chứng đức tin cách mạnh mẽ và đầy thuyết phục trước mọi chất vấn của nhiều người hôm nay.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành Thánh Lễ, chúng ta hãy khiêm hạ đón nhận Nước Thánh với tâm tình thống hối chân thật.
Giảng Lời Chúa:
Gần 4 thế kỷ trước đây, trên quê hương Việt nam, đã có một một lời chứng tuyệt vời “về niềm hy vọng của người Kitô hữu”: Chàng giáo lý viên trẻ tuổi Anrê Phú Yên, vào buổi chiều ngày 26.07.1644, trên con đường từ Dinh Chiêm đến Gò Xử ở Quảng Nam để chịu tử hình, miệng không ngớt động viên mọi người “lấy tình yêu đáp trả tình yêu, đem mạng sống báo đền mạng sống”, hân hoan đi chịu chết như người chiến thắng đi lãnh phần thưởng vinh quang !
Để diển tả lời chứng đặc biệt nầy, cha Cosma Hoàng Văn Đạt, dong Tên, đã có những nhận xét:
“Tôi nhớ đến anh, một người trẻ vui khi bị bắt, vui khi bị hành hình. Anh không phải là một triết gia lạnh lùng trước sự sống và cái chết. Anh có một niềm hy vọng. Khi theo đạo, anh bước theo Đức Giêsu. Khi nhập Hội Thầy Giảng, anh muốn trở thành cộng sự viên của Chúa. Khi tử đạo, anh hân hoan thấy mình nên giống Chúa trên thánh giá. Đức Kitô đã phục sinh: đó là hy vọng duy nhất của anh. Anh vui vì tìm được niềm hy vọng. Anh vui hơn vì dấn thân với niềm hy vọng. Anh vui nhất khi đạt được niềm hy vọng. Anh trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Những lời cuối cùng từ miệng anh, từ lòng anh, là Chúa Giêsu. Tôi hiểu hết. Đó là trái tim của anh.
Nhìn mọi sự nhạt nhòa đi, tôi thấy anh nổi bật, ít là trong lòng tôi, giữa những người trẻ đã bước theo Đức Giêsu đến cùng: Tôma Thiện, Anrê Trông, Giuse Tuân... Và cả những Luy Gonzaga, những Têrêsa Hài Đồng nữa.”
Phải chăng đó là câu trả lời “chính xác và đầy thuyết phục” cho những ai muốn chất vấn về niềm hy vọng của người Kitô hữu. Chính qua cái chết anh hùng đó, qua thái độ thanh thản vui tươi đón nhận cực hình vì niềm tin vào cuộc phục sinh trong cõi vĩnh hằng đó, Anrê Phú Yên và bao nhiêu chứng nhân anh hùng tử đạo đã thay mặt cho Hội Thánh muôn nơi muôn thuở, thay mặt cho muôn thế hệ Kitô hữu trả lời cho con người hôm qua, hôm nay về niềm hy vọng của mình, về cùng đích và ý nghĩa cuối cùng của sự lựa chọn Đức Kitô và Tin Mừng do Ngài mang tới.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay đang mời gọi chúng ta tiếp nối những lời chứng như thế qua chính lời nhắn gởi của Thánh Phêrô trong BĐ 2: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em”.
Nhưng để có được “lời chứng như thế” trước những chất vấn đầy tính bách hại của thế gian, chúng ta cần những yếu tố nầy:
a/. Tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy:
Trước khi rời khỏi thế gian nay để về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu nói với các môn đệ:"Lòng anh em đừng xao xuyến...".
Trích đoạn Tin Mừng ngày hôm nay trình bày bối cảnh ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu và các tông đồ. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phản bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng trong bóng đêm vừa đổ xuống (Gioan 13,21-30)..; rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Gioan 13,31-36)... Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần” trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Gioan 13,37-38). Qua đó, Tin mừng cho chúng ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang vây bọc tâm hồn và tư tưởng các môn đệ.
Trong đời sống của chúng ta cũng thế có những giờ phút sự sợ hãi xuyến xao ập xuống trên chúng ta: một tương lai bấp bênh, một tai nạn không thể vượt qua, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh nan y không thể chữa khỏi… Và còn có những sợ hãi mang tính tập thể: nạn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, ô nhiễm môi trường, chết đói, thất nghiệp, những nguy cơ của vũ khí giết người hàng loạt, những căn bệnh thế kỷ: Siđa, Sars, cúm gia cầm... Đứng trước những thách đố nầy, cả những Kitô hữu trưởng thành và “dạn dày sương gió “nhất cũng lắm lúc phải “xuyến xao”. (Trong những ngày cuối tháng 4 nầy, khi nhìn lại những kỷ niệm về cuộc chiến của 33 năm trước, chắc chắn có rất nhiều người trong chúng ta đã có cái kinh nghiệm thất vọng não nề, chán chường tê tái đó khi chế độ VNCH sụp đổ !).
Chính trong bối cảnh đen tối và thê lương đó, ánh sáng hy vọng của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Bởi vì, ngay trước “ngưỡng cửa thập giá, Đức Kitô đa long trọng củng cố niềm tin của các môn sinh: "Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của người quay tầm nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin – Tin vào Thiên Chúa. Sự bình an sâu xa của Đức Giêsu vượt qua mọi nỗi sợ hãi. Niềm tin đó không dựa trên sức người, nhưng dựa trên chính sự hiện diện và quyền năng yêu thương của Thiên Chúa: "Hãy tin vào THIÊN CHÚA” được biểu lộ cụ thể qua Con Một Ngài, Đấng đã đến, đã sống, đã chết và sống lại: “Hãy tin vào THẦY...".
Năm 1787, để lập hiến pháp đầu tiên cho Hợp Chủng Quốc, là nước Mỹ bây giờ, các đại biểu họp nhau lại để bàn luận. Trong dịp nầy, đại biểu Franklin đứng lên nói một câu rất cảm động:
- “Thưa các bạn, chúng ta hãy nguyện kinh trước đã. Sống lâu năm, và càng sống thêm, tôi càng nhận rõ điều nầy là: có Thiên Chúa điều khiển mọi sự. Nếu một con chim sẻ không rớt xuống đất khi Thiên Chúa không cho phép, thì một quốc gia được thành lập thế nào được khi không có Ngài nâng đỡ?”
“Tin vào Thiên Chúa – Tin vào Đức Kitô”: phải chăng đó cũng chính là chủ đề trọng tâm mà Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã chọn cho cuộc tông du mục vụ thành công vang dội tại Mỹ vừa qua: “Đức Kitô niềm hy vọng của chúng ta”. Trong suốt 6 ngày, tại nhiều nơi của hai thành phố lớn W.DC và New York, với nhiều cuộc gặp gỡ, cử hành phụng vụ hay tiếp xúc, chia sẻ hay đọc diễn từ...Đức Thánh Cha đã chinh phục hàng triệu con tim của nước Mỹ không phải bằng cái dáng vẽ ồn ào náo động của các ca sĩ nhạc Rock, cũng không phải bằng cơ bắp của các võ sĩ quyền anh nhà nghề hay bằng đôi chân điêu luyện của các siêu sao bóng đá...mà đơn giản, Ngài hiện diện và làm chứng về Thiên Chúa, về Tin Mừng Đức Kitô phục sinh chẳng khác nào Phêrô ngày xưa đã làm chứng tại Giêrusalem như lời nhận xét thâm thúy của Linh mục Thomas Rosica, CSB/ Zenit News Agency:
Phêrô tuần trước đã ở Mỹ, nơi Sân cỏ phía nam tòa Bạch ốc, nơi trường Đại học Công giáo Hoa kỳ. Nụ cuời rộng mở và khuôn mặt thanh thản rõ rệt của Phêrô, đã thắp sáng một quốc gia, một giáo hội và một đại lục bằng niềm hy vọng giữa không gian hoài nghi và tuyệt vọng, giữa khi nhiều người có lẽ mong muốn cái chết đến mau cho một giáo hội còn đang sống động và trẻ trung.
Những lời Phêrô nói với đại diện của hơn 190 nước thành viên LHQ về nhân quyền, phẩm giá, đối thoại và hòa bình trong một thế giới đang có chiến tranh ở nhiều nơi. Sự im lặng, lời nguyện cầu và các cử chỉ hùng hồn tại Ground Zero của Phêrô đã mang lại ủi an và an bình cho các nạn nhân những cuộc tấn công khủng bố vào cả một quốc gia hôm 11 tháng 9 năm 2001.
Nhưng để có thể có được niềm tin như thế, để có thể bình thản và lạc quan như thế, để có được những hạt mầm hy vọng vươn lên trên những mảnh đất đời như thế, chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: "Thầy không để anh em mồ côi đâu... Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”.
b/. Chúa Thánh Thần Đấng Bảo Trợ chúng ta:
Kể từ sau biến cố “Ngày Thứ nhất trong tuần khi nhận được hơi thở Thần linh của Đấng Phục Sinh”, nhất là khi chính thức nhận được những “hình lưởi như lửa đổ xuống trên mình vào dịp đại lễ Ngũ Tuần”, quả thật cuộc đời của các anh dân chài xứ Galilê đã đổi thay tận căn: Không còn “ngồi im đóng cửa ở trong nhà vì sợ người Do Thái”, mà đã tung cửa ra đi khắp bốn phương trời, bất chấp mọi gian nguy thử thách, ngục hình, tù tội và cả cái chết; không còn thất vọng nản lòng quay về nương cũ vườn xưa như hai môn đệ Emmau, nhưng đã hân hoan chạy nhanh về Giêrusalem bất kể đường khuya giá lạnh để thông báo tin vui; hay không còn thối chí trở lại nghề xưa với thuyền với lưới mà đã một lần dứt bỏ ra đi để theo Thầy, nhưng can đảm “chèo thuyền ra tận chỗ nước sâu để buông lưới bắt người”...
Một khi Chúa Thánh Thần đã hành động thì mọi sự được sửa lại từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới.
-Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, giúp ta ngày càng hiểu rõ Đức Kitô và những lời dạy của Ngài hơn.
-Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ: Ngài ban sức mạnh giúp chúng ta sống, sống một cách phi thường trong cuộc đời bình thường; sống bình thản và lạc quan trong những lúc khó khăn; sống quảng đại và yêu thương đang khi vác thập giá...
-Chúa Thánh Thần còn là nguồn tình yêu. Nhờ tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn vào lòng chúng ta biến cuộc sống chúng ta luôn giữ được gam màu hồng của tin yêu, gam màu xanh của hy vọng, trong muôn vạn gam màu tối của gian truân và thử thách, của thất bại đắng cay, của vô ơn bội nghĩa, của đố kỵ bất công...Chính Đức Kitô đã biến “nổi ô nhục thập giá thành phương thế cứu rỗi con người”, và hôm nay, Thánh Thần cũng sẽ làm cho phương cách ấy của Đức Kitô được tái diễn nơi thập giá cuộc đời của các Kitô hữu, để, như chứng từ bất diệt ngày nào của Thánh Phanxicô khó khăn:
Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Và khi có được ngọn lửa Thánh Thần rực sáng trong tim, thì mỗi người Kitô hữu sẽ đủ can đảm và nghị lực, tình yêu và lòng quảng đại để:
Tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu...
Phải chăng đó chính là một trong những “câu trả lời hay nhất và chính xác nhất về niềm hy vọng của chúng ta”, nếu chúng ta bị chất vấn về niềm tin, về hy vọng của mình; mà dù không có ai chất vấn đi nữa, thì cuộc sống đức tin của người Kitô hữu phải luôn là một “thuyết minh sinh động” về Tin Mừng của Đức Kitô, về những “hoa trái của Chúa Thánh Thần”, như hàng hàng lớp những bài thuyết minh tuyệt vời trong suốt 2000 năm lịch sử của Hội Thánh từ các thế hệ đầu tiên như Phêrô, Gacôbê, Philipphê, Phaolô...cho đến những bài thuyết minh mới nhất như Đức cố GH Gioan-Phaolô II, Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn Văn Thuận, chị Chiara Lubich...Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau được đứng chung trong hàng ngũ của những người đó để viết tiếp câu trả lời về niềm hy vọng Kitô hữu, tiếp tục lời chứng sống động về tình yêu Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Amen.
LM. Giuse Trương Đình Hiền
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 10:49)
Hãy Trở Thành “Người Bảo Vệ - Paraclete” cho Tha Nhân
ROMA (Zenith.org) – Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dùng từ “Đáng Bảo Vệ” để nói với các môn đệ về Đức Chúa Thánh Thần.
Trong một số văn cảnh từ này có nghĩa là “Đấng An Ủi,” trong văn cảnh khác nó lại có nghĩa là “Đấng Bảo Vệ,” và đôi khi có cả hai nghĩa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa là Đấng An Ủi cao cả cho Dân Chúa. “Thiên Chúa Đấng An Ủi” này (Rom 15:4), đã “nhập thể” trong Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng có tên là Đấng An Ủi hay Đấng Bảo Vệ thứ nhất (x. Ga 14:15).
Đức Chúa Thánh Thần, là Đấng tiếp tục công trình của Đức Kitô và làm cho công trình chung của Thiên Chúa Ba Ngôi được hoàn thành, cho nên cũng được gọi là “Đấng An Ủi”: “Đấng An Ủi sẽ ở với các con cho đến muôn đời” như Chúa Giêsu nói.
Sau Phục Sinh, toàn thể Hội Thánh đã có một kinh nghiệm sống động và hùng hồn về Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi, Bảo Vệ, đồng minh, trong những khó khăn nội bộ cũng như từ bên ngoài, trong những cuộc bách hại, trong những thử thách, và trong đời sống thường nhật. Trong sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta đọc: “Hội Thánh lớn mạnh và sống trong sự kính sợ Chúa, được đầy an ủi (“paraclesis”) của Chúa Thánh Thần” (TĐCV 9:31).
Giờ đây chúng ta phải từ điều này đưa ra một kết luận cụ thể cho đời sống chúng ta. Chính chúng ta cũng phải trở thành Người Bảo Vệs! Nếu đúng là mỗi Kitô hữu phải trở thành một “Kitô khác”, thì người Kitô hữu ấy cũng phải trở thành một “Người Bảo Vệ” khác.
Chúa Thánh Thần không những chỉ an ủi chúng ta, mà Ngài còn làm cho chúng ta có thể an ủi người khác khi đến lượt chúng ta. Niềm an ủi thật đến từ Thiên Chúa là “Cha của mọi an ủi.” An ủi này đến với những người đau khổ, nhưng không ngừng lại ở họ; cùng đích của an ủi này được đạt đến khi những người đã cảm nghiệm được nó cũng ra đi an ủi người khác bằng cùng một niềm an ủi mà Thiên Chúa đã dùng để an ủi họ.
Họ không được tự mãn vì chỉ dùng lời nói xuông mà an ủi người khác (“Can đảm lên, đừng lo sợ -- rồi bạn sẽ thấy mọi sự trở lại bình thường!”), nhưng phải mang đến cho họ niềm an ủi thật sự “niềm an ủi đến từ Thánh Kinh” là niềm an ủi “nuôi sống niềm hy vọng của họ” (x. Rom 15:4). Đó là cách chúng ta giải thích những phép lạ mà một lời nói hay một cử chỉ đơn thành đem lại, tạo ra một bầu khí cầu nguyện, bên giường một người bệnh. Đó chính là Thiên Chúa an ủi người ấy qua bạn.
Theo một nghĩa nào đó, Chúa Thánh Thần cần chúng ta để trở thành Người Bảo Vệ. Ngài muốn an ủi, bảo vệ, khuyên bảo; nhưng Ngài không có miệng, tay và mắt để cho sự an ủi của Ngài “một thân xác.” Nói đúng hơn, Ngài có tay, có mắt và miệng chúng ta.
Nếu theo sát nghĩa văn tự của điều Thánh Phaolô bảo tín hữu thành Thessalônica – “anh em hãy an ủi nhau” (1 Thes 5:11) – thì chúng ta phải hiểu rằng Ngài nói: “Anh em hãy trở nên Người Bảo Vệs cho nhau. Nếu chúng ta muốn ích kỷ khư khư giữ lại cho mình niềm an ủi mà chúng ta nhận được từ Chúa Thánh Thần mà không chuyền cho người khác, thì niềm an ủi này sẽ tan biến đi.” Đó là lý do tại sao một kinh nguyện tuyệt mỹ được gán cho Thánh Phanxicô, viết rằng: “Xin cho con tìm an ủi người hơn được người ủi an; tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.”
Dựa theo những gì tôi vừa nói, thật không khó gì để thấy ai là Người Bảo Vệs chung quanh chúng ta hôm nay. Họ là những người đang chăm sóc cho những người đau nặng, cho những người bị bệnh AIDS. Họ là những người tìm cách làm giảm bớt sự cô đơn của người già, những người thiện nguyện bỏ giờ ra thăm viếng các nhà thương. Họ là những người đang tận tâm phục vụ các trẻ em nạn nhân đủ loại lạm dụng, cả trong lẫn ngoài gia đình các em.
Chúng ta hãy kết luận bài suy niệm này bằng những câu đầu tiên của Ca Tiếp Liên Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, kêu cầu Chúa Thánh Thần như “Đấng An Ủi Tuyệt Vời”:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến,
và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra!
Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến;
Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!
Lạy Đấng an ủi tuyệt vời,
là khách trọ hiền lương của tâm hồn,
là Đấng uỷ lạo dịu dàng.
Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,
là niềm an ủi trong lúc lệ rơi.
Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh của Cha Raniero Cantalamessa, OFM Cap, chuyển ngữ: Phaolô Phạm Xuân Khôi
lm Raniero Cantalamessa, OFM
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 09:15)
THUỘC TRỌN VỀ ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ NHƯ HIỀN THÊ
Để tiến bước trên con đường tình yêu cần phải có ước nguyện duy nhất là đi theo vết chân và phụng sự Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Tình Quân tuyệt hảo, không ai sánh bằng! Kẻ nào tận hiến toàn thân cho THIÊN CHÚA sẽ được Ngài đổ tràn Tình Yêu thần linh. Thử hỏi có thiện hảo nào sánh ví bằng thiện hảo được chính Tình Yêu Vô Biên yêu thương? Sau đây là con đường ơn gọi hồng phúc của nữ tu Ý được thuộc trọn về Đức Chúa GIÊSU KITÔ như là Hiền Thê của Ngài.
Ngay từ thơ ấu con đã có ấn tượng mạnh về những gì thuộc về THIÊN CHÚA. Chẳng hạn con rất thích các ảnh tượng thánh, các ngôi thánh đường. Và một trong những kỷ niệm ấu thơ đẹp nhất là những lúc con đều đặn theo Ba con đến cầu nguyện trước bức tượng Đức Mẹ MARIA.
Lớn lên con may mắn đến Assisi ở miền Trung Bắc nước Ý. Nơi đây con được dịp chiêm ngắm hai ngôi thánh đường tuyệt đẹp. Đền thờ Thánh Phanxicô và đền thờ thánh nữ Chiara. Con đứng hàng giờ trước Thánh Giá thánh Phanxicô để tham dự Thánh Lễ và lần hạt Mân Côi!
Với thời gian con khám phá ra thế giới cùng với các nguyện ước và tham vọng của riêng con. Con muốn trở thành ”người có-thế-giá” và lập gia đình. Bây giờ hồi tưởng lại - dưới ánh sáng hồng ân THIÊN CHÚA - con hiểu rằng, các ước nguyện và tham vọng ấy không gì khác hơn là khát vọng yêu thương của một trái tim nhi nữ!
Trong thời gian dài, con thực hiện gần hết các ước nguyện. Mọi sự xem ra trôi chảy dễ dàng. Thế nhưng con vẫn cảm thấy thiếu thốn cái gì đó. Con như bị dằn co xâu xé giữa THIÊN CHÚA và trần gian. Con không biết mình phải đi về hướng nào!
Đang lúc phân vân lưỡng lự như thế thì một ngày vào lớp con bỗng trông thấy một nữ tu mặc áo dòng màu xanh-lam-nhẹ với khăn voan đội đầu cùng màu. Trông Chị thật nhẹ nhàng thanh thoát! Con cảm thấy ngỡ ngàng yêu thích nụ cười tươi trẻ đi kèm ngôn từ nhã nhặn và cử điệu thật trang nhã của nữ tu! Con như bị thu hút lôi cuốn ngay! Con tức khắc viết cho Chị mấy dòng ngắn bày tỏ thảm trạng nội tâm. Nữ tu trả lời ngay với lời lẽ thật khôn ngoan. Chị bảo con hãy cầu nguyện van xin THIÊN CHÚA gởi đến vị Linh Mục thánh thiện để hướng dẫn con tiến bước trên đường ngay nẻo chính. Con xin nói thêm là cuộc gặp gỡ diễn ra nơi Trường Âm Nhạc quốc gia!
Sự hiện diện của một nữ tu nơi Trường Âm Nhạc quả là ngạc nhiên bất ngờ! Nhưng là bất ngờ thật thích thú! Thế rồi từ cuộc gặp gỡ ấy, dần dần làm thay đổi mọi sự trong cuộc đời con: các phù-du thế trần, bạn hữu, nhảy nhót vui chơi, tất cả trở thành bèo-bọt chóng tan và vô ích! Rồi con lại tự đặt câu hỏi: ”Nếu Hội Thánh gặp khủng hoảng thì con phải xử sự như thế nào?” Tự hỏi rồi con tự trả lời: ”Con phải đáp trả THIÊN CHÚA bằng trọn con người con! Bởi vì, mỗi tín hữu là thành phần làm nên Hội Thánh. Và với tư cách là tín hữu nhận lãnh bí tích Rửa Tội, con phải làm cho Giáo Hội sống động bằng các công trình xây dựng Giáo Hội!”
Con khởi sự ngay công trình sống đạo bằng cách tham dự Thánh Lễ và lãnh bí tích Giải Tội, điều mà con lơ-là từ rất lâu nay.
Việc sống đạo như một cuộc giải phóng mang đến cho con không biết bao niềm vui và an bình. Con liền quyết định tham dự Thánh Lễ mỗi ngày và xưng tội mỗi tuần một lần. Nhưng con vẫn chưa cảm thấy hạnh phúc. Con nghĩ có lẽ mình phải sống tận hiến giữa đời. Nhưng ý nghĩ này vẫn không thỏa mãn ước nguyện thâm sâu nhất của lòng con.
Thế rồi một ngày, ánh sáng - Ánh Sáng thật của THIÊN CHÚA - bất ngờ xuất hiện. Sau 3 năm mò mẫm tìm kiếm và dò đường, con lại viết thư cho Nữ Tu con gặp lúc trước. Con kể lể nỗi lòng và tỏ bày cùng Chị những điều con nghĩ về THIÊN CHÚA và về thế giới này.
Con muốn làm một cái gì đặc biệt cho THIÊN CHÚA. Con muốn thuộc trọn về Ngài như. .. Hiền Thê! Vâng! Đúng thế! Như Hiền Thê! Con muốn trở thành Nữ Tu là Hiền Thê để yêu mến Đấng là Tình Yêu Bất Tận và Vĩnh Cửu! Con muốn đắm mình trong THIÊN CHÚA! Đúng như vậy! Bây giờ thì mọi sự trở thành rõ ràng sáng sủa, không còn nghi ngờ gì nữa!
Con tỏ bày mọi sự với Linh Mục thuộc cùng Hội Dòng với Nữ Tu con quen biết. Vị Linh Mục xác nhận:
- Điều con khát khao tìm kiếm không gì khác hơn là ơn gọi tu dòng của con. Và nếu muốn con có thể thực hiện ước mơ vào năm tiếp theo đó!
Ôi Chúa ơi! thật là hồng phúc! là tuyệt diệu! Con cảm thấy như cõi đời đời mở ra trước mắt. Sau cùng con chọn ngày 16-7 lễ Đức Bà Camêlô làm ngày giã từ thế gian gia nhập dòng tu.
Khi con viết những hàng chữ này thì thời gian con sống trong dòng đã trôi qua không biết bao nhiêu năm tháng. Lòng con dâng lên niềm tri ân chân thành đối với Hiền Mẫu Thiên Quốc. Bởi vì, chính Đức Mẹ MARIA - Đấng trung gian ơn thánh - đã chuyển cầu cho con được hồng ân trọng đại này. Hồng ân thuộc trọn về Đức Chúa GIÊSU KITÔ như Hiền Thê của Ngài.
... Người yêu của tôi lên tiếng bảo: ”Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào! Tiết đông giá lạnh đã qua, mùa xuân đã dứt, đã xa lắm rồi. Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã hết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào. Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào! Bồ câu của anh ơi, em ẩn trong hốc đá, trong vách núi cheo leo. Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho anh nghe tiếng, vì tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng” (Sách Diễm Ca 2,10-14).
(”Il Settimanale di Padre Pio”, Anno VII, n.14, 6 Aprile 2008, trang 22-23)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 08:59)
CÔ BÉ ”HỌC TRÒ TỐT LÀNH NHẤT NƯỚC Ý”
... Một buổi chiều mùa xuân, khí trời êm ả dễ chịu. Chuông báo hiệu giờ học chấm dứt. Mọi trẻ vội vã xếp sách vở ra về. Sân trường bỗng trở nên im lặng và hoang vắng. Trong một lớp học, còn lại một học trò với thầy giáo. Và cuộc đối thoại bắt đầu. Thầy giáo hỏi:
- José (tên cậu bé), nếu con có trong tay chiếc đũa thần, và nếu có người bảo con rằng, với chiếc đũa thần này, con có thể hóa phép làm xuất hiện tức khắc điều mà con mơ ước nhất, thì con sẽ xin gì?
Vẫn giữ tư thế điềm đạm, không cất cao giọng nói, cậu José trả lời câu hỏi của thầy giáo với một quảng đại, bộc phát từ tâm lòng ngay thẳng, kèm theo cử chỉ trao tặng và một nụ cười từ tốn, cậu bé nói:
- Con ước muốn có thật nhiều của cải, không phải cho riêng con, nhưng cho những người nghèo khổ, cho hết những ai túng thiếu, và cho những người không có mảy may một thứ gì. Phần con, con không mơ ước gì hơn, vì như vầy. .. là con đầy đủ và sung sướng lắm rồi!
Nụ cười vẫn tiếp tục, nhưng cậu bé dừng lại. . lúng túng vì không biết diễn đạt ra sao cho rõ hơn ý nghĩ mình. Nhưng thầy giáo đã hiểu.
Có biết bao cô cậu bé khác cũng có tâm tình quảng đại yêu thương tha nhân như cậu bé José này, chỉ cần được hướng dẫn và có môi trường tốt để phát triển.
Tuổi trẻ thật giàu thiện chí, giàu nghĩa cử hy sinh, giàu lòng quảng đại dâng hiến. Đó cũng là câu chuyện cô bé Vittoria Esposito - người Ý - 11 tuổi. Vittoria vừa nhận giải thưởng Học sinh quảng đại tốt lành nhất nước Ý. Giải thưởng do Ngân Quỹ Các Cha Scolopi khởi xướng trong lãnh vực học đường. Danh sách các học sinh được đề cử đến từ khắp nơi trong toàn nước Ý. Và giải thưởng niên khóa 2006-2007 rơi vào tay cô bé Vittoria Esposito.
Vittoria Esposito là cô bé thật khác thường trong một môi trường xã hội và gia đình thật đặc biệt. Nhưng chính trong khung cảnh đặc biệt khó khăn ấy nổi bật gương mặt quảng đại can đảm đến mức độ gần như anh hùng. Anh hùng trong lứa tuổi 11!
Thật thế, thân phụ cô bé phải đi làm nơi xa. Vittoria ở nhà với thân mẫu và hai em, một gái một trai. Em gái thì bị tàn tật không đi đứng bình thường và em trai còn nhỏ tuổi. Trong khi đó thân mẫu - bà Anna Maria - từ ba năm qua bị chứng ung thư phổi hoành hành cộng thêm chứng đau nhức xương cốt. Ba năm qua với 3 lần giải phẫu và không biết bao nhiêu lần phải nhập viện. Như vậy, tất cả mọi công việc trong nhà đều do một tay Vittoria cáng đáng! Trong khi đó cô bé vẫn chu toàn bài vở ở nhà trường, không mảy may thiếu sót. Ngoại trừ những lần cô bé phải nghỉ học vì thân mẫu bị mổ và Vittoria phải túc trực bên giường Mẹ.
Hiện nay Vittoria là nữ sinh năm thứ nhất trường Trung Học phổ thông Parini ở thị trấn Torre Annunziata, miền Trung Nam nước Ý. Ông Pasquale Basso - hiệu trưởng trường tiểu học - nói về cô bé:
- Vittoria thật giản dị hồn nhiên trong một khu phố có đầy dẫy tệ đoan xã hội. Đúng là cánh hoa tỏa hương thơm ngát giữa một thực tại đau thương! Nơi gia đình, cô bé làm mọi việc: từ thu xếp quét dọn nhà bếp đến phòng ngủ và chuẩn bị các bữa ăn. Cô bé còn thêm nhiệm vụ chăm sóc mẹ hiền. Rồi Vittoria đưa em gái tàn tật đến trường hoặc đùa chơi với em trai út. Nơi học đường, mọi chuyện trôi chảy. Bài vở làm chu đáo. Cô bé đọc và viết thông thạo ý ngữ cũng như xuất sắc về môn toán và có một phán đoán rất lành mạnh.
Bà giáo Giovanna De Falco nói về Vittoria:
- Ngôi trường của chúng tôi nằm trong một khung cảnh rất đặc biệt, nơi mà các đứa trẻ lớn lên cách vội vã và đôi khi phải đương đầu với những vấn đề thật lớn lao so với số tuổi nhỏ nhoi của chúng. Thế nhưng chính môi trường khó khăn này làm nổi bật nét huy-hoàng của vài thiếu niên với nhân cách thật trang-trọng, sẵn sàng đối phó với cuộc đời và thực hiện những mộng ước cho tương lai. Và Vittoria thuộc vào số các thiếu niên hiếm hoi này! Cô bé sớm trải qua mọi kinh nghiệm đau thương đối với một đứa trẻ 11 tuổi. 11 tuổi nhưng Vittoria đã cáng đáng mọi việc như một người trưởng thành.
Trong lời bình luận dành cho việc đề cử Vittoria Esposito nhận giải thưởng học sinh quảng đại tốt lành nhất nước Ý quý thầy cô viết:
- Vittoria cũng như tất cả chúng tôi đang cầu mong cho thân mẫu sớm bình phục. Trong khi chờ đợi, Vittoria can đảm phấn đấu. Chúng tôi ngạc nhiên nhận ra cô bé đã là một thiếu nữ. Khi chăm chú nhìn cô bé, không bao giờ chúng tôi trông thấy đôi mắt cô bé đẫm lệ nhưng chỉ thấy lóng lánh tình thương và tràn đầy lòng quảng đại, sự tận tâm dành cho cuộc sống. Tất cả chúng tôi cùng sát cánh bên cô bé!
... ”Ai tìm hiểu Lề Luật sẽ thấm nhuần Lề Luật. Ai kính sợ THIÊN CHÚA sẽ nhận ra lẽ phải; việc tốt họ làm sẽ sẽ rực rỡ như ánh quang. Đừng hành động mà không suy nghĩ, để không phải hối hận về việc mình làm. Đường gồ ghề, con chớ đặt chân, kẻo vấp phải đá. Đường bằng phẳng, con đừng ỷ y. Ai kính sợ THIÊN CHÚA sẽ không gặp tai ương, có bị thử thách, họ cũng thoát khỏi. Phải nói gì, hãy chuẩn bị sẵn, như thế, con sẽ được lắng nghe. Hãy tổng hợp kiến thức của con trước khi ứng đáp” (Sách Huấn Ca 32,15..33,1-4).
(”Voce di Padre Pio”, Mensile dei Frati Cappuccini della Provincia Religiosa ”Sant'Angelo e Padre Pio”, Anno XXXIX, n.2, Febbraio 2008, trang 48-51)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 08:57)
Ở lại trong Tình Yêu
Tình yêu, một đề tài rất xưa và cũng là một đề tài rất mới. Rất xưa bởi vì, từ khi có con người đã có tình yêu, rất mới cũng bởi vì tình yêu vẫn là sự sống động trong thế giới hôm nay. Rất mới và rất cũ nhưng chẳng thể nào có thể hiểu nổi được tình yêu, tình yêu có muôn mặt của thủy chung và những bội phản, sự thực và lừa dối, tinh khiết và hoen úa, ngọt lịm và cay đắng. Tình yêu là một chủ đề hao tốn giấy mực và cũng hao gầy nhiều thân phận.
“Ở lại trong Tình Yêu của Thầy” Ga 14 là một chủ đề quan trọng và cũng tìm thấy trong di chúc của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Chúng ta chỉ thực sự yêu thương khi ở lại trong Tình Yêu của Thiên Chúa.
Tình Yêu tiếng nói của Chúa Thánh Thần:
Tình yêu bao giờ cũng có những thể hiện bằng hành động: Hành động đầu tiên và trước tiên đó là sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa là sự khai mở, đó là bản chất của Tình Yêu. Sáng tạo là sự khai mở của Thiên Chúa để đưa các loài được tạo thành được tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa. Các loài thụ tạo của Thiên Chúa được chia sẻ vinh quang của Người. Tình yêu đúng nghĩa bao giờ cũng là tình yêu mang đến hạnh phúc cho người mình yêu. Hạnh phúc không chỉ là một lời hứa mà còn là một con đường. Thiên Chúa đã đề nghị một con đường, con đường ấy là “Thực thi ý muốn của Thiên Chúa”; qua con đường giới răn thực thi ý muốn của Thiên Chúa mở ra con đường đối thoại tình yêu. Tình yêu làm nên những cái mới, chính là tác động của Chúa Thánh Thần, “Thần Khí ban sự sống” là gió là hơi thở của sự sống. Là gió là hơi thở “Chúa hà hơi, súc vật được sáng tạo và Ngài đổi mới mặt địa cầu” (Tv 104, 30). Hơi hở thần linh làm cho mùa màng được dồi dào thuận lợi, thời tiết thuận hòa, con người được vui sống. Ở lại trong Tình yêu nghĩa là ở lại trong sự sống Thánh Thần ban tặng, sống dồi dào nhờ hít thở trong bầu khí Thần Linh.
Thần Khí mới – Trái Tim mới:
Trái tim gợi lên đời sống tình cảm, người Do Thái quan niệm trái tim như tất cả những gì thuộc về nội tâm của con người. Đông Phương gọi đó là cái Tâm, Tâm vừa đóng vai trò chính của con người vừa là nơi xuất phát mọi hành vi của con người cũng như là nơi thụ nhận tất cả những gì thế giới giác quan mang lại. Tâm còn là nơi xuất phát niềm vui và hy vọng, dự định và kết quả một hành trình. Ở lại trong Tình Yêu, một lời mời gọi mang lấy và sống trong trái tim của Thiên Chúa. Châm ngôn nhắc tới: “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh.” (Cn 4, 27). Trái tim còn là sự hiểu biết khôn ngoan: “Người ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ” (Hc 17, 6). Trong Thánh Thần chúng ta được sống và sự sống được hướng dẫn bằng Thần trí khôn ngoan, thông minh, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, dũng cảm và kính sợ. Ở lại trong Thầy mang một ý nghĩa đặc biệt trong vương quốc Thiên Chúa, những ân huệ của Chúa Thánh Thần làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hạnh phúc và thánh thiện.
Trái tim chai đá. Con người thích theo lối sống của mình, ưa thich tìm những lạc thú làm cho mỗi ngày trái tim trở nên chai cứng hơn. Trong đời sống của dân Thiên Chúa chọn cũng xảy ra tình trạng tráo trở này để ru ngủ mình trong tội lỗi bằng những phụng tự bên ngoài (Am 5, 21) với những lời lẽ sáo rỗng (Tv 78, 36) và bị lên án “dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn tâm hồn thì xa Ta” (Is 29, 13). Con người quyến luyến trong tội lỗi, bởi chẳng cần nỗ lực để sống thánh, chẳng cần thanh lọc để trở nên tinh trong, mặc dù vẫn biệt hậu quả của tội lỗi là đau khổ là sự chết, nhưng thà rằng như thế còn hơn là liên lạc với Thiên Chúa nghĩa là “liều bỏ tấm lòng mình” (Gier 30, 21). Trái tim xơ cứng chai đá của con người đã đến lúc cần phải đập vỡ nó ra, nhưng ý muốn ấy chỉ có thể đến từ phía con người, khi con người nhận ra mình không còn đủ sức chấp nhận đau khổ, bất hạnh và sự chết.
Cần có một quả tim mới: Khao khát này xuất phát từ nơi thẳm sâu đau khổ của tội lỗi gây nên, nếu không muốn trở thành con người cam chịu số phận. Con người đọc qua lịch sử của dân Israel và lịch sử đời mình hiểu rằng tôn giáo bề ngoài là một thứ tôn giáo bào mòn lòng yêu mến. Muốn thực sự thoát ra khỏi trái tim xơ cứng cần có một thay đổi quyết liệt, “tìm kiếm Thiên Chúa với tất cả tâm hồn” (Đnl 4, 29), muốn đầy đủ sức mạnh để chiến thắng sức ì của bản thân cần “Gắn chặt tấm lòng vào Giavê” (1Sm 7, 3) để thắp lên trong trái tim ngọn lửa “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức” (Đnl 6, 5).
Khao khát là vậy, lý tưởng là thế, nhưng vẫn chẳng thoát ra ngoài được con tim giả dối, tấm lòng bất trung từ nguyên thủy, chỉ còn có thể đến với Thiên Chúa “với tấm lòng tan nát rã rời” (Tv 51, 19) một tấm lòng tan nát khiêm cung để khấn xin Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần con nên chung thủy” (Tv 51, 12).
Tình yêu không bao giờ là hủy diệt, Tình yêu luôn luôn là một chữa lành, rất nhiều người không biết Thiên Chúa rất lạ lẫm khi thấy những con người Kitô giáo vượt qua được thảm trạng tội lỗi của mình, mặc dầu đã biết rằng, những người ấy trước kia là một người tội lỗi, xấu xa, đê tiện. Điều rất lạ ấy xảy ra không chỉ do trái tim tan nát rã rời của hối nhân mà còn nguyên do sức mạnh từ nơi Thiên Chúa đã thực hiện cho con người khiêm nhượng “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi và Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới, đặt vào lòng trí các ngươi một thần trì mới; cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá và ban tặng trái tim bằng thịt” (Ez 36, 25). Không có sức mạnh Thiên Chúa, thắng được chính mình chỉ là ảo tưởng và đôi khi trở nên quá khích khi diệt mất chính mình.
Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần và mời gọi ở lại trong Tình Yêu của Thầy, đó là một lời gọi đích thật để trái tim được tự do khỏi tội, để tấm lòng an vui hạnh phúc thật sự khi không còn bóng dáng tội lỗi, Chúa Giêsu chính là trái tim mới được ban cho nhân loại, và Thánh Thần là Đấng ban thần trí mới cho chúng ta.
Xin cho những bước chân đi hoang của con người chúng con vào những lúc bế tắc không nơi trọ, không nơi đón nhận, thì xin cho chúng con cũng biết khiêm cung với tấm lòng tan nát ở lại, lưu trú trong Tình Yêu của Người vì Tình Yêu của Người đón nhận, chịu đựng, hy sinh tha thứ và yêu thương tất cả.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 03:31)
Kinh Lạy Cha (7): Được Tha và Tha
Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con (Mt 6:12). Có người căn cứ vào tiếng Anh mà cho là lời cầu xin này thật thích hợp bởi sau giving (cho) mà nói tới forgiving (tha thứ) thì còn gì thích hợp hơn. Lời cầu xin trước: Xin Cha cho (to give) chúng con hôm nay lương thực hàng ngày. Còn lời cầu xin tiếp liền là: Xin tha (to forgive) nợ chúng con. Tertullian cũng cho hay: Qủa là thích hợp sau khi chiêm ngắm lòng đại lượng của Chúa, ta nhắc đến lượng khoan hồng của Người” (Về Cầu Nguyện 7). Thích hợp hơn nữa, khi càng nhớ đến sự phong phú và hào phóng của lượng từ bi Chúa bao nhiêu, ta càng xấu hổ bấy nhiêu vì nhớ lại mình thật bất xứng với lượng từ bi ấy xiết bao.
Tha Tội Hay Tha Nợ
Giống các lời cầu xin ta đã bàn qua, lời cầu xin này cũng có nhiều cách dịch khác nhau. Một số bản tiếng Anh dịch câu này như sau: Forgive us our debts, as we forgive our debtors (Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con). Nhưng trong phần lớn các bản dịch xưa và mới đây trong bản Thánh Kinh của Đức Ông Knox và trong bản chính thức dùng trong phụng vụ Công Giáo, câu ấy được dịch là forgive us our trespasses, as we forgive those who trespass against us (Xin tha các sai phạm của chúng con, như chúng con cũng tha các kẻ sai phạm đến chúng con).
Bản The Jerusalem Bible và phần lớn các bản Thánh Kinh tiếng Anh đều dịch lời kinh trong Mátthêu và lời kinh trong Luca khác nhau:
And forgive our debts, as we have forgiven those who are in debts to us (Mt 6:12)
(Xin tha nợ chúng con, như chúng con đã từng tha cho những kẻ mắc nợ chúng con)
And forgive us our sin, for we ourselves forgive each one who is in debt to us (Lc 11:4).
(Xin tha tội cho chúng con, vì chúng con cũng tha cho những ai mắc nợ chúng con)
Bản Good News Bible, Today’s English Version, của The Bible Societies, dịch câu của Mátthêu rất thoáng: forgive us the wrongs we have done, as we forgive the wrongs that others have done to us (Xin tha các sai trái chúng con đã làm như chúng con cũng tha các sai trái người khác từng làm cho chúng con). Nhưng khi dịch câu của Luca, họ vẫn phân biệt hai ý niệm tội và sai trái: forgive us our sins, for we forgive everyone who does us wrong (Xin tha tội cho chúng con, vì chúng con cũng tha những ai làm sai với chúng con).
Các bản Thánh Kinh tiếng Việt có khác, phần đông, kể cả bản của Tin Lành, đều dùng chữ tội trong cả Mátthêu lẫn Luca:
Bản Tin Lành: Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi (Mt 6:12); Xin tha tội chúng tôi, vì chúng tôi cũng tha kẻ mích lòng mình (Lc 11:4).
Bản của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ và bản của Cha An Sơn Vị na ná như nhau: Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con (Mt 6:12, Lc 11:4).
Hai bản trên bỏ hẳn chữ nợ. Bản của Cha Nguyễn Thế Thuấn dùng cả chữ tội và chữ nợ làm thành một chữ kép “tội nợ” trong Mátthêu: Xin tha tội nợ chúng tôi, như chúng tôi cũng tha khách nợ (Mt 6:12); nhưng trong Luca, Cha Thuấn chỉ dùng chữ tội một mình: Xin tha tội chúng tôi, vì chúng tôi cũng tha cho mọi khách nợ” (Lc 11:4).
Trong phụng vụ, ta biết hiện ta đọc câu này như sau: Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con (Sách Lễ Rôma, Nghi Thức Thánh Lễ, Uỷ Ban Phụng Tự trược thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2005, tr.133). Nhưng mấy năm gần đây, không hiểu do bức xúc chi, Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam đã cho thử nghiệm một lời Kinh khác hình như là thế này: Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con. Còn nhớ việc thử nghiệm này kéo dài một hai năm, sau đó, nghe tin vì các nhà soạn nhạc “chê” lời kinh mới không hợp vần hợp điệu gì đó, khiến họ không sáng tác nổi một bài hát cho ra hồn, nên các vị hữu trách Giáo Hội đã cho dẹp việc thử nghiệm trên và chúng ta lại trở lại với lời kinh quen thuộc cũ. Trong thời đại của Liturgiam authenticam (chỉ thị năm 2001 của Bộ Phụng Tự), chắc chắn lời Kinh này còn được duy trì lâu dài vì nó phù hợp với lời kinh trong Sách Lễ Rôma: et dimítte nóbis débita nostra, sicut et nos dimíttimus debitóribus nostris (Liber Usualis, Desclee & Co 1959, tr.6). Débita và debitóribus có nghĩa lần lượt là nợ và người mắc nợ.
Lời Kinh này chắc chắn đã dựa vào Phúc Âm Mátthêu hơn là Phúc Âm Luca vì trong Bản Phổ Thông, Mátthêu đọc câu này là: et dimitte nobis debita nostra sicut et nos dimisimus debitoribus nostris (Mt 6:12), trong khi Luca đọc khác: et dimitte nobis peccata nostra siquidem et ipsi dimittimus omni debenti nobis (Lc 11:4). Peccata là tội, debenti là người mắc nợ dưới dạng phân từ.
Tất cả những điều trên cho thấy lời Kinh không đơn giản như người ta vốn nghĩ. Thiển nghĩ tìm hiểu đôi điều về ý nghĩa lời Kinh trên không hẳn là việc dư thừa.
Nghĩa Tài Chánh Nghĩa Tôn Giáo
Trong bản Hy Lạp, Phúc Âm Mátthêu (6:12) sử dụng chữ opheilemata, số nhiều của opheilema. Mà opheilema là một chữ có nhiều nghĩa nhưng tất cả đều xoay quanh một ý tưởng chung, không thay đổi, chỉ điều gì đó ta mắc nợ một người nào, một điều đến lúc phải trả, một nghĩa vụ hay một trách nhiệm phải cho đi hay phải đền trả. Nói tóm lại, nó có nghĩa một món nợ, mà nghĩa hẹp nhất chỉ món nợ bằng tiền và nghĩa rộng nhất chỉ món nợ luân lý hay tôn giáo mà người ta phải hoàn trả.
Opheilema rất hiếm thấy trong ngôn ngữ Thánh Kinh. Trong Tân Ước nó chỉ xuất hiện một lần trong Thư Rôma 4:4; trong Cựu Ước, nó cũng chỉ xuất hiện một lần trong Đệ Nhị Luật 24:10. Ở cả hai chỗ ấy, nó đều có nghĩa nợ tiền. Nhưng động từ opheilein (mắc nợ) tương đương như động từ ought của tiếng Anh (phải, nên) thì xuất hiện nhiều hơn: hơn 30 lần trong Tân Ước trong đó 8 lần với nghĩa nợ tiền, và 25 lần với nghĩa nợ luân lý hay tôn giáo.
Trong tiếng Hy Lạp thế tục, ta có thể căn cứ trên một số thí dụ để hiểu nghĩa rất rộng của chữ opheilema. Trong các bản giấy sậy (papyri), nó thường được giấy tờ buôn bán dùng để chỉ các món nợ tài chánh. Thucydides dùng nó chỉ nghĩa vụ phải đáp trả lòng tốt mình nhận được (2.40). Plato dùng nó để chỉ nghĩa vụ con cái phải trả món nợ đối với cha mẹ (Luật Lệ, 717B). Aristotle dùng nó để chỉ loại nợ tài chánh mà trong moị hoàn cảnh thông thường người ta phải trả (Đạo Đức Học Nicomachean 1165a 3). Tóm lại, opheilema chỉ điều mình nợ, điều người ta bắt buộc phải cho đi hay hoàn trả, một nghĩa vụ luân lý hay tôn giáo phải thực hiện.
Lời cầu xin trong Mátthêu 6:12 vì thế có nghĩa là xin tha thứ mọi sai phạm không thực hiện bổn phận, không làm cho Chúa và người ta điều ta có bổn phận phải làm cho Người và cho họ, xin tha món nợ ta nợ Chúa và nợ anh em mà ta đã thiếu sót không hoàn trả.
Trái lại, trong bản Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp, Phúc Âm Luca (11:4) sử dụng chữ hamartia, một chữ được người Hy Lạp năng dùng nhất để chỉ tội. Nhưng thực ra, xét về nguyên ủy, hamartia không phải là một hạn từ đạo đức, mà chỉ có nghĩa là mất điểm, không trúng đích khi một cây thương hay một mũi tên đi trệch mục tiêu. Theo nghĩa này, tội đúng là một thất bại không đánh đúng điểm nhắm, không thực hiện được mục tiêu thực sự của cuộc đời, một thất bại không trở nên hay không làm được điều ta có bổn phận đáng lẽ phải làm, mà ta đáng lẽ đã trở nên hay làm được. Như thế, xét cho cùng, dù dựa trên các hình ảnh khác nhau, opheilema và hamartia tựu chung không khác nghĩa bao nhiêu.
Nợ Do Thái Nợ Hy Lạp
Khi truyền cho các môn đệ đọc Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đâu có dùng tiếng Hy Lạp mà dùng tiếng A-ram. Vào thời Chúa Giêsu lúc ấy, ở Palestine, các thầy rabbis vốn cho tội đơn giản chỉ có nghĩa là không vâng lời Thiên Chúa. Đối với họ, điều thiện là vâng lời, điều xấu hay tội là không vâng lời. Điều ấy chỉ rằng nghĩa vụ trước hết của con người là vâng lời Thiên Chúa, không vâng lời Người là mắc nợ Người; và do đó, chữ thông thường nhất của họ để chỉ tội là choba’, có nghĩa là nợ. Cho nên, nếu dịch chữ opheilema trong lời cầu xin của Mátthêu 6:12 là tội thì quả không có gì sai cả vì nó quả là từ Hy Lạp tương đương của choba’ trong tiếng A-ram, mà chiểu tự có nghĩa là nợ nhưng đã được các thầy rabbis hiểu là tội.
Phúc Âm Mátthêu và Phúc Âm Luca vì thế không có gì khác biệt, cả hai đều dịch chung một chữ choba’ của A-ram. Nhưng vì Mátthêu nặng Do Thái hơn, nên đã dùng chữ nợ, còn Luca vốn nặng Hy Lạp hơn, nên đã dùng chữ tội.Tiếc rằng sắc thái văn hóa ấy đã một phần mất đi khi các bản Thánh Kinh tiếng Việt chỉ dùng một chữ tội cho cả bản văn Mátthêu lẫn bản văn Luca. Và ta rất lấy làm vui khi Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam cho đọc lại lời Kinh vẫn đọc xưa nay trong đó nét độc đáo của bản văn Mátthêu vẫn được duy trì. Việc duy trì này không hẳn nhằm phá vỡ nỗ lực hội nhập văn hóa, hay nói theo Cha Vũ Kim Chỉnh S.J. là bản vị hóa Thánh Kinh, cho bằng tôn trọng nét đặc thù của từng soạn giả Phúc Âm, cho thấy Thánh Kinh quả không phải là một cuốn sách duy nhất mà là một hợp tuyển của rất nhiều tác phẩm trải dài qua rất nhiều năm tháng, thời đại khác nhau và do đó phản ảnh rất nhiều cái nhìn độc đáo khác nhau, tuy cùng một sứ điệp như nhau về Thiên Chúa và các công trình của Người đối với con người.
Một lý do nữa của việc duy trì trên là để khuyến khích óc tò mò học hỏi của người giáo dân. Ít có ai không nhớ phản ứng dữ dội gần đây của khối nói tiếng Anh đối với việc sửa lại bản dịch Sách Lễ Rôma, cụ thể qua câu đọc trước khi rước lễ: Lord, I am not worthy to receive you, but only say the word and I shall be healed (Lạy Chúa, con không đáng rước Chúa, chỉ xin phán một lời, thì con sẽ lành mạnh). Nghe đâu nay mai, họ sẽ không còn được đọc như thế mà phải đi xát hơn lời viên sĩ quan bách quản xưa kia thưa với Chúa Giêsu, nhất là phần đầu của câu ấy: “Lord, I am not worthy to have you under my roof” (The Jerusalem Bible, Mt 8:8) với việc nhấn mạnh đến cụm từ under my roof. Bộ Phụng Tự cho hay điều ấy sẽ kích thích giáo dân chịu tìm hiểu và do đó có thái độ tích cực hơn với bản văn phụng vụ. Rất may, bản tiếng Việt của câu này đã có sẵn chữ “nhà con”: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Nên không cần phải thay đổi chi.
Nợ Mọi Người, Mọi Người Nợ
“Xin tha nợ chúng con”. Chúng con đây không phải chỉ là kẻ có tội, mà là mọi người, ai cũng phải đọc lời xin này. Điều ấy nói lên tính phổ quát của tội, hay tính “thổ địa” (indigence) của tội, nghĩa là chúng ta sống trên lãnh thổ mắc nợ, lãnh thổ của tội. Xin tha thứ tội là xưng thú tội. Tertullian từng nói: “Xin tha thứ tự nó là một xưng thú vì ai nài xin tha thứ là đã tự mình nhìn nhận tội lỗi của mình” (Về Cầu Nguyện 7).
Thánh Kinh không bao giờ sợ mà không trình diễn những con người vĩ đại tự ý thức được tội lỗi của mình. Thánh Phêrô từng thưa với Chúa Giêsu: “Hãy tránh xa khỏi con, vì con là kẻ tội lỗi” (Luca 5:8). Thánh Phaolô quả quyết: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu vớt các kẻ tội lỗi. Và tôi là kẻ tội lỗi hơn cả” (Thư 1 gửi Ti-mo-tê 1:15). Còn thánh Gioan thì cho hay: “Nếu ta bảo mình không có tội là ta tự đánh lừa mình, và trong ta không có chân lý. Còn nếu ta xưng thú tội lỗi mình, thì Người, Đấng trung tín và công chính, sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và tẩy rửa ta khỏi mọi dơ bẩn” (Thư 1 của Thánh Gioan 1:8,9). Kẻ bị kết án chính là những người như Biệt Phái luôn tự mãn tạ ơn Chúa vì mình không giống người khác, nhất là “tên” thu thuế đang khóc lóc vì tội lỗi của “hắn” ở đàng kia (Luca 18:9-14).
Người muốn đọc Kinh Lạy Cha, vì thế, trước nhất phải ý thức mình có tội như một điều kiện tiên quyết. Cho nên, thế hệ nào không còn quan tâm gì đến tội quả tình không thể nào đọc được lời xin này. Kẻ không ý thức mình có tội quả đã phạm thứ tội nặng hơn bất cứ tội nào khác.
Để ý thức được mình là kẻ có tội, Origen, trong Về Cầu Nguyện 28.1-5, kể ra những món nợ mà con người nhân bản nào cũng mắc chỉ vì mình là người. Trước nhất, anh ta mắc nợ đồng loại, đồng loại Kitô hữu, đồng loại công dân (đồng bào) và đồng loại khắp nơi trên thế giới. Anh ta mắc nợ khách lạ, người già, bất cứ ai thuộc gia đình anh ta như con cái, anh chị em… Thứ hai, anh ta mắc nợ chính anh ta. Nợ đối với thân xác, không được phí phạm sức khỏe trong những thú vui gây hại. Nợ đối với tâm trí, biết dùng nó cách nào đó mà vẫn duy trì được tính sắc bén của nó. Nợ đối với linh hồn, vì anh ta có bổn phận chăm sóc linh hồn mình cách cẩn trọng. Sau hết anh ta mắc nợ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa dựng nên anh ta theo hình ảnh Người, nên anh ta phải yêu Người hết tâm hồn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức anh ta (Máccô 12:30; Luca 10:27; Mátthêu 22:37). Anh ta mắc nợ Chúa Giêsu Kitô đã dùng giá máu Người mà mua lại anh ta (Công vụ 20:28; Thư 1 Phêrô 1:18,19); Khải huyền 5:9). Anh ta mắc nợ Chúa Thánh Thần, Đấng anh ta không được làm phật lòng (thư Êphêsô 4:30). Origen cũng không quên nói rằng con người còn mang nợ thiên thần bản mệnh, người hàng chăm sóc, bảo bọc anh ta (Mátthêu 18:10). Ông cũng trích dẫn Thư 1 Côrintô 4:9 trong đó nói rằng ta đã nên trò mua vui cho thế gian, cho các thiên thần và loài người. Bởi thế, giống như các người mua vui khác (tài tử), ta mang nợ các khán giả đã đến thưởng lãm trò mua vui của ta! Và vì thế, phải biểu diễn vở kịch đời ta cách lịch lãm thế nào cho mọi khán giả trên trời và dưới thế thưởng thức nó ngon lành! Ngoài các khoản nợ tổng quan ấy, ta còn mang nợ các quả phụ và cô nhi, các phó tế, linh mục và giám mục, và vợ chồng mang nợ lẫn nhau (1 Côrintô 7:3,5). Origen cho hay: “còn sống, thì không một giờ nào, không một ngày hay một đêm nào, con người lại không phải là một con nợ”. Chính sự kiện ta được đặt vào thân phận nhân bản đã làm ta nằm dưới một loạt nhiều khoản nợ khác nhau, những khoản nợ mà ít ai có thể hoàn trả đầy đủ. Xét theo bản chất sự vật, con người sinh ra để trở thành kẻ không có cách chi trả hết nợ, và do đó lúc nào anh ta cũng buộc lòng mình phải đối diện với nhu cầu được tha nợ.
Thánh Gregory thành Nyssa, trong Các Bài Giảng Về Kinh Lạy Cha 5, cũng nhấn mạnh đến các khoản nợ của con người. Con người mắc nợ Thiên Chúa vì anh ta đã tự tách mình ra khỏi Đấng Tạo Ra mình, và đào thoát về phía kẻ thù, và do đó, trở thành kẻ chạy trốn và phản đạo đối với Đấng Hóa Công tự nhiên của mình. Con người đã mang ý chí tự do của mình đổi lấy ách nô lệ tội lỗi xấu xa và đã ưa chuộng nền độc tài chuyên chế của các thế lực phá hủy hơn là tình bè bạn với Thiên Chúa. Chính sự kiện họ tự chọn cho mình con đường như trên đã khiến họ ra nợ nần đối với Thiên Chúa.
Chính cấu trúc con người khiến họ thành kẻ tội lỗi. Thánh Gregory thành Nyssa có một lối giải thích lạ về một câu trong Giêrêmia 9:20: “cái chết đã vào qua cửa sổ”. Theo ngài, cửa sổ chính là các giác quan; qua chúng, tội lỗi và do đó cái chết đã xâm nhập vào sự sống. Con người, ngay trong hữu thể họ, là cửa ngõ cho tội lỗi xâm lăng. Bất cứ ai trung thực nhìn nhận thân phận làm người của mình thì đều ý thức được món nợ của mình và do đó nhu cầu phải cầu xin cho được tha nợ.
Tha Hay Đã Tha
Về vế thứ hai trong lời cầu xin này bằng tiếng Việt, chúng ta thấy phụng vụ dùng động từ tha ở thì hiện tại: như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Phụng vụ tiếng Anh cũng thế: as we forgive those who trespass against us. Mà phụng vụ La-tinh cũng vậy thôi: sicut et nos dimíttimus debitóribus nostris.
Tuy nhiên, trong bản Tân Ước Phổ Thông bằng tiếng Latinh, ta thấy động từ ấy ở quá khứ: sicut et nos dimisimus debitoribus nostris. Khiến cho nhiều dịch bản sau này cũng bắt chước dịch theo. Bản Revised Standard Version dịch thế này: as we also have forgiven our debtors. Các bản tiếng Anh mới đây đều theo khuynh hướng này kể cả bản The Jerusalem Bible: as we have forgiven those who are in debt to us. Chỉ có bản của Đức Ông Knox là dùng nó ở thì hiện tại giống phần lớn các bản tiếng Anh xưa hơn.
Phần lớn các bản dịch Tân Ước của Việt-Nam đều đã dùng động tự tha này ở thì hiện tại. Duy có bản của Cha An Sơn Vị đã dịch câu ấy ở thì quá khứ: như chính chúng con đã từng tha thứ cho các người lỗi với chúng con. Cha An Sơn Vị, trong phần chú thích, có viết rằng: “Đức Giêsu liên kết sâu xa nghĩa vụ ta đối với Thiên Chúa và nghĩa vụ ta đối với anh em, theo đề tài Thánh Kinh về Giao Ước. Vì thế, nhiều lần Đức Giêsu tuyên bố (như Hc 28:1-5) rằng Thiên Chúa đòi ta tha lỗi anh em, thì Ngài mới tha tội cho ta (Mt 5:7; 6:14-15; 18:23-35; Mc 11:25). Việc anh em tha thứ cho nhau không phải là giá mua hay công nghiệp cho ta đáng ơn tha thứ, nhưng làm chứng sự thành tâm của lời ta xin [Mt dùng thì quá khứ để nhấn mạnh điều ấy])”.
Có tác giả như William Barclay thì cho rằng hai lối dịch trên chỉ là vì đã căn cứ vào các bản chép tay khác nhau mà thôi. Có những bản chép tay ghi động từ này trong tiếng Hy lạp là aphionem (hiện tại), có bản chép tay lại ghi động từ này là aphekamen (quá khứ). Nhưng về ý nghĩa, hai lối dịch ấy không khác nhau bao nhiêu. Một bên thì cầu xin Chúa tha thứ cho ta cũng như ta vốn có thói quen tha thứ cho người khác; bên kia xin Người tha thứ cho ta cũng như trên thực tế, ta đã tha thứ cho người khác trước khi cầu lời xin này.
Muốn Tha Thứ Phải Tha Thứ
Nhưng phải hiểu sao về chữ “như”. Nó nói lên sự tương tự hay tỷ lệ? Phải chăng lời xin ấy nghĩa là: Xin Cha tha nợ cho chúng con cùng cách như chúng con đã tha cho người khác, hoặc, Xin tha thứ cho chúng con theo tỷ lệ như chúng con đã tha cho người khác?
Có hai điều giúp ta hiểu đôi chút về chữ như này. Thứ nhất, Phúc Âm Luca (11:4) khá rõ ràng trong lời cầu xin này vì đã không dùng chữ như ấy, nhưng đã dùng chữ vì thay thế: Và xin Cha tha tội chúng con, vì chúng con cũng tha mọi người lỗi với chúng con. Các bản tiếng Việt cũng như các bản tiếng Anh đều nhất trí như thế. Ở đây, ta nhìn nhận ta không có quyền chi để cầu xin ơn tha thứ tội lỗi mình trước khi ta tha thứ cho kẻ có lỗi với ta. Ở đây, ta đến thân thưa với Chúa rằng ta đã tha thứ trước khi đến xin Chúa tha thứ cho mình. Điều thứ hai giúp ta hiều chữ “như” này là đọc thêm mấy câu kế tiếp Kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6:14-15).
Thành ra dù đọc ra sao, dù căn cứ vào thủ bản nào, thì ý nghĩa lời cầu xin vẫn không ra khác, nó vẫn là một nối kết không thể tách ly giữa sự tha thứ nhân bản và sự tha thứ của Thiên Chúa: kẻ không tha thứ tự cắt đứt mình khỏi sự tha thứ của Thiên Chúa; muốn được tha thứ, phải tha thứ. Chân lý này thách thức và xem ra còn đe dọa con người đến độ Thánh Chrysostom kể lại rằng vào thời ngài nhiều người đã lược bỏ hẳn lời xin này khỏi Kinh Lạy Cha!
Sự nối kết trên được nhấn mạnh một cách đặc biệt trong bộ Tân Ước. Dụ ngôn kẻ mắc nợ không biết tha nợ trong Mátthêu 18:23-35 là một chứng minh cụ thể. Ở nơi khác như Mátthêu 7:1, 2 hay Máccô 4:24, Luca 6:37,38, ta thấy: đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán; đong đấu nào, sẽ được đong đấu ấy; hãy cho, sẽ được cho lại. Hay: ai có lòng thương xót sẽ được thương xót (Mátthêu 5:7) và “Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót” (Thư Giacôbê 2:13).
Trong Các Bài Giảng về Kinh lạy Cha 5, Thánh Gregory thành Nyssa có một ví von thật hay rằng lời cầu xin tha tội của một ai đó sẽ không được nghe biết khi tiếng rên của người anh ta mắc lỗi bị át đi. Tuy nhiên, đoạn Thánh Kinh hay nhất phải kể là của Sách Huấn Ca (28:1-5):
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Thiên Chúa, tội lỗi nó, Người xem sét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Thiên Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?”
Lời Cầu Tội Lỗi
Thành thử ra, lời cầu xin này có một đe dọa xem ra khá hữu lý: Không tha thứ mà đọc lời xin này là cố tình xin Chúa đừng tha thứ cho ta. Y như lời kết tội trong Thánh Vịnh 109:7: “và lời xin ân xá thành lời buộc tội”. Mà đúng thật, ai dám đến trước tôn nhan Chúa mà xin Người tha thứ cho mình vì mình đã tha thứ cho người khác, trong khi thực sự mình không tha thứ cho một ai khác? Chúa sẽ nghĩ sao về người ấy, Người sẽ có phản ứng gì đối với họ, ngoại trừ coi họ là kẻ phạm cái tội không thể tha thứ được như các Phúc âm đã ghi lại (Mt 12:31; Mc 3:29;Lc 12:10).
Người ta thuật lại tại đảo Tahiti, ông Robert Louis Stevenson hàng ngày có thói quen làm việc thờ phượng chung trong gia đình, trong đó có đọc kinh Lạy Cha. Một ngày kia, đến phần đọc kinh ấy, ông bỗng nhiên bỏ ra ngoài. Vợ ông tưởng ông khó ở, đuổi theo hỏi thăm, được ông cho hay: “hôm nay, anh không xứng đáng đọc Kinh Lạy Cha”. Thiển nghĩ, nếu hành động cho đúng, chắc nhiều người trong chúng ta cũng phải làm như Stevenson.
Vì thế ta cần luôn luôn xét mình trước khi đọc lời Kinh này, nếu không ta sẽ tự biến mình thành quan án cho chính bản thân mình. Thánh Chrysostom cho hay: “Thiên Chúa làm bạn trở thành người trọng tài phán xử; bạn phán xử bản thân bạn ra sao, Thiên Chúa phán xử bạn như vậy”. Còn Thánh Gregory thành Nyssa thì viết: “Hãy là phán quan cho chính bạn; hãy tự cho mình bản trắng án. Bạn có muốn nợ nần của bạn được Thiên Chúa tha không? Vậy bạn hãy tự tha thứ các nợ nần đó đi thì Thiên Chúa sẽ chuẩn y bản án ấy. Vì việc bạn phán xử người khác, một phán xử trong thẩm quyền của bạn, bất cứ ra sao, sẽ kéo theo một phán xử tương ứng cho chính bạn. Bất cứ điều gì bạn xác định cho mình cũng sẽ được phán xử của Thiên Chúa xác nhận” (Các Bài Giảng Về Kinh Lạy Cha 5). Tóm lại, luật phổ quát là thái độ của Thiên Chúa đối với một người được xác nhận bởi thái độ của họ đối với đồng loại.
Chúa Bắt Chước Ta?
Thánh Gregory thành Nyssa, trong bài giảng đã trích dẫn ở trên, cũng bạo mồm bạo phổi mà viết rằng: “Chúa Giêsu muốn cho thiên nhướng của bạn thành gương lành gương tốt cho Thiên Chúa! Ta mời Thiên Chúa bắt chước ta: Chúa hãy làm điều con đã làm. Lạy Chúa, xin Chúa bắt chước đầy tớ Chúa, dù con chỉ là kẻ hành khất khốn khổ, còn Chúa, Chúa là Vua Vũ Trụ. Con đã tỏ lòng thương xót với người lân cận của con. Lạy Chúa, xin Chúa hãy bắt chước đức ái của tôi tớ Chúa”. Quả là một bước táo bạo dám cầu xin Chúa đối xử với ta như ta đã đối xử với người khác.
Dĩ nhiên ta chả dám thưa với Chúa một cách “hỗn xược” như thế, nhưng sự thực không hẳn khác thế. Như người Do Thái vẫn thường chủ trương, tha thứ là đặc quyền của Thiên Chúa: “ai có thể tha tội ngoại trừ Thiên Chúa?”. Thế nhưng trong lời cầu xin này, rõ ràng ta có nghĩa vụ phải tha thứ “tội” cho kẻ khác. Điều ấy chứng tỏ con người chưa bao giờ gần gũi và giống Thiên Chúa bằng lúc anh ta tha thứ cho người anh em mình.
“Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”: ở đây ta xưng thú tội lỗi ta và nhìn nhận sự thực này là muốn được tha thì phải tha. Ở đây ta theo gương Thiên Chúa, như lời Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô” (Eph. 4:32). Đấy là Đấng Kitô đã cầu nguyện cho kẻ đóng đinh mình (Lc 23:34). Ai tha thứ sẽ được tha thứ.
Viết theo William Barclay, The Plain Man Looks At The Lord’s Prayer, Fontana Books 1964.
Còn một kỳ.
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 22:35)
Chúa nhật VI phục sinh
Sức mạnh của Đức Tin
Trong Thánh lễ Rửa chân tối thứ Năm tuần thánh, chúng ta đaơ được suy ngắm cử chỉ và nhương lời dạy vô cùng thân thương của Chúa. Bởi đó là cử chỉ và những lời dạy cuối cùng trước khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn. Tuy nhiên, cử chỉ và những lời vàng ngọc đó không thể kín múc hết được ý nghĩa và bài học quý giá trong một thời gian ngắn, Giáo hội khôn ngoan đạo dành trọn 3 Chúa nhật: V, VI và VII phục sinh để giúp chúng ta có thời gian suy ngắm kỹ hơn những lời dạy này. Đó là lý do Chúa nhật V và VI, chúng ta được suy ngắm gần như trọn chương 14 Phúc âm theo Thánh Gioan và Chúa nhật tới (VII), chúng ta sẽ suy ngắm phần đầu của chương 17.
Trong chương 14, chúng ta có thể dễ nhận ra lời dạy của Chúa gồm hai phần: phần dạy về đức tin (chúng ta đã suy ngắm tuần trước) và phần dạy về đức mến (chúng ta suy ngắm trong tuần này). Tin và Yêu là đề tài chính trong lời dạy của Chúa ở chương 14 Phúc âm thánh Gioan.
Với đức tin, Chúa giúp các Tông đồ và cả chúng ta vượt qua lãnh vực trần thế để bước vào một thế giới khác, thế giới thần linh. Với đức tin, chúng ta có thể vượt qua cuộc sống hữu hạn để bước vào cuộc sống vô hạn. Với đức tin, con người khám phá ra ơn gọi đích thực của ḿnh, đó là ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa, là ơn gọi được sống và sống viên mãn.
Đức tin giúp con người ta thoát khỏi sự tù túng nghèo nàn của thế giới trần thế này bao nhiêu, thì đức mến lại giúp con người tiến sâu hơn vào thế giới thần linh bấy nhiêu. Tin là ngưỡng cửa, mến là cuộc sống. Trong suốt các Chúa nhật: Chúa nhật Phục sinh, Chúa nhật II và III Phục sinh, Giáo hội liên tục cho chúng ta sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai về sự hiện diện của Chúa phục sinh đang đồng hành với ḿnh. Giáo hội muốn làm sống lại niềm tin nền tảng ấy nơi mỗi người chúng ta. Nhưng không chỉ sống lại một niềm tin, Giáo hội còn muốn moăi người chúng ta đồng hành bên Chúa, sống với Chúa, để con tim của đập cùng nḥip với con tim của Người. Bởi thế, theo Đạo đâu phải là theo một mớ lý thuyết trừu tượng hay một hệ thống lý luận tôn giáo, nhưng là theo và sống với một Người, là gắn bó mật thiết với một Người. Đó chính là Đức Giêsu Kitô.
Lm Giuse Dương Hữu Tình
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 19:32)
4. Nguyện vọng thi ân của Thiên Chúa vượt qua kỳ vọng của người lãnh nhận ân.
(Thánh Augustine)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 19:31)
MỤC TỬ NHÂN LÀNHNgười mục tử nên chuẩn bị vì đàn chiên của họ mà hiệp lực thỏa đáng, bởi vì họ yêu mến đàn chiên của mình. Họ đem bản thân mình hoàn toàn trao cho mỗi một thành viên mà không so bì tài năng trí lực của họ, cũng không so đo họ đẹp hay xấu, trưởng thành hay ấu trĩ. Họ biết mỗi một người, biết tên của chiên và hiểu những nhu cầu của đàn chiên.
Cho nên, người mục tử phải tiếp đãi mỗi một thành viên, nói với họ một hai câu thể hiện ý của mình, đó là công việc quan trọng của người mục tử. Vì vậy mà việc có thể gọi đúng tên của mỗi một đoàn viên cũng là một việc làm rất quan trọng, bởi vì tên là một mặt đại biểu cho cá nhân hoặc là quá thâm trầm cần thiết đối với họ.
Người mục tử cần phải nói ngôn ngữ của đoàn chiên. Có một số người không thể nói được, bởi vì họ không biết phương pháp thông truyền của đoàn chiên. Điều này hoàn toàn không tỏ rõ với người công tác trong lao tù thì cần nói những lời hạ lưu, mà không là ngôn ngữ thông thường. Cần phải để người khác cảm nhận được người mục tử chân chính thì hiểu rõ đàn chiên, bởi vì chỉ có như thế người mục tử mới có thể bồi bổ cho họ.
Người mục tử nên giữ nguyên ý tưởng sáng tạo linh hoạt và cao độ, bởi vì họ trao phó chính mình cho người khác. Khi anh yêu người, thì anh nhất định có thể sáng tạo và lại sáng tạo. Khi anh và một người nào đó có sự hiểu biết thâm sâu, và nếu họ có nhu cầu, thì anh sẽ dùng phương thức có tính xây dựng để đáp ứng cho họ, hoặc điều mà họ nhu cầu.
Tác giả: Ôn Lập Quang
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. dịch từ tiếng Hoa.
-------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
[email protected] [email protected]
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 19:30)
CHỦ NHẬT VI PHỤC SINHTin mừng: Ga 14, 15-21“Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác.”Bạn thân mến,
Cái mốt của thời nay là nhận người bảo trợ: bảo trợ đi du học, bảo trợ việc làm, bảo trợ cho đi tu, bảo trợ cho cuộc sống.v.v...và nhiều thứ bảo trợ khác nữa. Người ta tìm kiếm người có lòng hảo tâm để bảo trợ những học sinh nghèo, hoặc chơi ngon hơn, tự mình đi tìm kiếm người bảo trợ cho mình, như một số nữ sinh viên đi kiếm các đại gia để bảo trợ cho mình ăn học...
Nhưng, tất cả những người bảo trợ ấy đều không dám bảo trợ cho phần rỗi linh hồn của bạn và của tôi; tất cả những người bảo trợ ấy, có những lúc –không dám nhắc nhở cho người được bảo trợ về đời sống tâm linh, tức là về bổn phận của người Ki-tô hữu, bởi vì chính họ cũng không dám bảo đảm cho đời sống mai sau của mình.
Chúa Giê-su hứa ban Đấng Bảo Trợ đến cho các môn đệ của mình, Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giê-su hứa ban chính là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngài chính là vị bảo trợ cách đặc biệt cho những ai thành tâm kêu cầu Ngài, bởi vì Ngài được phái đến trần gian là bởi Chúa Giê-su cầu xin Chúa Cha, cho nên, chỉ những ai thành tâm tin yêu và đón nhận Chúa Giê-su là Đấng cứu độ thì mới được Đấng Bảo Trợ.
Chúa Thánh Thần sẽ giúp bạn hiểu được lời dạy của Chúa Giê-su, mà đôi lúc bạn mù tịt giữa những học thuyết của loài người; Ngài sẽ hướng dẫn bạn làm thế nào để đi theo con đường của Chúa Giê-su –con đường khổ nạn đưa đến sự sống đời đời- bởi vì con đường bằng phẳng của thế gian thì đưa đến sự chết; và chính Ngài cũng sẽ trở thành nguồn an ủi và hạnh phúc của bạn, nếu bạn thành tâm muốn đón nhận Ngài.
Bạn thân mến,
Mặc dù Chúa Thánh Thần đã cư ngụ ngay trong lòng bạn từ ngày bạn lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nhưng Ngài chẳng làm gì cả khi trí khôn của bạn chưa đủ, chỉ khi nào bạn đã biết Ngài là ai, và qua lời cầu khẩn của Giáo Hội- thì Chúa Thánh Thần sẽ được ban cho bạn, để Ngài luôn là người đồng hành và hướng dẫn bạn đi đúng con đường mà Chúa Giê-su đã chỉ cho bạn: con đường trọn lành, tức là con đường nên thánh ở trần gian này.
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ chúng ta, chứ không phải người giàu có lắm tiền nhiều của cải ở thế gian này, Ngài là Đấng được Chúa Cha phái đến nhờ lời cầu xin của Chúa Giê-su, vậy thì còn ai là người bảo trợ xứng đáng hơn Ngài chứ !
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
[email protected] [email protected]
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 19:29)
COM NHÁI NHỎ BIẾT SỬA SAIMột con nhái nhỏ ở trong một vườn rau.
Một hôm, khi mọi người bận bắt côn trùng, thì nó nhìn nhìn ngọn rau có chồi non. Nhịn không được nên chảy nước miếng, thế là nó ăn vụng một bữa no nê. Nhưng tất cả việc ấy đều bị chuột con nhìn thấy, chuột con cười thầm nhưng không thành tiếng.
Qua mấy ngày sau, chuột con len lén đào một củ cải và muốn chuyển đi, nhưng lại bị con nhái nhỏ nhìn thấy. Con nhái nhỏ lớn tiếng nói:
“Đứng lại, không được ăn cắp đồ, bạn mau bỏ xuống bằng không thì tớ la lớn cho mà xem.”Chỉ thấy chuột con nói một cách hùng hồn đầy lý lẽ:
“Bạn la lớn đi, lần trước bạn ăn trộm rau non bị tớ nhìn thấy, kêu mọi người đến đi, tớ sẽ lớn tiếng đem chuyện ấy nói ra cho mà xem.” Con nhái nhỏ nghe xong thì ngẩn người ra, từ từ cúi đầu xuống không lên tiếng. Chuột con lợi dụng cơ hội ấy, lắc la lắc lư rinh củ cải lớn về nhà.
Buổi tối, con nhái nhỏ trở về nhà mà trong lòng bực bội không vui, nhái mẹ cho rằng nó bị bệnh nên vội vàng hỏi nó như thế nào, nhái con lắc đầu không nói. Đêm ấy, nhái con ngủ không được, trong lòng cứ nghĩ lui nghĩ tới chuyện ấy nhiều lần: làm sao đây, mình có nên đem chuyện ăn vụng rau non nói cho mọi người biết, có nên đem chuyện chuột con ăn cắp củ cải nói cho mọi người nghe ?
Sáng hôm sau, cuối cùng nhái con cũng làm một quyết định, nó đi đến trước mặt nhái mẹ nói nhỏ:
“Mẹ à, con có làm sai một chuyện, con lén ăn trộm rau non và bị chuột con nhìn thấy, vì con sợ bạn ấy nói cho mọi người biết, cho nên hôm qua khi con phát hiện bạn ấy ăn trộm củ cải nên con cũng không nói ra.”Nhái mẹ nhẫn nại nghe lời nhái con nói, xoa xoa đầu nó và nói:
“Biết sai và có thể sửa đổi là đứa con ngoan, sau này nếu thấy chuột con ăn trộm đồ thì con đừng sợ, phải dũng cảm ngăn chận nó.”(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Chúng ta không thể tránh sẽ phạm một vài sai lầm nhỏ hoặc lớn, nhưng khi phát hiện mình làm sai thì phải lập tức và mau mắn sửa lại cho đúng, làm một đứa con ngoan chính là biết sai mà sửa lại cho đúng.
Có nhiều em nhỏ vì sợ bạn bè hăm dọa nên không dám nói ra những việc làm xấu của bạn bè, hoặc là vì sợ mắc cở với bạn bè mà không dám thú nhận những lỗi lầm mình đã phạm.
Chúa Giê-su dạy chúng ta phải đơn sơ như trẻ nhỏ, mà đơn sơ như trẻ nhỏ chính là có thì nói có, không thì nói không, bởi vì nơi trẻ nhỏ không có gì là trí trá âm mưu, trẻ em hoàn toàn tin tưởng vào bố mẹ và những người có trách nhiệm dạy dỗ chúng nó. Do đó mà các em phải biết nghe lời bố mẹ và những người có trách nhiệm đối với các em, bởi vì nếu các em không biết nghe lời những người ấy, thì ảnh hưởng của bạn bè xấu và xã hội sẽ làm cho các em ngày càng chống đối Giáo Hội và nghi ngờ về niềm tin của mình vào Chúa Giê-su đó...
Các em thực hành:- Biết nhận lỗi khi làm sai.
- Biết hối hận khi phạm tội.
- Biết nói không với bạn xấu và luôn cầu nguyện.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 15:48)
Mười truyện đơn sơ về Giáo Lý và Giáo Dục mỗi tuần (32)
311. Những nhận xét của Đức Cha Dupanloup trong tuần tĩnh tâm
Lời ghi chú của Đức Cha Dupanloup trong một dịp cấm phòng đáng cho mọi người công giáo lưu ý, nhất là các linh mục và tu sĩ:
“Tôi đã hành động quá đáng đến nỗi làm thiệt hại đến sức khỏe, đến lòng sốt sắng và không được ích chi cho nền học thức của tôi cả. Tôi cần phải cải thiện lại. Chúa đã soi sáng cho tôi biết điều làm ngăn cản đời nội tâm yên tĩnh và phong phú của tôi là vì tôi đã theo tính tự nhiên, thích hoạt động rộn rã quá đà. Tôi cũng nhận thấy rằng sự thiếu sót đời nội tâm, chính là nguồn mạch phát sinh bao nhiêu khuyết điểm khác, làm cho tôi lo lắng bối rối, khô khan nguội lạnh, chán nản và kiệt sức. Vì vậy, tôi đã quyết tâm xuất toàn lực, luyện tập đời nội tâm còn thiếu sót. Và để đạt được kết quả mong muốn, tôi sẽ nhờ ơn Chúa giúp, chấn chỉnh lại những điểm sau đây:
1). Tôi sẽ để ra nhiều thì giờ hơn một chút để thi hành công tác, và đó là phương pháp giúp tôi khỏi làm vội vàng, hấp tấp.
2). Thường bao giờ tôi cũng có nhiều công tác phải thực hiện, mà lại có ít thời giờ, điều nầy làm cho tôi băn khoăn bối rối, vì vậy, tôi sẽ không để ý nghĩ đến công việc phải làm, nhưng sẽ quan tâm đến thời giờ phải lợi dụng. Tôi sẽ lợi dụng hết thời giờ, không để qua đi vô ích, bằng cách thi hành những việc cần thiết hơn, còn bao nhiêu, tôi sẽ không để tâm lo lắng nữa…” (x. Hồn Tông Đồ)
Một vị giám mục đạo đức, thông thái mà còn than phiền về đời sống nội tâm thiếu sót của mình, thì huống hồ là bạn và tôi!
312. Phần thưởng giáo lý là phần thưởng quý giá nhất!
Ngày kia, một em học sinh công giáo đem phần thưởng môn giáo lý về nhà và khoe thành tích giáo lý nầy cho cha mình.
Vì là người không sốt sắng đạo đức, cha em không vui gì, nên nói với con rằng:
- “Con hãy cố gắng làm sao cho được những phần thưởng về những môn đời vì những môn đời sẽ giúp con mở được cánh cửa để đi vào tương lai.”
Người con nầy, được ơn Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, liền trả lời lại một câu rất hay:
- “Thưa cha, cha nghĩ như vậy không đúng. Phần thưởng giáo lý là phần thưởng quý giá nhất vì phần thưởng nầy giúp con mở được cánh cửa nước thiên đàng để vào hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa.”
313. “Có một Đấng sẽ chịu vì tôi!”
Khi ở trong tù, đợi phiên bị đem ra đấu trường để cho thú dữ phanh thây, thánh nữ Fêlixitê được người lính canh hỏi:
- “Chị làm sao đủ sức mà chịu được?”
Thánh nữ bình tĩnh trả lời:
- “Trong tôi, có một Đấng sẽ chịu vì tôi. Đấng đó, là Đấng tôi sẵn sàng chết cho Ngài.”
314. Các linh mục quản xứ làm cách nào cho người ngoại đạo được biết Chúa?
Văn sĩ Louis Veuillot đưa ra nhận xét:
- “ Nếu nhóm nhỏ các tín hữu thường đi nhà thờ mà biết sống đạo tình thương bác ái như Chúa dạy, thì họ sẽ thay đổi cả thế giới.”
Và văn sĩ nầy nhắn với các linh mục quản xứ:
- “Nếu các cha làm cho con chiên bổn đạo của mình sống đạo cho thật tử tế, các cha sẽ làm cho người ngoại đạo trở lại.”
315. Tính xấu của chúng ta nuốt sống chúng ta
Tính xấu của chúng ta sẽ nuốt sống chúng ta, sẽ làm cho chúng ta chết.
Khi chúng ta không chịu sửa chừa tính xấu mới ló ra, thì sau nầy chúng ta sẽ bị tính xấu đó làm cho chết.
Bà hoàng hậu độc ác Giêsaben nuôi một bầy chó rất dữ. Ai cũng sợ bầy chó nầy. Nhưng chính bầy chó dữ mà bà hoàng hậu nầy nuôi, đã ăn thịt bà. Bởi vì khi chết, bà bị vất xác ra giữa đồng, và chính bầy chó nầy đến ăn thịt xác bà.
Khi chúng ta không chịu chừa bỏ các tính xấu, thì chính các tính xấu nầy sẽ làm hại đời ta.
Thời Trung Cổ, có một bác thợ rèn rất giỏi: bác rèn được những giây xích bằng sắt rất kiên cố, không ai phá nổi.
Ngày kia, bác bị bắt đi tù. Người ta xích bác lại bằng một sợi giây xích sắt. Bác ngồi quan sát giây xích, tìm cách bẻ gãy để thoát thân. Nhưng bỗng bác thở dài, thất vọng khi biết rằng giây xích sắt nầy là giây xích do bác làm ra!
316. Tập chí can trường mạo hiểm để cho tuổi trẻ được trưởng thành
Có nhiều dân tộc như dân tộc Zoulous, Suazi, Matabélé huấn luyện thanh niên của họ gần tuổi trưởng thành một cách gắt gao. Họ dùng một thứ sơn trắng, khó rửa, phải đến mấy tuần mới phai được, để sơn vào người trẻ, giao cho anh ta một cây giáo, rồi đuổi anh ta vào rừng. Từ lúc đó, người trẻ nầy phải tìm cách tự sống trong vài tuần.
Trong những tuần nầy, anh ta phải theo dõi các dấu vết của thú rừng để săn thịt mà ăn, phải biết cọ xát hai miếng gỗ để lấy lửa, phải tìm cách ẩn núp thật kín đáo vì ai gặp anh ta khi còn lớp sơn trắng thì cũng có thể giết anh ta.
Ai thắng cuộc, trở về lại làng, sẽ được hoan nghênh và được xem là người trưởng thành.
317. Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu sống đời vui vẻ trong hy sinh
Ngày kia, chị thánh Têrêxa đố các chị em trong dòng:
- “Các chị có biết ngày lễ vui mừng của em là ngày nào không?”
Vừa hỏi xong, chị thánh nầy liền nhanh lẹ trả lời:
- ”Đó là ngày Chúa thử thách em nhiều nhất. Đó là ngày Chúa để cho em chịu nhiều đau khổ nhất.”
Một hôm kia, bà bề trên hỏi chị:
- “Sáng nay, sao em vui thế?”
Chị thánh thưa lại một cách thành thật:
- “Dạ, con vừa làm được hai việc hy sinh.”
Chị thánh Têrêxa thú nhận là chị đã tập được một thói quen rất anh hùng, đó là luôn mĩm cười. Chị nói:
- “Tôi đã tập được thói quen mĩm cười trong mọi lúc, trong mọi nơi, trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh.”
318. Cái gì ngăn trở bạn thấy Chúa?
Ngày kia, Đức Hồng Y Wiseman tiếp một người bạn đang còn ở ngoài Đạo Công giáo.
Hai người bàn luận lâu giờ về các điều trong Đạo.
Thấy bạn mình vẫn còn cứng lòng, đức hồng y liền lấy một tờ giáy trắng, viết lên đó một tiếng, rồi lấy một đồng bạc che lại.
- “Bạn thấy gì đây?”
- “Tôi thấy một đồng bạc.”
- “Bạn có thấy gì khác nữa không?”
- “Không.”
Đức hồng y liền cất đồng bạc đi và hỏi:
- “Bây giờ, bạn thấy gì?”
- “Tôi thấy: “Chúa”.
- “Vậy lúc nãy, có cái gì đã làm cho bạn không thấy Chúa?”
Ông bạn luýnh quýnh, không biết trả lời làm sao.
Nhiều kẻ chỉ dùng đôi mắt của mình để thấy tiền bạc, vì thế, họ không còn thấy Chúa, không còn thấy lề luật của Ngài, không còn thấy ân sủng của Ngài.
319. “Nầy con, con đã trở nên thánh chưa?”
Một tu sĩ kia kể về cuộc đời tu của mình như sau.
Lúc 17 tuổi, chàng nói cho cha mình biết chàng muốn đi tu, muốn dâng mình cho Chúa.
Khi biết rõ con của mình muốn đi tu thật, chứ không phải nhẹ dạ, người cha liền trả lời dứt khoát: “Đó là ý Chúa. Cha không thấy có điều gì trở ngại. Nhưng cha chỉ xin con nhớ điều nầy là: con đi tu là để trở nên một vị thánh.”
Và sau đó, cứ mỗi lần đến thăm chàng, người cha vừa vui cười, vừa hỏi chàng một câu như sau: “Nầy con, con đã trở nên thánh chưa?”
320. “Một quốc gia được thành lập thế nào được khi không có Thiên Chúa nâng đỡ?”
Năm 1787, để lập hiến pháp đầu tiên cho Hợp Chủng Quốc, là nước Mỹ bây giờ, các đại biểu họp nhau lại để bàn luận. Trong dịp nầy, đại biểu Franklin đứng lên nói một câu rất cảm động:
- “Thưa các bạn, chúng ta hãy nguyện kinh trước đã. Sống lâu năm, và càng sống thêm, tôi càng nhận rõ điều nầy là: có Thiên Chúa điều khiển mọi sự. Nếu một con chim sẻ không rớt xuống đất khi Thiên Chúa không cho phép, thì một quốc gia được thành lập thế nào được khi không có Ngài nâng đỡ?”
LM Nguyễn Vinh Gioang
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 11:39)
ÔNG RONALD REAGAN: TÍN HỮU KITÔ CHÂN CHÍNHNhật báo Pháp ”Le Figaro - Người Thợ Cạo”, Thứ Ba 1-6-1993, đăng bài phỏng vấn ông Mikhail Gorbatchev, Cựu Tổng Thống Liên-Xô, về cuốn sách ”Avant-Mémoires / Tiền-Hồi Ký” của ông.
Bài phỏng vấn xoay quanh các biến cố chính trị xảy ra tại Cựu Liên-Xô, đặc biệt vụ đảo chánh hụt hồi tháng 8 năm 1991 và những biến chuyển sau đó khiến ông Mikhail Gorbatchev phải từ chức tổng thống Liên-Xô.
Nhắc lại những lý do đưa đến cuộc sụp đổ thảm hại của chủ nghĩa cộng sản vô thần, ông Gorbatchev khéo léo khẳng định rõ ràng vai trò của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2005):
- Đức Giáo Hoàng không phải là người ném quả bom đầu tiên chống lại chủ nghĩa cộng sản. . Ngài lưu ý đến vấn đề chính trị nhưng ngài không làm chính trị, bởi vì tôn giáo phải lưu tâm trước tiên đến các vấn đề thuộc phạm vi tôn giáo. .
Ông Gorbatchev xác quyết thêm:
- Những nứt rạn đầu tiên đưa đến cuộc sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Liên-Xô, xuất phát từ chính bên trong Liên-Xô. Liên-Xô không còn năng lực xã hội nữa và vì thế, đất nước bị dậm chân tại chỗ.. Tiếp đến, phải thành thật công nhận vai trò tích cực của ông Ronald REAGAN, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ. Sau hai cuộc gặp gỡ tại Genève (Thụy Sĩ) vào năm 1985 và tại Reykjavik (Island) vào năm 1986, ông REAGAN đã tìm cách canh cải đường lối quan hệ với giới lãnh đạo Liên-Xô bấy giờ.. Cần phải lên tiếng ca ngợi ông Ronald Wilson REAGAN (6-2-1911 / 5-6-2004) về điểm này. .
”Cần phải lên tiếng ca ngợi ông Ronald REAGAN”, đó là điều sư huynh Albert Pfleger - người Hungari tu sĩ Mariste - đã làm trong cuốn sách ”Fioretti de la Vierge Marie - Giai thoại về Đức Trinh Nữ MARIA”. Sư huynh giới thiệu Tổng Thống Hoa Kỳ dưới tựa đề: “Ronald REAGAN, Đức Giáo Hoàng và FATIMA”.
Ngày 9-5-1985, nhân chuyến viếng thăm Bồ-Đào-Nha, Tổng Thống Ronald REAGAN đọc diễn văn trước các dân biểu Quốc Hội. Bài diễn văn kết thúc bằng lời lẽ đáng nhớ, xứng hợp với vị Quốc Trưởng Hoa Kỳ theo Kitô Giáo:
Tại Hoa Kỳ cũng như tại Bồ-Đào-Nha, hoặc tại Âu Châu và trên toàn thế giới, chúng ta khám phá ra: Tự Do đáng quý chừng nào! Tự Do thật quan trọng cho việc xây dựng Hòa Bình và phục hồi nhân phẩm.
Niềm tin tưởng vào nhân phẩm xuất phát từ sự thật cuối cùng, làm căn bản cho nền dân chủ, đó là niềm tin tưởng rằng: con người không phải chỉ là phân tử của vũ trụ vật chất, cũng không phải chỉ là sự cấu thành của các nguyên tử. Trái lại, chúng ta tin vào một chiều kích khác, chiều kích thiêng liêng của con người. Chúng ta tìm thấy nơi đó suối nguồn siêu việt cho những yêu sách của tự do con người, để nhắc nhở chúng ta nhớ rằng, những quyền bất khả nhượng đến từ Đấng Thượng Đế cao trọng hơn chúng ta.
Không ai hoạt động nhiều để nhắc thế giới nhớ đến sự thật về nhân phẩm và một sự thật khác: hòa bình và công lý bắt đầu nơi mỗi người, không ai hoạt động nhiều cho bằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Người đã đến Bồ-Đào-Nha cách đây mấy năm, sau cuộc ám sát suýt chết. Đức Giáo Hoàng đã đến FATIMA, nơi Đền Thánh quan trọng của quý vị, để bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt của Ngài đối với Đức Mẹ MARIA, để khẩn cầu Trời Cao tuôn đổ ơn tha thứ và lòng thương xót trên mọi người, để cầu nguyện cho Hòa Bình và cho việc nhìn nhận nhân phẩm trên toàn thế giới.
Khi tôi gặp Đức Gioan Phaolo II tại Alaska cách đây một năm, tôi đã có dịp cám ơn ngài về cuộc sống và công việc tông đồ của ngài. Tôi còn dám thưa với ngài rằng, chính trong mẫu người như ngài và chính trong lời cầu của những người khiêm hạ trên thế giới, khiêm hạ như các trẻ chăn chiên Fatima mà mới có quyền hành, lớn hơn quyền hành của mọi quân lực hùng hậu và của mọi quốc trưởng trên thế giới.
Đây cũng là điều người Bồ-Đào-Nha có thể nói với thế giới, bởi vì nét cao cả của quốc gia quý vị nằm trong dân tộc của quý vị.
Người ta có thể nhận thấy điều này trong đời sống thường ngày của các cộng đoàn, các thành phố và đặc biệt trong các ngôi nhà thờ nhỏ, nằm rải rác nơi các làng mạc, thị trấn. Những nhà thờ này nói lên một niềm tin, giải thích cho mọi người hiểu: tại sao con người đòi hỏi phẩm giá và tự do của mình phải được tôn trọng.
Đối với tôi, đó mới là quyền hành thật, đó mới là sự hiểu biết thật về ý nghĩa cuộc đời và tính chất khách quan của lịch sử.
Xin chân thành cám ơn và xin THIÊN CHÚA chúc lành cho quý vị.
(Ông Ronald Wilson REAGAN - cựu Tổng Thống Hoa Kỳ - đã từ giã cõi đời, hưởng thọ 93 tuổi, ngày 5-6-2004).
... ”Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. . THIÊN CHÚA đảo lộn chương trình muôn nước, Người phá tan ý định chư dân. Chương trình Chúa ngàn năm bền vững, ý định của lòng Người vạn kiếp trường tồn. Hạnh phúc thay quốc gia được CHÚA làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. Từ Trời Cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người. Từ thiên cung Chúa ngự, Chúa dõi theo người thế. Lòng mỗi người, chính Chúa dựng nên, việc họ làm, Chúa thông suốt cả. Vua thắng trận đâu bởi hùng binh, tráng sĩ thoát nguy đâu nhờ dũng lực. Hão huyền thay, mong thắng nhờ chiến mã, nó mạnh đến đâu cũng không cứu nổi người. Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Thánh Vịnh 33,1+10-19).
(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambre Editeur-Diffuseur, 1992 + ”LE FIGARO” 1-6-1993)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 10:15)
Một Câu Chuyện Dài
(ý Lc. 15, 11-32)
Ta đang sống những ngày buồn chán
Hồn mây trời bay khắp nẻo nhân gian
Ai giam ta giữa mấy lũy tre làng
Mà không tới chốn mơ màng lạc thú?
Ta sẽ ởđây rồi chết trong ủ rũ
Hay là đi theo giấc mộng viễn du?
Phải ra đi thoát kiếp đời lam lũ
Giang hồ ơi ta chẳng thể chần chừ!
Thưa cha, con lớn khôn đã đủ
Xin chia cho phần hưởng thụ gia tài
Con muốn đi riêng dựng một tương lai
Còn hơn sống mãi hoài trong ngao ngán!
Làng thôn chật giam tuổi xuân buồn nản
Con sẽ đi về ánh sáng thành đô
Ở nơi ấy đông người vui muôn chỗ
Ở nơi này chỉ núi thẳm với đồng khô!
Nước mắt lưng tròng
Người cha già cúi đầu thất vọng
Con ơi biển đời mênh mông
Con chưa hiểu trời cao đất rộng
Bước trần ai vẫn luôn gió sóng
Sẽ cuốn con trong dục vọng sân si,
Nơi phương xa rồi đau yếu những khi
Ai lo lắng mà ra đi như thế?
Người cha già khổđau gạt lệ
Trông theo con dần khuất nẻo đường quê
Rồi từng chiều hôm lặng lẽ ngóng con về
Nắng vàng cũng tái tê
Đổ theo bóng già chờ lê thê cuối ngõ
Ôi phố thị mờ xa khuất sau rặng núi đó
Đứa con tôi còn nhớ lối quay về?!
Nơi thành đô tráng lệ!
Ngựa xe chen chúc, giai nhân xiết kể
Tiền trong tay phải hưởng thụ mọi bề
Rượu phải uống say cho tiêu sầu nhân thế
Đốt đêm thâu cho quên hết cả nẻo về!
Bạn bè ơi tới đây mà nâng chén
Để mừng ngày ta giải phóng đời ta
Trăng sáng làm sao sánh với ánh phố hoa
Với đàn hát bên tửu trà lênh láng!
Rồi cứ thế vung tiền mua bè bạn
Cùng giai nhân đêm suốt sáng truy hoan
Đến một hôm tiền hết tình chẳng còn
Bè bạn bỏ, tửu lầu xa thấp thoáng
Trong cơn đói, đói từng cơn đành đoạn
Mơ bữa cơm ngon nấu gạo trắng canh rau
Miếng dưa cà cắn giòn giã làm sao
Thèm khúc cá nhai cái đầu...ôi hết ý!
“Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí!”
Lúc hết tiền trùng nạn đói liền khi
Nồi cháo heo canh cặn với củ mì
Cũng muốn nuốt nhưng chẳng ai bố thí!
Đêm lén trộm của heo ăn, nằm nghĩ:
Ở nhà cha ta có biết đói là chi
Nhục nhã thay thân một nam nhi
Người chửi rủa, đánh cho cùn phẫn chí!
Trăng thao thức đêm khuya soi một ý
Nhớ cha già sau mấy rặng núi non
Bao năm qua chiếc bóng chắc mỏi mòn
Theo thương nhớ thằng con đầy trác táng!
Hắn quyết chí suốt trong đêm chờ sáng
Ánh bình minh vừa ló dạng đằng Đông
Hắn đứng lên lau nước mắt chảy xuôi dòng
Về! về lại bên cha già mà sống!
Nắng ban mai dịu dàng thơm gió lộng
Cánh chim trời bay lơ lửng trên không
Hắn lúc vui lúc chợt tủi trong lòng
Không biết cha còn mong con trở lại?
Trời về chiều, nắng vàng trên lối trải
Đường làng quê êm ái bóng mây che
Tới đầu thôn chân lữ thứ rụt rè
Nhìn thoáng bóng não nề trong nắng tắt
Hắn lấy tay lau dòng lệ trào bất giác
Ai xa xa nhìn quen mặt như là
Đúng rồi! đúng rồi, chính cha ta
Hắn chạy tới khóc òa và quỵ gối
Cha cha ơi con vềđây tạ tội
Con phạm tới Trời và có lỗi cùng cha
Xin cho con làm tôi tớ trong nhà
Mà trở lại mái nhà xưa đã sống!
Người cha già mắt lệ nhòa bất động
Ôm thằng con phút chốc bỗng nghẹn lời
Con về rồi hả thằng ba ơi...
Rồi nước mắt pha tiếng cười lẫn lộn...
Hãy đứng dậy ôi đứa con gầy ốm
Về với cha, cha chẳng trách gì đâu
Cha đã chờ con bao chiều nắng úa mầu
Con là con cha, trước sau là con mãi!
Vừa tới nhà ông kêu gia nhân lại
Lấy áo hoa, giày mới, nhẫn con ta...
Và ngã ngay con bê béo thật to
Để mừng buổi tiệc trùng phùng khắp ngõ
Trong khói lam, chiều như ngừng lại đó
Tiếng đàn ca rộn rã ngõ đoàn viên
Thằng trưởng trai về tới, đỗi ngạc nhiên
Sao nhà hôm nay rộn ràng vui lắm tiếng?
Hắn đứng ngoài kêu gia nhân hỏi chuyện
Rồi biết ra, hắn phừng lửa giận điên
Hắn quay bước, gia nhân vào mau miệng
Gọi cha già theo nắm áo kéo nghiêng
Hắn một hơi lớn tiếng:
Đấy cha coi, con phải nào không biết chuyện
Cả đời con ngậm miệng
Lao tâm lao lực có nghĩ gì riêng
Con làm cho cha, ngày ba bữa cơm vào miệng
Thân trâu cày trả hiếu nghĩa cùng cha
Có bao giờ cha giết con dê nhỏ để mà
Cho hiếu tử chút chi là vui với bạn?!
Còn thằng út kia, một thằng trác táng
Chia gia tài rồi biền biệt đi hoang
Trở vềđây với ma dại thân tàn
Cha lại mở liên hoan cùng bê béo?!
Hãy vào nhà hỡi đứa con nghĩa hiếu
Cha sinh con ra và rất hiểu lòng ngoan
Tất cả của cha là tất cả của con
Con ở với cha vuông tròn cha biết hết
Nhưng phải mừng vì em con như đã chết
Mà giờ đây lại chỗi dậy về nhà
Là em con cũng là đứa con cha
Con bê béo cũng chẳng qua...vật chất
Hồn phục sinh con người mới sống thật
Của cải cha là tình chân chất con ơi
Phải biết yêu thương và tha thứ như
Trời Vẫn độ lượng từ muôn đời muôn kiếp
Sau núi xa xa sáng vàng non vầng nguyệt
Trời sao thưa ngày luyến tiếc vào đêm
Gió vọng về đâu đó mấy tiếng chim
Về rất trễ đang gọi tìm tổ ấm
Thằng con cả nghe lời cha im lặng
Cầm tay cha cùng dắt bước vô nhà
Nó chẳng thèm ngó đến mặt thằng ba
Lòng vừa giận vừa xót xa thương em nó!
Thằng lãng tử biết anh buồn trước ngõ
Nên ngồi yên trong xó tối rưng rưng
Hai anh em mặt chạm mặt ngập ngừng
Rồi ôm lấy giữa vui mừng cha nó
Nhạc vang lên như dâu về rước ngõ
Rượu tương phùng thơm rõ ý đoàn viên
Ánh trăng khuya đổ bóng khắp một miền
Soi hạnh phúc của bình yên thôn nhỏ.
lykhách
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 08:23)
Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh/A
Ðức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người
(Ga 14,15-21)
Ðức Giêsu tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người. Ðó là câu kết của bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật hôm nay mà chúng ta vừa nghe. «Ai yêu mến Thầy thì Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy!» (Ga 14,21). Ðây chính là trọng tâm đức tin Kitô giáo của chúng ta.
Trong cuốn tiểu thuyết thời danh «Cô gái của Hoàng Tử tí hon» của tác giả Antoine de St. Exupéry, có một câu nòng cốt rất được biết đến, một điều bí mật mà con cáo đã tâm sự với chú Hoàng Tử, là: «Với con tim, người ta nhìn thấy rõ hơn. Vì đôi mắt không thể nhìn thấy được điều chính yếu!»
Sự thật của câu nói đó mỗi người trong chúng ta đều đã hơn một lần cảm nhận được. Ai muốn tìm hiểu một người từ xa, sẽ dễ bị lầm lẫn. Chỉ ai thật lòng tiếp cận với những người khác, cảm nghiệm được những tư duy và tình cảm, những lo lắng và những hy vọng, điều buồn khổ và niềm vui, cũng như quá khứ và tương lai của họ, thì người đó mới có thể hòa mình một cách thực sự vào cuộc sống của những người khác được. Vì những người thật tình thương yêu nhau, rất dễ lắng nghe nhau và rất dễ thông cảm với nhau. Vâng, khi người ta thích một người nào đó, thì người ta rất dễ cảm thông với người đó hơn. Ðó cũng chính là ý nghĩa của lời Ðức Giêsu đã nói với chúng ta: Người tỏ mình ra cho ai yêu mến Người.
Vì thế, ai muốn nhận biết Ðức Giêsu, cần phải tìm kiếm Người với cả con tim. Vì chỉ với trí năng mà thôi, người ta chỉ có thể thu tập được những chứng tích lịch sử về Người và tổng hợp được những hiểu biết về thần học. Bao lâu chính trái tim mình còn khép kín, con người sẽ không thể hiểu thấu được «Thánh Tâm Chúa Giêsu », sẽ không thể cảm nhận được những gì đã đưa đẩy Con Thiên Chúa đến trong thế gian, những gì đã khiến Người phải suốt ngày lang thang đây đó trên khắp mọi nẻo đường và trái tim Người khi bị treo trên thập giá đã bị đâm nát ra vì ai! Ở đâu người ta chỉ dạy giáo lý, chỉ trau dồi môn khoa học về tôn giáo, chứ không được kèm theo những kinh nghiệm sống đức tin cụ thể của mình với cả con tim, thì ở đó khó lòng truyền bá đức tin cho người khác được.
Ði tìm kiếm con tim với cả con tim. Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là trong vấn đề đức tin, chúng ta tìm cách loại bỏ trí năng ra. Chúng ta không muốn ngụp lặn trong một thứ đạo đức tình cảm ướt át qua thời, một thứ đạo đức hoàn toàn bằng lòng với những cảm xúc thánh thiện thiếu cơ sở lý trí, như những trào lưu tôn giáo tân thời nặng màu sắc tình cảm hiện đang tuyên truyền quảng cáo rầm rộ. Những gì được giới thiệu trong những học thuyết về hiện tượng tái sinh, về chiêm tinh bói toán, về tướng số, v.v… đều không phải là những điều thuộc về đức tin Kitô giáo. Những gì mà người Kitô hữu chúng ta tin kính, không phải là một sở thích lông bông, vô căn cứ, nhưng là Một-ai-đó, tức Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã sống ở giữa chúng ta với đầy đủ xương thịt, hoàn toàn như một phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi. Chính Người là Con Một Chúa Cha và đã được sai đến trong trần gian.
Nếu lãnh vực tôn giáo thần thiêng vượt khỏi khả năng hiểu biết nhân loại, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ nhắm mắt đưa chân, tự giao mình cách mù quáng cho một quyền lực vô ngã nào đó, nhưng là đứng đối diện với một Ngôi Vị, với một Thiên Chúa làm người, có một con tim hằng đập những nhịp đập cho chúng ta.
Nhưng đức tin của chúng ta còn cần phải rõ ràng và cụ thể hơn nữa. Vì trong xã hội, Ðức Giêsu còn có những người anh chị em khác sống giữa chúng ta. Và bằng cớ để chứng minh chúng ta yêu mến Thiên Chúa và Ðức Giêsu thực sự hay không, là qua thái độ chúng ta đối với những người anh chị em của Người như thế nào: tốt hay xấu, yêu thương hay hận thù ghen ghét! Vì «nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, nhưng lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì làm sao lại có thể yêu mến Thiên Chúa là Ðấng họ không trông thấy được» (1Ga 4,20).
Nhiều người trên đường tìm kiếm Thiên Chúa đã tự hỏi: Làm thế nào để tôi có thể tìm gặp được Thiên Chúa? Một điều chắc chắn là đa số những con đường dẫn tới Thiên Chúa đều băng qua những anh em đồng loại của chúng ta. Bởi vì, ai có lòng đối với cận nhân mình, ai biết yêu thương đồng loại, thì cánh cửa cũng luôn rộng mở cho cho người đó nơi Ðấng đã trở thành người Anh Cả của cả nhân loại. Vâng, Người tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người trong những người anh chị em của Người. Trong lời tiễn biệt trước khi chịu chết, Ðức Giêsu đã nói lên những lời đầy tâm huyết như sau: «Thầy ban cho chúng con một giới răn mới: Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương chúng con. Các con hãy thương nhau để thế gian nhận biết rằng chúng con là môn đệ của Thầy!» (Ga 13,34-35; 15,12).
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 07:50)
Chúa nhật 6 Phục sinh
SỰ SỐNG MỚI
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA (Ga 14, 15-21)
Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy."
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốcThiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người". Cũng như kiến thức y khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc của nhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loài cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như như lời Chúa Giêsu nói: " Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến".
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiện của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta Ở trong người nào tức là ở trong trái tim của người ấy. Ở trong trái tim của ai tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ không để anh em mồ côi". Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ra đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người đem đến cho ta Chúa Thánh Thần an ủi. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sống sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy". Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó chính là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí ?
2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 07:42)
NHÌN VÀO BA HÌNH ẢNH SỐNG ĐỘNG CỦA CHÚA GIÊSU
(Nhân kỷ niệm 30/4/1975)
Ngày 30 tháng 4 năm 2008 này là dịp thúc đẩy tôi nhìn lại.
Bởi vì đây là kỷ niệm 33 năm biến cố quan trọng của lịch sử Đất Nước tôi (30/4/1975 - 30/4/2008).
Bởi vì đây cũng là kỷ niệm 33 năm thụ phong giám mục của tôi (30/4/1975-30/4/2008).
Riêng đối với tôi, hai kỷ niệm này là rất sâu đậm. Sâu đậm nhất là do đức tin. Tôi đã trải qua thời gian này với đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu đã soi sáng tôi, đã nâng đỡ tôi.
Cũng đức tin đã cho tôi thấy Chúa rất thương Hội Thánh Việt Nam. Yêu thương này rất phong phú, rất đa dạng.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ cái nhìn của riêng tôi về sự Chúa yêu thương chúng ta qua ba hình ảnh Phúc Âm.
- Hình ảnh Chúa Giêsu nhập thể.
- Hình ảnh Chúa Giêsu cứu độ.
- Hình ảnh Chúa Giêsu Thánh Thể.
1/ Làm mới lại cách sống mầu nhiệm nhập thể
Khi bước vào ngày 30/4/1975, rất nhiều người công giáo đã cảm thấy bầu trời quá mới. Nhiều e ngại đã được đặt ra: Không biết đạo Chúa sẽ còn tồn tại ở Việt Nam được bao lâu nữa?
Nhưng giữa những hoang mang như thế, Chúa Giêsu đã vẫn ở lại với con cái Người. Một trong những cách Người ở lại là làm mới lại cách sống mầu nhiệm nhập thể.
Noi gương Chúa Giêsu nhập thể, nhiều cá nhân, nhiều nhóm, nhiều cộng đoàn đã sống mầu nhiệm nhập thể một cách cụ thể và sâu sắc.
Như Chúa Giêsu, họ tình nguyện mặc lấy thân phận kẻ hèn mọn.
Họ tình nguyện trút bỏ mọi vinh quang. Họ tình nguyện sống giữa đám đông bình thường. Họ tình nguyện sống như phần đông nghèo túng.
Qua đời sống nhập thể, họ mang đến cho những người xung quanh tình thương và chân lý của Chúa Giêsu.
Chân lý và tình thương của Chúa được toả sáng qua nếp sống của những người sống mầu nhiệm nhập thể. Họ là người của một địa phương rõ rệt. Họ kính yêu gắn bó với mảnh đất mà họ gọi là quê hương của họ. Họ đồng hành một cách khiêm tốn và có trách nhiệm với những chặng đường lịch sử cụ thể. Họ sống trọn vẹn thân phận con người của lịch sử, chỉ trừ những gì là tiêu cực.
Nhờ sống mầu nhiệm nhập thể, họ gần gũi với đồng bào. Gần gũi không phải chỉ bằng sự hiện diện, mà nhất là bằng sự nhạy cảm với những gì xảy ra nơi đồng bào, bằng sự đồng cảm với những gì đồng bào cảm thấy, bằng sự linh cảm với những gì sẽ xảy ra cho đồng bào.
Sự làm mới lại cách sống mầu nhiệm nhập thể đã đem lại cho Hội Thánh Việt Nam một bộ mặt tươi trẻ của Phúc Âm.
2/ Cùng với sự làm mới lại cách sống mầu nhiệm nhập thể, Chúa cũng đã làm mới lại cách sống mầu nhiệm cứu độ
Mầu nhiệm cứu độ vẫn hoạt động trong Hội Thánh Việt Nam từ lâu rồi. Nhưng biến cố 30/4/1975 đã là cơ hội để mầu nhiệm cứu độ được thời sự hoá với những cái nhìn mới.
Thay vì chủ trương bảo vệ nguyên trạng và đắc thắng, nhiều người nhiều nơi đã được Chúa cho thấy cần phải chủ trương sám hối, canh tân và hoà giải để cứu độ.
Thay vì chủ trương đào sâu hận thù, loại trừ và nghi kỵ, nhiều người nhiều nơi đã được Chúa cho thấy cần phải có thiện chí gần lại bên nhau trong bao dung, kính trọng và yêu thương để được cứu độ.
Những ai sống mầu nhiệm cứu độ đã thấy chính bản thân mình, chính Hội Thánh mình, chính Quê Hương mình có thể cùng nhau nhìn vào những gì chung để cứu độ, như cứu khỏi mọi hình thức sự ác ngăn cản việc thăng tiến con người. Những hình thức sự ác có thể ở khắp nơi, nơi những người ngoài Hội Thánh và cả nơi những người trong Hội Thánh.
Từ 30/4/1975 đến giờ, nhiều nơi đã chứng kiến sự lan rộng của hình ảnh Chúa cứu độ. Chứng kiến không qua lý thuyết, mà qua gặp gỡ và hiểu biết. Không ít giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đã được đồng bào lương giáo yêu thương. Họ được nhìn như những người cứu độ. Cứu độ về nhiều phương diện, nhưng nhất là về mặt yêu thương, kính trọng. Yêu thương và kính trọng nhau đã cứu khỏi những thành kiến hận thù, nghi kỵ. Nhờ dấn thân yêu thương khiêm tốn, họ trở thành người của tất cả mọi người, không phân biệt lương giáo, có tôn giáo hay không có tôn giáo.
Hiện nay, cuốn sách được bán chay nhất tại địa phương tôi là "Trên cả tình yêu" của Mẹ Têrêsa Calcutta. Những người mua sách phần đông là ngoài công giáo. Họ nhìn Mẹ Têrêsa là con người cứu độ. Đọc xong, họ tìm hình ảnh Mẹ trong địa phương này. Họ đã không ngã lòng. Họ đã tìm thấy một số hình ảnh thân thương đó. Và hình ảnh đó đã đưa tới hình ảnh Chúa Giêsu cứu độ.
Tiếp theo sự đổi mới cách sống mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm nhập thể, là sự đổi mới cách sống mầu nhiệm Thánh Thể.
3/ Làm mới lại cách sống mầu nhiệm Thánh Thể
Từ biến cố 30/4/1975 đến giờ, tôi thấy tại Hội Thánh Việt Nam có một biến chuyển về cách sống mầu nhiệm Thánh Thể.
Mới ở chỗ:
- Nhiều người tập trung vào Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể hơn trước.
- Nhiều người để ý nhiều hơn đến việc sống kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể.
- Nhiều người thực hiện nhiều hơn việc tạ ơn, sám hối và đền tội với Chúa Giêsu Thánh Thể.
- Nhiều người áp dụng nghiêm túc hơn giới luật yêu thương của Chúa Giêsu Thánh Thể.
- Nhiều người đã sống khiêm tốn bé nhỏ hơn trước, theo gương Chúa Giêsu Thánh Thể.
Sự đổi mới cách sống mầu nhiệm Thánh Thể thường được thực hiện một phần do sự đổi mới cách sống của những tư tế của Chúa. Khi các vị tư tế sống thực sự là người của phép Thánh Thể, thì bầu khí phượng tự, mục vụ sẽ ra khác. Sự kiện đó sẽ ảnh hưởng nhiều đến bầu khí xã hội.
Ba cách sống trên đây đã trình bày ba hình ảnh sống động của Chúa Giêsu: Chúa nhập thể, Chúa cứu độ, Chúa Thánh Thể. Ba cách sống này là chứng từ về Thiên Chúa chúng ta. Tất nhiên chúng ta sẽ phải đau khổ trên đường làm chứng. Nhưng chúng ta vững tin. Chúa luôn ở với chúng ta. Người đang đổi mới mọi sự theo thánh ý Người.
Xin khiêm tốn cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót đến muôn đời.
+GM JB Bùi Tuần
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 02:29)
Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân
(suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 6 phục sinh: Gioan 14,15-21)
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên nổ ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.
Thế nên, cậy dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
***
Chính Chúa Giê-su cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ. Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước gió, dễ dàng bị lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.
Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: "Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi.... Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 33-35)
Biết rằng xây dựng, vun đắp tình thương giữa người với người là điều rất khó; anh em ruột thịt trong nhà chưa dễ thương nhau, huống là yêu thương người ngoài hay thù địch. May ra vì lòng yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng, yêu thương và hiến mình chết thay cho họ, họ mới có thể đền đáp tình thương cao vời của Chúa bằng cách vâng lời Chúa và vì Chúa mà yêu mến tha nhân. Cần phải nại đến lòng yêu mến Thiên Chúa của con người để khuyến dụ con người vì Chúa mà yêu thương nhau.
Trong tâm tình đó, Ngài tiếp: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn Thầy truyền... là hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Kế đó, sợ các môn đệ chưa chú tâm đến những lời tâm huyết của mình, Chúa Giê-su lặp lại nội dung trên theo hình thức đảo ngữ: "Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy."
Qua những lời trên, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa thì hãy giữ điều Chúa truyền dạy là yêu mến tha nhân; chỉ những ai giữ luật yêu thương tha nhân mới thực sự là kẻ yêu mến Ngài. Cho dù chúng ta không thể yêu mến người khác vì họ khó thương, thì chúng ta cũng hãy vì lòng yêu thương Chúa mà đón nhận tha nhân như lệnh Chúa truyền.
Đó cũng là tâm tình mà chúng ta thường bày tỏ với Thiên Chúa qua kinh kính mến, xin hãy cùng khấn nguyện với nhau:
“Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.
LM Inhaxiô Trần Ngà
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 22:23)
CHÚA THĂNG THIÊN, năm A
Mt 28, 16-20
Chúa về trời đã trả lời dứt điểm những vấn nạn của con người: người ta sinh ra để làm gì ? Chết rồi con người đi đâu ? Những câu hỏi ấy đã được giải mã rõ ràng. Chúa về trời, ra đi về với Chúa Cha và dọn đường cho các môn đệ, cho mọi người:” Vì Người ở đâu các con cũng sẽ ở đó với Ta “. Sau những ngày tháng sống lại, Chúa Phục Sinh luôn hiện giữa các môn đệ, để minh chứng Ngài đã sống lại thật và qua đó các môn đệ sẽ nhìn nhận Chúa đã sống lại thật như lời Ngài đã tiên báo trước. Hôm nay, Chúa Phục Sinh từ giã các môn đệ để về với Cha của Ngài, các môn được Ngài ủy thác sứ vụ tiếp tục công trình cứu thế của Ngài:” Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy” ( Mt 28, 18 ).
CHÚA VỀ TRỜI SAU 40 NGÀY Ở VỚI CÁC MÔN ĐỆ:
Thực tế, con số 40 sau ngày Chúa Phục Sinh có một ý nghĩa hoàn toàn vượt lên trên hình thức của một con số. Số 40 này trong Thánh Kinh chỉ định một thời gian có thời hạn, thời gian Thiên Chúa hoàn thành công việc của Ngài. Thánh Matthêô kể lại việc Chúa về trời xẩy ra trên một ngọn núi. Đối với thánh Matthêô mọi biến cố quan trọng Chúa làm đều bắt nguồn từ trên núi: bài giảng tám mối phúc thật (Mt 5, 1 tt ), Chúa Biến Hình ( Mt 17, 1tt ). Núi là nơi gặp gỡ Thiên Chúa như Môsê đã gặp gỡ Chúa trong bụi gai trên núi. Núi là nơi con người gặp Thiên Chúa để tôn thờ và làm vinh quang Ngài. Chúa về trời để chỉ những hành động cuối cùng của Ngài đã hoàn tất nơi trần gian. Chúa về trời, Ngài đã để lại một lời hứa thật quan trọng để dù Ngài có ra khỏi thế giới này trong thân xác hữu hình, Ngài vẫn luôn hiện diện với con người, với thế giới cho đến tận thế. Chúa Phục Sinh sau khi đã về với Chúa Cha sẽ sai Thánh Thần của Ngài xuống trên Giáo Hội. Chúa về trời không phải chấm dứt tại đó, nhưng Ngài đã sai các môn đệ: ” Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” ( Mt 28, 18-19). Chúa về trời nhưng đây lại là ngày khởi đầu lên đường rao giảng Tin Mừng của các môn đệ.Hôm nay đây, các môn đệ vâng lệnh Chúa Phục Sinh, ra đi chinh phục con người. Các Ngài trở thành những ngư phủ lành nghề lưới người. Các Ngài ra đi chinh phục thế giới bằng lời rao giảng, bằng phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Các môn đệ ngơ ngác nhìn Chúa về trời, rồi các Ngài ý thức sứ mạng Thầy mình trao phó, họ xuống núi trở về xây dựng Giáo Hội.
SỨ MẠNG RAO GIẢNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ CŨNG LÀ SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH, CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA:
Khi sai các môn đệ rao giảng, Chúa muốn các Ngài trung thành trao ban cho muôn dân, cho mọi người những gì các Ngài đã lãnh nhận nơi Chúa. Điều trao ban cho muôn người không gì ngoài Tình Yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu như thánh Gioan nói. Tình yêu vô biên, hy sinh, tự hiến:” Không Tình Yêu nào cao vời bằng Tình Yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ).Chính vì yêu mà Con Thiên Chúa đã mặc xác phàm làm người. Chính vì yêu mà Chúa đã gánh tội cho nhân trần, cho con người, cho mỗi người. Và cũng chính vì yêu, Chúa đã giang tay chịu đóng đinh trên Thập Giá, để lại Thịt và Máu làm bánh trường sinh nuôi sống loài người, nuôi sống mỗi người. Chúa không ước mong gì hơn là nhân loại hãy sống giới luật yêu thương:” Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con (Ga 15, 17 ).” Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau “. Yêu thương như Chúa nghĩa là dám hy sinh mạng mình vì người mình yêu, dám lấy Thịt Máu mình nuôi sống người mình yêu. Chúa trao sứ mạng rao giảng cho các môn đệ và hứa đưa các Ngài về trời với Ngài. Do đó, Chúa cũng đang mời chúng ta rao giảng và cùng về trời với Ngài, nhưng rao giảng là làm sống lại chân lý tình thương của Chúa và về trời không riêng lẻ cho một ai mà Chúa đang mời gọi chúng ta về trời cùng với anh em chúng ta khi chúng ta xây dựng thành công một cộng đồng đầy ắp tình yêu thương. Chúa trao sứ mạng:” Rao giảng cho muôn dân “ nghĩa là Chúa muốn chúng ta làm sống lại đời sống yêu thương của Chúa để tất cả mọi người đều có một Cha chung trên trời, đều sống tình huynh đệ với nhau không còn hận thù, không còn tranh giành, chia rẽ, hờn oán và chiến tranh nữa.Sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa trao cho con người, cho mỗi người Kitô hữu là sứ mạng cao cả, con người không chỉ nói suông, nói trên bờ môi chóp lưỡi về Chúa mà còn phải sống bằng chính gương sáng đời sống Kitô của mình để ai ai cũng nhận ra chúng ta là chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa.
CHÚA VỀ TRỜI. MỘT BIẾN CỐ CỨU ĐỘ :
Chúa về trời giúp chúng ta xác tín sâu xa rằng Ngài đã hoàn tất công trình cứu độ Chúa Cha trao phó cho Ngài ở trần gian này. Chúa Giêsu đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha.” Lạy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này đi nhưng đừng theo ý Con mà theo ý Cha”. Chúa về trời để chuẩn bị sai Chúa Thánh Thần đến với Giáo Hội. Biến cố Thăng Thiên giúp mọi Kitô hữu nghĩ đến tương lai và niềm hy vọng của mình.Nhìn về trời không có nghĩa là sao lãng công việc trần thế nhưng càng lúc mọi Kitô hữu phải nhớ đến lời Chúa và những thực tế của cuộc đời này:” Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời ”.Quả thực, Chúa Giêsu đã sống giữa chúng ta, đã sống ở Nagiarét, ở các vùng Galilêa, Giêsrusalem, đã đi qua nhiều con đường mà nhiều người Do Thái đã đi qua: Samaria, Capharnaum vv…Và đó là những nét Tin Mừng đã nói về Chúa Giêsu, như một con người sống giữa thế giới này và bây giờ đã về trời. Biến cố Chúa về trời mang một ý nghĩa rất sâu xa: Ngài sống trong mầu nhiệm khôn dò của Ba Ngôi Thiên Chúa và Chúa Phục Sinh là khát vọng, là niềm hy vọng của mọi người. Và như thánh Phaolô viết:” Đức Kitô, Đấng đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” ( 2 Co 5, 15 ).
Lạy Chúa xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con: ” Đem niềm vui đến chỗ ưu sầu. Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 19:05)
3. Khi Thiên Chúa tuyển chọn một người làm một công việc, thì nhất định Ngài sẽ ban ân sủng cho họ trước, khiến họ có thể hoàn thành công việc ấy của mình.
(Thánh Thomas Aquinas)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 19:03)
NGƯỜI CHĂN NUÔIYêu đàn chiên hoàn toàn không có nghĩa là tỏ ra trong ngày nghỉ cho chúng nó ăn kem cốc.
Điều này tỏ rõ chúng ta thấy lúc nào cũng phải chuẩn bị vì đàn chiên mà hy sinh danh dự, thậm chí hy sinh đến cả tính mạng của mình. Bày tỏ chúng ta đem chính mình hoàn toàn trao cho đàn chiên, tuyệt đối không phải hệ tại luật lệ nào đó hoặc che chắn bịt miệng để chạy trốn, bởi vì đó chính là sự kháng cự hoặc chống lại cách chân chính vì cộng đoàn mà giáo phó bản thân mình.
Đàn chiên -rất nhanh- thì có thể biết được ý người nào thực sự quan tâm đến họ cách sâu sắc: đó là sự rộng mở, lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe... Mục tử nhân lành phải luôn đón tiếp và rộng mở, bởi vì họ quan tâm đến đàn chiên của họ, và tự nguyện vì đàn chiên mà bị tổn hại đến mình.
Đàn chiên có thể phân biệt được người mục tử chân chính quan tâm đến họ và người mục tử khi gặp khốn khó thì tháo chạy bỏ mặc họ. Khi người cha tình nguyện tử bỏ việc được thăng cấp, thì ông ta cũng không muốn bớt đi thời gian chăm sóc gia đình của họ, con cái có thể nhìn thấy sự hy sinh của bố mẹ dành cho chúng nó.
Con người ta rất dễ dàng cảm nhận được người mục tử là người quan tâm đến toàn thể cộng đoàn, mà không chỉ là quan tâm đến một hai đoàn viên, mà trong đó họ cảm thấy có “thú vị”.
Có một vài thầy cô giáo chỉ quan tâm đặc biệt đến một hai học sinh đặc biệt thông minh: họ không năng động đối xử với những học sinh khiêm tốn nhỏ bé, những học sinh khiếm khuyết, những học sinh bị tổn thương, những học sinh bị thất lợi, mà trên thực tế những học sinh này rất cần được họ quan tâm, và đáng được chiếu cố.
Tác giả: Ôn Lập Quang
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. dịch từ tiếng Hoa.
--------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
[email protected] [email protected]
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 19:01)
HOA BẢY MÀUTrân Ni cầm bánh mì trên đường về nhà, đột nhiên xuất hiện một con chó chạy đến, giựt mất cái bánh trong tay nó, Trân Ni thấy như vậy thì chỉ biết khóc mà thôi.
Lúc ấy, có một bà lão đến tặng cho nó một đóa hoa, trên đóa hoa có bảy cánh hoa với bảy màu khác nhau, bà lão nói:
“Nó có thể giúp cháu thực hiện bảy nguyện vọng.”Trân Ni cầm lấy đóa hoa, xé ra cánh hoa màu xanh và nói:
“Cánh hoa xanh, đem bánh mì trả lại cho ta, và đưa ta về nhà.”Chỉ chớp mắt, Trân Ni đã cầm bánh mì và hoa ở trong nhà. Nó nhón chân lên muốn cắm hoa vào trong bình hoa, nhưng vì không cẩn thận nên bình hoa rơi xuống đất và vỡ nát, Trân Ni vội vàng xé cánh hoa đỏ và nói:
“Cánh hoa đỏ, mau làm cho bình hoa hồi phục lại như cũ”, quả nhiên trong nháy mắt hoàn toàn trở lại như cũ.
Trân Ni đi vào trong sân, nhìn thấy một bọn trẻ em nam đang đùa giỡn trò “thám hiểm bắc cực”, nó xé ra cánh hoa màu xanh lam và nói:
“Nhanh, mang ta đến bắc cực !” lời vừa nói xong, trước mắt Trân Ni biến thành những tảng băng tuyết trắng xóa. Ở bắc cực, Trân Ni lạnh đến phát run, nó vội vàng lấy ra cánh hoa màu xanh lục và nói:
“Mau đưa ta về lại nhà !” không đợi Trân Ni phản ứng thì nó đã cầm hoa đang đứng trong sân nhà.
Tiếp theo, nó lại nhìn thấy bầy em bé gái đang đùa giỡn, trong lòng rất ngưỡng mộ, thế là xé ra cánh hoa màu tím và nói nó muốn tất cả đồ chơi của toàn thế giới. Kết quả, đồ chơi từ bốn phương tám hướng bay lại đầy cả trong nhà ngoài sân, lại còn không ngừng bay lại, Trân Ni vội vàng xé ra cánh hoa màu cam đem tất cả đồ chơi mất tiêu.
Lúc này, Trân Ni phát hiện mình chỉ còn dư lại một cánh hoa trên tay mà thôi, nó rất hối hận vì đã lãng phí nhiều cánh hoa. Lúc bấy giờ, có một em bé trai chống cái nạng đi đến, thế là Trân Ni cầm lấy cánh hoa còn lại và nói:
“Mau làm cho chân của em bé lành lại”, cái chân của em bé trai tức khắc khỏe mạnh, em bé trai và Trân Ni rất vui mừng và cùng vui đùa với nhau rất vui vẻ.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)Gợi ý:Các em thân mến,
Những chuyện để mình vui vẻ nhất không phải là đóng kịch diễn trò, cũng không phải là mình có đầy đủ tất cả các đồ chơi, nhưng chính là khi có thể giúp đỡ người khác, hoặc làm một vài công việc có ý nghĩa, đó chính là niềm vui thật.
Niềm vui lâu dài nhất chính là giúp đỡ người khác, và niềm vui trọn vẹn chính là tự nguyện làm một vài việc thiện.
Khi chúng ta tìm niềm vui qua những trò diễn kịch và khi màn kịch kết thúc thì niềm vui cũng kết thúc, khi chúng ta tìm niềm vui qua các đồ chơi, mà đồ chơi thì chơi hoài cũng nhàm chán, và thế là nhàm chán lại kéo theo nỗi buồn...
Là người Ki-tô hữu nên chúng ta có những niềm vui chân thực phát xuất từ lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, chỉ có lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu tha nhân mới có khà năng làm cho niềm vui của chúng ta nên trọn vẹn mà thôi, bởi vì như thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi đã nói rằng: khi cho đi là khi được lãnh nhận dồi dào.
Các em thực hành:- Để ý giúp đỡ một vài người bạn gặp khó khăn.
- Mỗi ngày cố gắng làm một việc thiện, như: thăm bạn bị bệnh, dẫn một người già qua đường.v.v...
- Vui cười khi làm việc thiện.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 10:27)
NGÔI LỜI TỎ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh (Ga 14,15-21)
Chung quanh chúng ta và ngay trong chúng ta, còn có rất nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhưng họ tin có Tình Yêu. Họ cũng đang yêu, đang khát khao được yêu. Họ đang sống nhờ tình yêu vợ chồng, cha mẹ, anh em, bạn hữu, và cả tình yêu tha nhân cộng đồng. Họ không thể thiếu tình yêu, nhưng họ chưa nhận ra Thiên Chúa vì họ vẫn cho rằng tình yêu trong mỗi con người là một khả năng tự nhiên, một nhu cầu tự nhiên. Họ không hiểu được cội nguồn siêu nhiên của tình yêu là Thiên Chúa, và có thể, họ đã thể hiện cách yêu tự nhiên ở một cấp độ dưới bản tính con người.
Kitô hữu công giáo được Chúa Giêsu mạc khải cho biết cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa và thật là diemx phúc khi được tuyên tín mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm trung tâm của các mầu nhiệm khác. Lý trí con người không thể hiểu thấu mầu nhiệm, vì mầu nhiệm chỉ được hiểu thấu khi con người chấp nhận để chính mình tan hòa trong mầu nhiệm ấy: Hòa Tan Trong Tình Yêu Ba Ngôi.
Bài tin mừng hôm nay-trong diễn từ từ biệt của Chúa Giêsu, trước lúc vào cuộc thương khó- được Mẹ Giáo Hội đưa vào tin mừng phụng vụ chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu về trời, cho thấy sự viên mãn của tình yêu Ba Ngôi đến mức tuyệt hảo. Nội dung bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ lời mời gọi tan hòa vào mầu nhiệm Ba Ngôi hơn là giải thích để hiểu được mầu nhiệm ấy. Đời sống và bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu ân cần bày tỏ trong lúc chuẩn bị rời bỏ các tông đồ, để các ông được tháp nhập vào mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,15-16). Lời tình tha thiết Chúa Giêsu muốn dặn dò các tông đồ là yêu mến và tuân giữ giới răn Người, để được Chúa Cha yêu thương và ban cho Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa Kitô tồn tại trong thế gian, và trong mỗi tâm hồn; sẽ làm cho Lời Chúa Kitô trở nên nguồn sống dồi dào và sống động cho giáo hội và cách riêng cho mỗi tâm hồn sẵn sàng đón nhận Ngài như Đấng Bảo Trợ cho ơn cứu rỗi của mình; sẽ làm cho chúng ta khi đón nhận Ngài, trở nên can đảm sống Lời Chúa Kitô và hiên ngang làm chứng cho Thiên Chúa. Vì “Ðó là Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”(Ga 14,17). Ôi! Còn hạnh phúc nào bằng khi được sống trong tình yêu vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa: yêu như Chúa Giêsu yêu, dưới ánh sáng của Thánh Thần, để dìm mình trong tình yêu Thiên Chúa Cha. Còn hạnh phúc nào bằng khi tình yêu của Chúa Giêsu vẫn luôn liên tục, không gián đoạn, mà còn dồi dào hơn và kéo dài cho đến ngày Người lại đến: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy"(Ga 14,20-21).
Tình yêu của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa thật tha thiết và Ngài tỏ bày tình yêu ấy cách trọn vẹn chu đáo cho các tông đồ, cùng là cho mỗi chúng ta hôm nay. Mỗi người được mời gọi tháp nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa qua việc Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người.
Nếu yêu mến Chúa Giêsu mà không tuân giữ điều răn của Người, thì không thể đón nhận thần khí, càng không thể đi vào huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người là yêu như Người đã yêu: Yêu thương người khác để người khác được sống và được sống lại
Nếu tình yêu của chúng ta là động lực để người khác sống được chỉ ở đời nầy mà thôi, thì ấy chưa phải là tình yêu của Chúa Giêsu. Việc bác ái đối với tha nhân nếu chỉ dừng lại ở việc xây cái nhà tình nghĩa, giúp đồng vốn vượt khó, giúp xóa nợ lâu năm… thì có thể nói, cũng chưa phải là việc bác ái Kitô giáo đúng nghĩa. Tình yêu Chúa Giêsu đòi hỏi vượt xa hơn thế nữa: yêu người để người được sống và được phục sinh. Vì thế, làm cho người khác có một cuộc sống mới, cuộc sống bình an thánh thiện, cuộc sống phục sinh ngay ở đời nầy là tiêu chuẩn của tình yêu và việc bác ái mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện. Rất tiếc, ở những đất nước đang sống trong một nền giáo dục không Thiên Chúa, con người cũng có tình yêu, tình yêu cũng được giáo dục, nhưng là loại tình yêu tự nhiên dừng lại ở những gì cho nhau ở đời nầy, và hầu như không màng đến cái chung cuộc ở đời sau. Thế hệ trẻ được giáo dục yêu nhau như người lớn đã yêu, và đã chết, không cần biết đi về đâu, miễn là đã yêu và đã sống trong cuộc đời nầy thoải mái. Tình yêu ấy, cách yêu ấy không phải là cách yêu của Chúa Giêsu, vì không bắt nguồn từ Thiên Chúa và càng không thể nào dẫn đến sự tan hòa trong cội nguồn tình yêu là ba ngôi Thiên Chúa để tình yêu ấy sống, và sống mãi muôn đời.
Để gia đình được sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, vợ chồng không chỉ yêu thương tôn trọng chung thủy và lo lắng cho nhau sống hạnh phúc đời nầy; cha mẹ không chỉ hy sinh lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái chữ…mà còn lo cả nhà sum họp trên nước trời, về với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Yêu như Chúa Giêsu là làm cho người khác sống và sống lại. Giữa xã hội tôn thờ vật chất ngày nay, đây là một thách thức không nhỏ. Giữa nền giáo dục loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng trí con người, đây là một thách thức không nhỏ. Nhận định của ban giáo lý GP. Qui nhơn: “Không còn trường Công Giáo. Xuất thân từ trường nhà nước, các bạn trẻ từ 40 tuổi trở xuống đã được trang bị những cái nhìn về Thiên Chúa, về con người, về vũ trụ, về lịch sử, về xã hội và về cuộc sống rất khác với cái nhìn Kitô giáo” làm cho những người làm cha mẹ phải nghĩ đến vế thứ hai của tình yêu Chúa Giêsu “yêu làm cho người khác phục sinh”. Người khác ấy chính là người bạn đời, con cái mình, trước tiên. Không chỉ người trẻ, mà có cả người lớn, cũng cần nhìn lại thực trạng đau lòng nầy: người ta cũng đang yêu, nhưng là tình yêu đưa nhau vào hố thẳm của tội lỗi, của sự chết ngàn thu; nhưng là tình yêu vun quén cho chính mình, cho tập đoàn mình, cho những người đồng tình, đồng phe, đồng đảng với mình những mối lợi mối mọt có thể gặm nhấm, những kho tàng không có sức phục sinh; nhưng là tình yêu thỏa mãn những thú tính…. Tình yêu phải là hoa quả của việc kết hiệp bản thân với Thiên Chúa, tiến đến việc giúp nhau nên thánh thiện nhờ việc tuân giữ toàn bộ Lời Chúa Giêsu trong tin mừng, để được chiếm hữu tình yêu ba ngôi Thiên Chúa, để được sum họp với nhau một nhà ở đời sau, ấy mới là tình yêu của một nền giáo dục Kitô Giáo, tình yêu mà Chúa Giêsu tha thiết dặn dò trên trang Tin Mừng hôm nay.
Trở lại với trào lưu có tình yêu mà không tin có Thiên Chúa, và qua những suy tư trên đây, chúng ta có thể thấy được một âm mưu của thế lực chống lại Thiên Chúa dùng chính tình yêu làm nhản hiệu cho một công cuộc thoái hóa, hoặc chống lại tình yêu đích thực. Sự rạn nứt nội tại nơi tâm hồn các tín hữu bắt nguồn từ tình yêu dành cho thế gian, vật chất nhiều hơn dành cho Thiên Chúa và dần dần lề luật của Thiên Chúa, lời dạy của Tin Mừng, bóng dáng của Thiên Chúa cũng mờ dần trong tâm trí họ-mờ dần rồi biến mất lúc nào không hay biết.
Vì thế, việc chân thành khao khát sống kết hiệp với Chúa Giêsu, giữ Lời Chúa dạy trong Tin Mừng làm mực thước, rước lấy Thánh Thể Chúa làm sức sống thiêng liêng mới là bảo đảm cho phần rỗi chúng ta và bảo đảm cho việc thực hiện các điều răn Chúa dạy, nhất là đức ái. Nói một cách khác, trước khi yêu người như Chúa muốn, hẳn chúng ta phải yêu Chúa để sống và yêu được như Chúa yêu, thì tình yêu cho đi, thì việc thực hiện các điều răn của Chúa mới thực mang lại cho chúng ta một giá trị cao cả: sống trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Yêu mến Chúa Giêsu để nên thánh: chiếm hữu được Thiên Chúa. Tuân giữ điều răn Chúa: giúp cho người khác nên thánh, giúp cho người khác chiếm hữu được Thiên Chúa. Nếu không, hãy coi chừng tình yêu và việc bác ái của ta lại rơi vào kế hoạch của những giả dối, dẫn đến cái vô ích cho mình và cho tha nhân.
Lạy Chúa, chúng con thật diễm phúc được Chúa Giêsu dạy cho chúng con cách sống yêu, để cuộc đời chúng con nên một chuỗi ngày hạnh phúc vì khi sống yêu, là chúng con sống trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa chí ái. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người dạy để Lời Mạc Khải, Lời Tỏ Tình Thiên Chúa của Người không trở nên uổng phí cho phần rỗi chúng con. A men.
Pm. Cao Huy Hoàng
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 15:22)
Những viên đạn vô tình!
Vào năm 1866, sau khi nhà Bác học Alfred Nobel, người Thuỵ Điển (1833-1896) mày mò tìm cách làm ra một loại chất nổ mới (dynamite), được thử nghiệm để khai thác các quặng mỏ, và đúng là nhờ sức công phá của nó mà việc khai thác có hiệu quả hơn. Thế nhưng, con người với những tham vọng trong lãnh vực quân sự, liền tận dụng tối đa các kỹ thuật về chất nổ vào “công nghiệp chiến tranh”!
Trước đó rất lâu, khoảng thế kỷ 14-15, người ta đã biết cách làm ra thuốc nổ nhẹ, thuốc súng. Từ những viên đạn thời sơ khai của súng “hoả mai”, nhồi nhét thuốc nổ vào nòng súng bắn từng viên nghe lẹt đẹt, những khẩu đại pháo nặng hàng tấn đặt cố định hay nhẹ hơn được kéo trên bánh xe ngựa, mỗi lần bắn phải châm lửa khói toả mịt mù, rồi đến súng trường bắn hàng loạt, súng cối đặt trên xe tăng, tàu thuỷ, tàu bay và cuối cùng người ta còn gắn nó vào hoả tiễn để phóng đi xa hàng ngàn dặm! Chất nổ theo thời gian quả thực là một phát minh “khủng khiếp”, lợi thật nhiều mà hại cũng chẳng ít, ngay cả người em ruột của ông Nobel cùng với một số nhân công đã bỏ mạng trong xưởng chế tạo chất nổ vào năm 1864. Có lẽ vì thế ông Nobel mới để lại gia tài bạc triệu của ông vào thời đó (khoảng hơn 4 triệu đô la Mỹ), dành cho việc phát giải thưởng đến những ai mang lại hoà bình, phát kiến những điều hữu ích cho nhân loại.
Nói đến bom đạn là nói đến một vật vô tri vô giác mà ai thấy cũng nơm nớp lo sợ, tất nhiên là nó chẳng bao giờ có mắt cả, nó “đi” đâu thì chỉ có người bắn nó biết mà thôi! Có khi người bắn ra cũng chẳng biết nó đi đâu nên mới có người bị…“lạc đạn”! Dân Việt Nam trong thời chiến tranh hầu như ai cũng biết ít nhiều về bom đạn, có những người còn rành nghe, phân biệt được tiếng các loại đạn khác nhau nữa, và cũng có rất nhiều người đã “nếm” mùi bom đạn, trên thân thể còn lưu lại những “vết thương đau” của một thời quê hương điêu linh khói lửa!
Miền Nam thời chiến tranh trước 1975, những “đêm nghe tiếng đại bác” chen lẫn với tràng đạn tiểu liên M16 hay AK54 dòn tan, đã trở thành một bản nhạc “hòa tấu” quen thuộc của người dân trên mọi miền đất nước. Có người đêm nằm ngủ giật mình thức giấc vì một tiếng “xoẹt” trên mái tôn, chẳng biết cái gì, sớm mai thấy mái tôn lủng một lỗ, tìm xem thì thấy một cái mũi đạn bẹp dúm trong góc nhà! Phúc bảy mươi đời là nó không rớt trúng người! Chuyện lạc đạn kiểu đó thì có lẽ rất nhiều trong dân chúng thời chiến tranh.
Ở những thôn làng gần các khu rừng hoang, phải nói là tội nghiệp cho các cô cậu đi bò, hàng ngày lang thang khắp chốn đồng quê, chẳng biết bom đạn đâu mà tránh, đã có em đi lạc vào bãi mìn “quanh năm nằm im chờ …địch” và chẳng may lại vấp phải “thần chết”! Cũng đã có những em thiệt mạng vì trái bom bi, cả đời chẳng biết trái bom bi mặt mũi ra sao, đi bò sát mé rừng thấy một cục sắt màu mè trông đẹp mắt, cầm lên cũng chẳng thấy “động đậy” gì cả, bèn cùng nhau hí hửng liệng chơi, chẳng biết đến “ngày giờ” ra sao mà nó phát nổ. Có em còn nhỏ, lân la chơi sát lũy tre mấy cổng làng thấy lựu đạn gài bằng cây kim găm, chẳng biết nguy hiểm gần kề thò tay rút cây kim để chơi không ngờ lựu đạn nổ!
Đó là chưa kể đến những vùng quanh năm có “đụng độ”, dân làng mang họa vì những quả đạn không biết phân biệt “đâu là địch, đâu là ta”, có thể những người lính cả hai bên trong cơn hăng máu mùi thuốc súng đã bắn bừa trúng đâu thì trúng! Và thật là oan nghiệt, những viên đạn quả đạn được bắn đi từ những hằn thù phi lý, những ý niệm mơ hồ về mục đích đã trật những mục tiêu dự định, thay vào đó là những người dân lành hứng chịu hậu quả!
Năm 1968, chẳng biết “vô tình” hay “cố ý”, một số quả đạn súng cối “phía bên kia” đã rơi vào làng xóm Bình Giã, có những quả “mon men” rơi sát bên hồi nhà, nghe đâu có một hay hai quả đã “tận tình chiếu cố” xuyên mái tranh rớt giữa nhà dân! May mắn là những quả đạn này đã “tịt ngòi” trước khi rơi xuống đất, nên hầu hết không phát nổ! Nếu không thì lần đó chưa biết bao nhiêu chiếc khăn tang được mang lên đầu trong dịp mừng Xuân mới! Bà con Bình Giã tin rằng nhờ ơn trên của Đức Mẹ Maria che chở nên đã bình an vô sự, một Tượng Đài Đức Mẹ đã được dựng lên trong dịp này tại khuôn viên Thánh đường Giáo xứ Vinh Châu, trung tâm xã Bình Giã để tạ ơn Đức Mẹ.
Sau những năm chiến tranh, có lẽ khắp mọi miền trên đất nước Việt Nam đều đầy những vỏ đạn, mảnh bom và cả những quả bom, mìn, lựu đạn…chưa nổ, vùng đất thân yêu Bình Giã cũng không thiếu những thứ đó. Những ngày cuối của cuộc chiến vào tháng Tư năm 1975, súng đạn các loại bị bỏ lại khắp nơi, chẳng ai muốn thu nhặt cái “của nợ” đó để đem về nhà cả, chỉ có lớp choai choai “hí hửng” và “lặng lẽ” lấy đem vào rãy đốt nổ nghe chơi cho vui!
Rất nhiều cu cậu đã vì khoái nghe tiếng nổ của đạn mà phải mang tật nguyền. Trước 1975 đạn M16 ở đâu cũng có, hầu hết các ông, các thanh niên trong làng đi Nghĩa quân, đạn cấp phát cho dư giả, lớp đi bắn chim, lớp mang về để ở nhà, các cậu nhóc chừng mười, mười hai tuổi vớ lấy đi ra vườn ra rãy đốt chơi. Các cậu cạy mũi đạn một viên, đổ bớt thuốc súng ra, nhét cái mũi đạn vào trong các-tút rồi đổ lại thuốc súng cho đầy, một viên khác để nguyên được cắm mũi sâu xuống đất, viên kia đặt chồng lên, hai cái hạt nổ giáp nhau, thế rồi châm lửa, nghe một tiếng nổ của cả hai viên đạn cùng lúc “thật sướng cái lỗ tai”! Viên đạn nằm trên thì bay bổng lên trời, viên nằm dưới thì bể toác ra làm bung cả một mảng đất “thật sướng cái con mắt”!
Một cách thông thường nữa của các cậu là dùng cái súng kéo tay để bắn, lọai súng nhỏ này bằng nhựa cứng của quân đội, dùng vào việc bắn pháo hiệu cầu cứu, cậu nào không có thì biến chế một cây súng tương tự với dây thun kéo “kim hoả” bằng khúc kẽm gai mài nhọn và mấy cái nẹp tre để giữ viên đạn. Bắn lọai súng “tự chế” này phải cạy mũi đạn ra đổ bớt thuốc, nếu không sức nổ làm “toét” các-tút, bung cả “súng”! Mũi đạn chỉ bay đi chừng mươi lăm mét, nhưng vậy là thích quá rồi! Đã có nhiều cậu đã vì táy máy những viên đạn kiểu này mà mấy ngón tay tươm máu, có khi “mất vài lóng”, tệ hại hơn một con mắt không bao giờ thấy lại ánh mặt trời!
Ở những vùng đất quanh vòng rào tre Ấp chiến lược Bình Giã trước 1975, gần những lô cốt cổng làng thì phải nói đã một thời mìn, lựu đạn nằm la liệt, và không ít bò me đã phải khiêng về làm thịt vì đạp phải lựu đạn. Chập tối, bò nhà mình chưa về, mà lại nghe một tiếng nổ phía cổng làng là lo thót ruột, chưa biết bò nhà ai đây? Cha mẹ thấy đã chiều tối mà thằng cu con đi tìm bò chưa về, đã hơi lo lắng, nếu nghe tiếng lựu đạn nổ thì “hồn vía lên mây”, liền bỏ dở công việc đó chạy tất bật ra phía cổng làng để nghe ngóng coi con mình ở đâu! Có khi vừa chạy vừa cầu xin “của đi thay người”, bò có chết thì chết miễn thằng con bình an vô sự là mừng! Đã có lần bà con làng Ba vào lúc chập tối nghe tiếng mìn nổ phía góc Bình Linh (khóm Nhân Hòa) khoảng năm 1973, hai anh em con ông bà C… đi tìm bò về đạp phải mìn, cả hai chết tại chỗ! Thật là thảm thương!
Sau năm 1975, bà con chặt phá hàng rào tre vì cũng không còn cần thiết nữa, lúc đốt cháy những bụi tre, đạn nổ đì đạch, lâu lâu cũng có một quả lựu đạn nổ vang! Nguy hiểm nhất là một số đạn M79 bắn ra mà chưa nổ, mấy quả đạn này nằm rải rác, đã có người phát rãy, cuốc đất trồng cây đúng quả đạn này nó phát nổ làm bị thương, có khi mất mạng. Thời điểm 1975, còn có cả những những quả M72 bỏ rải rác trong các bụi chuối, bờ ruộng rãy, những quả đạn này bị bỏ lại trên đường rút lui của lính trận. Hồi đó, mấy cậu choai choai dọn rãy, thấy M72 trong bụi chuối bèn lấy ra bỏ vào đống cây rồi đốt lửa chờ nổ nghe chơi, ai ngờ quả đạn M72 bị đốt nó không nổ tại chỗ mà chẳng biết sao nó bay đi cả trăm mét rồi mới nổ, may mắn chẳng ai bị gì cả. Rút kinh nghiệm mấy quả sau các cậu chúi đầu đạn xuống đất cho nó khỏi “phiêu diêu” như lần trước!
Lựu đạn thì tìm thấy nhiều hơn, các cậu vặn cái đầu nổ ra, đốt cháy thuốc nổ trong bầu đạn, rồi thả xuống khe suối, sau đó đi dọc khe suối lượm cá bị “say thuốc đạn” đỏ con mắt nằm lờ đờ, có khi nổi lên mặt nước! Có cậu gan dạ hơn, rút chốt thảy xuống mấy vũng nước sâu, lựu đạn nổ xong thì xách bao tới hốt cá!
Lâu lâu tìm được một quả đạn cối 105 ly, các cậu cũng cho vào đống củi rồi đốt, quả này thì đặt đâu nằm đó nổ, chứ không “lang thang” rồi mới nổ như M72, và cũng tìm thấy nhiều hơn loại M72. Nói chung là các cậu mười lăm, mười bảy của những ngày tháng trước 1975 rất quen thuộc với các lọai đạn, và cũng chẳng mấy cậu sợ những thứ “không có trí khôn” đó!
Bom đạn đã gây bao nhiêu cái chết, vết thương tật nguyền cho con người! Vậy mà có một thứ vô tri vô giác cũng mang đầy “mảnh đạn” trong thân mình, để lại những “vết sẹo suốt đời” nữa! Đó là…cây rừng!
Trước 1975, ở cổng chính làng Ba, Bình Giã có một trại cưa máy, xe “be” chở gỗ rừng vể đổ lan ngan nơi mấy khoảng đất trống ngoài cổng làng, trại cưa suốt ngày ồn ào tiếng máy, lâu lâu nghe một tiếng “rẻng” vừa chói tai vừa rờn rợn, làm lũ nhỏ đi bò ghé coi cưa máy giật mình, thì ra giàn cưa máy đụng phải mảnh bom găm trong cây gỗ! Đụng mảnh bom như thế là phải ngừng cưa, thay lưỡi khác, có khi nó làm đứt ngang lưỡi cưa! Mặc dù mấy người thợ cưa rất kinh nghiệm trong chuyện này. Họ xem xét kỹ những cây gỗ, nhìn vết sẹo họ đoán biết có mảnh bom trong thân không, họ dùng búa, rìu khoét chỗ đó để moi cái “của nợ” ra. Trăm lần đúng cũng có một lần sai, và cái tiếng “rẻng rẻng” phát ra là do “sự cố” đó!
Khoảng năm 1978, lúc đó bà con Bình Giã bắt đầu phát rãy trồng trọt, cây gỗ rừng được xe bò chở về làm củi, làm cọc trồng tiêu, cưa xẻ ra làm nhà, các nhóm “cưa líu” của đám thanh niên mọc ra như nấm, chỉ cần một bóng cây, hay che đỡ tấm bạt, là mấy cặp cưa líu xẻ từng khúc gỗ ra thành cột, thành xà…thành ván mỏng để làm nhà, và các thợ cưa líu cũng đã nhiều phen phải khốn đốn vì mảnh bom nằm trong thân cây gỗ!
Đi rừng, nhìn những cây gỗ thẳng băng như Bằng lăng, nhưng lại đầy vết sẹo của mảnh bom, mấy cây này chỉ làm củi, chứ cưa xẻ ra gỗ cũng hư hỏng nhiều. Có khi gặp một cây Gõ đỏ, hay Cẩm lai rất thẳng thớm đẹp mắt, nhìn trên thân cây cũng mang mấy vết sẹo do bom gây ra. Hầu như những khu rừng quanh Bình Giã, không có chỗ nào cây cối không “bị thương” do bom đạn! Chiến tranh để lại cho con người những đau thương, mang những vết sẹo trên thân xác, trong tâm hồn có khi suốt đời người, và ngay cả cấy cối cũng không tránh khỏi những vết tích “khốn khổ” đó!
Ở những vùng quê khác, bà con còn tìm thuốc nổ để bán, bằng cách cưa những trái đạn 105 hay 255 ly hoặc những quả bom nằm nơi đồng ruộng. Có người kể chuyện cưa loại này giống như “cưa cổ Thần Chết”! Nó nằm im chịu cưa là mình sống có tiền, nó mà “vùng dậy” coi như mình đi đời nhà ma! Người kinh nghiệm cưa bom nói, lưỡi cưa sắt phải mới, sắc bén, vừa cưa vừa đổ ít nước cho khỏi sức ma sát gây xẹt lửa phát nổ, và cũng vừa vừa nước thôi, kẻo ướt hư mất một lượng thuốc nhiều! Và không ít người “thiếu kinh ngiệm làm ăn với Tử Thần” đã phải theo chân “Thần Chết” làm đệ tử vì cưa bom đạn kiểu này!
Bà con Bình Giã cũng đã có người mất mạng vì “thuốc nổ” dưới giếng sâu! Giếng cần đào sâu thêm vài mét mới đủ nước tưới tiêu, mà đáy giếng thì lại gặp đá “bàn”, đá khối, chỉ còn cách moi lỗ đặt thuốc nổ thì mới mong đào sâu thêm. Sau khi nổ vài ngày, xuống giếng hốt đá lên chẳng may ngạt thở ngất xỉu dưới giếng, và người ở trên vừa lúng túng vừa chẳng dám xuống giếng cứu, nạn nhân dưới đáy giếng đành phải về “chầu Chúa”! Khí độc từ thuốc nổ còn tích tụ lại dưới đáy giếng rất nhiều đã làm chết người rất mau lẹ!
Đến hôm nay, đã qua đi hơn ba mươi năm sau chiến tranh, nhưng vẫn còn rải rác đâu đó những bom đạn còn sót lại, lâu lâu lại nghe tin người bị thương hay chết vì bom đạn ngoài ruộng rãy. Chỉ có cây rừng, hầu hết đã bị triệt hạ để thành đồng ruộng, nên gỗ vùng Bình Giã không còn, và chẳng bao giờ dân mình có dịp nghe lại tiếng “rẻng rẻng” đau thương của lưỡi cưa líu chạm mảnh bom trong cây gỗ nữa!
Đặng Xuân Hường
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 09:18)
Ông 13
Hải gọi điện thoại hẹn tôi chiều Thứ Sáu đến nhà hàng Hương Quê ở Eden tham dự “tiệc về hưu” của chú Đức do nhóm nhân viên người Việt ở TRW (bây giờ là Northrop Grumman) khoản đãi, và chú ấy “bắt” Hải mời tôi đến cho bằng được vì chính tôi đã “cho” chú ấy công việc ở TRW. Tôi “đánh trống lảng” rằng mình đã quên mất chuyện đó, và cũng không còn nhớ chú Đức mặt mũi ra sao nữa. Hải lên giọng:
- Bố khỉ! Cậu mà quên được “Ông 13” thì cũng lạ thật! Làm sao cậu lại quên được cái ông “13 năm lính, 13 năm tù” hồi đi phỏng vấn xin việc cứ đòi dẫn theo thông dịch viên đó.
- Dỡn cậu tý thôi chớ làm sao tớ quên được chú Đức.
- Thế chứ... Bây giờ bọn mình cộng thêm cho chú ấy một con số 13 nữa nên mới làm tiệc mời cậu.
- 13 gì nữa?
- Thì tính đến ngày về hưu vào cuối tháng 4 này chú ấy cũng làm việc ở đây được 13 năm; do đó, bọn mình gọi chú ấy là “Ông Ba 13”. Thỉnh thoảng chú ấy vẫn hỏi thăm cậu và lúc nào cũng ghi nhớ công ơn của cậu đấy. Phổng mũi nhé.
- Mầu mè! Được rồi, tớ sẽ đến.
Sau khi nói chuyện điện thoại với Hải, hình ảnh “Ông 13” từ 13 năm trước lại hiện về trong trí tôi như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua...
Mùa xuân năm 1995, để chuẩn bị đối phó với vấn nạn Y2K (năm 2000) của máy điện toán, TRW đã giao cho nhóm của tôi mở thêm một phòng LAB ở vùng Fair Lake, Virginia làm việc 24/24 để thử nghiệm máy móc của sở cũng như của nhiều khách hàng là những cơ quan chính phủ và những hãng lớn nhỏ quanh vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Để bảo đảm an ninh cho phòng thử nghiệm, chúng tôi phải thuê thêm một số nhân viên thay nhau “canh gác” và “tuần phòng” suốt ngày đêm.
Vì công việc không đòi hỏi khả năng chuyên môn và cũng không cần phải giao tiếp nhiều với khách hàng nên nhóm anh chị em người Việt trong sở đã bàn nhau liên lạc với mấy hội ái hữu trong vùng Northern Virginia để giúp những cựu quân nhân mới đến định cư theo diện H.O. điền đơn xin việc và sắp xếp cho họ tới phỏng vấn xin làm nhân viên tạm thời để huấn luyện trong vòng 3 tháng trước khi chính thức nhận vào hãng.
Tôi không trực tiếp phỏng vấn những người này, nhưng một buổi sáng, người “supervisor” lo việc phỏng vấn và huấn luyện toán nhân viên anh ninh chạy vội vào phòng tôi xin ý kiến vì có một người cứ nằng nặc đòi gặp “boss” vì người đó không hiểu những câu hỏi bằng tiếng Anh, và anh ta cũng không hiểu người đó cần gì. Tôi chưa kịp hỏi xem đầu đuôi câu chuyện ra sao thì một người Việt Nam hình dáng gầy gò, nước da ngăm đen nhưng ăn mặc rất lịch sự đã xuất hiện ngay sau lưng anh ta, vừa khua tay vừa lên giọng:
- Sir... Me can shoot, fight, kick... no talk English. My friend... translator... outside. Sir, please...
Tôi ra dấu cho người “supervisor” ra ngoài, định lên tiếng mời ông ta ngồi, nhưng chưa kịp mở lời, ông ấy đã đứng thẳng theo “thế nghiêm”, mắt đăm đăm nhìn thẳng vào mặt tôi rồi chậm rãi nói tiếng Anh đứt quãng:
- Sir... Mr. Boss. Me... work hard. Trust me. I want my friend... outside... translate.
Tôi mỉm cười lên tiếng:
- Mời chú ngồi. Chú cứ tự nhiên, cháu là người Việt, không cần thông dịch gì cả. Chú tên gì?
Tôi vừa nói vừa cầm tập hồ sơ người “supervisor” đã để sẵn trên bàn xem vội. Ông ta hớn hở nói lớn:
- Ông... Anh... người Việt hả? Tôi phải gọi bằng gì đây?
- Cháu tên Duy nhưng người Mỹ gọi là John. Cháu chỉ đáng tuổi con cháu của chú thôi, xin chú đừng khách sáo.
- Không được, phải trên dưới thứ tự phân minh chứ. Tôi tên Đức (không phải tên thật, theo yêu cầu của đương sự). Anh làm xếp ở đây, tôi cũng hãnh diện vì mình là người Việt... Anh cứ phỏng vấn tôi như bình thường đi. Tôi chỉ dốt tiếng Anh chứ còn lại “thượng vàng hạ cám” gì tôi cũng làm tất. Tôi mới sang Mỹ được 5 tháng theo diện H.O., đang đi học “ét-eo” (ESL: English As Second Language) và cũng sắp hết trợ cấp rồi nên phải tìm việc làm. Mình là trâu chậm nên uống nước đục! Nếu anh giúp cho được công việc này thì sướng quá... Đời tôi chẳng có gì đặc biệt... 13 năm lính, 13 năm tù... sang đây như câm như điếc chẳng biết làm việc gì. Tôi đi học “ét-eo” mấy tháng rồi mà cứ chữ thầy trả thầy, Mỹ nói Mỹ nghe, tôi nói tôi nghe. Buồn lắm “cậu em” ơi! À, xin lỗi “ông xếp” nhé. Tôi mừng quá nên lỡ lời.
- Chú cứ tự nhiên, không sao cả. Chú kể tiếp đi.
- Thế anh không phỏng vấn tôi à?
- Chú là cựu sĩ quan, dư sức làm “security guard” nên cháu đâu cần phải hỏi gì nữa. Cháu sẽ nói với anh trưởng toán thâu nhận chú với một điều kiện.
- Bao nhiêu điều kiện cũng được. Anh cứ cho biết, tôi sẽ “gồng” hết sức để “hoàn thành nhiệm vụ”.
- Vâng. Cháu sẽ nói với anh trưởng toán sắp xếp cho chú làm từ 3 giờ chiều tới 11 giờ đêm để ban ngày chú tiếp tục đi học tiếng Anh, và sau này tiếp tục học thêm về “computer” ở Đại Học Cộng Đồng để...
- Sao anh lại bắt tôi đi học? Tiếng Anh tôi nhá không vô. Mụ vợ tôi càng học càng tiến còn tôi thì càng ngày càng lụn bại. Anh cứ cho tôi làm với một người Việt Nam, cần gì họ sai bảo tôi bằng tiếng Việt được rồi.
- Nếu chú không chấp nhận điều kiện thì...
Tôi chưa kịp nói hết câu, chú Đức đã đứng bật lên, khua tay phân trần:
- Được. Được. Tôi... tôi... đi học. Anh đừng đuổi tôi, tội nghiệp!
Rồi chú Đức cũng trở thành nhân viên chính thức của hãng TRW. Mới đi làm được mấy tuần, chú ấy đã nổi bật trong đám nhân viên vì gặp ai đi ngang chú ấy cũng đứng thẳng theo “thế nghiêm” để chào, và khi có ai nhờ cậy hay hỏi han việc gì, chú ấy cũng trả lời “yes sir” mặc dầu có những lúc chú ấy không hiểu người ta nói gì! Những người Mỹ trong sở đặt cho chú ấy một cái “nick name” là “Mr. Yes Sir”; còn những người Việt Nam trong sở lại gọi chú ấy là “Ông 13”. Thật ra cái tên “Ông 13” là do tôi đặt cho chú ấy vì hôm đầu tiên chú Đức đi làm, tôi đưa chú ấy đi giới thiệu với anh chị em người Việt trong sở, và khi gặp ai chú ấy cũng lặp đi lặp lại một câu “tôi chỉ có 13 năm lính, 13 năm tù, tiếng Anh thì dốt, nhờ anh (chị) giúp thêm cho nhé!”
Mới đi làm được vài tuần, không biết chú ấy hỏi thăm ai đó nên xin được địa chỉ nhà tôi... và “đùng đùng” đến gõ cửa vào lúc 8 giờ sáng Thứ Bảy. Vợ chồng chú Đức lệ khệ mang 2 chai rượu XO, một hộp bánh và một thùng trái cây đến “tạ ơn” tôi đã giúp chú ấy có việc làm. Tôi “giận” lắm nên sau khi mời vợ chồng chú Đức vào nhà, tôi nghiêm mặt lên tiếng:
- Cháu rất kính phục chú. Trên sở ai ai cũng quý mến nhân cách và thái độ làm việc của chú, nhưng nếu chú không mang mấy thứ này về ngay, cháu sẽ nói với anh trưởng toán “security” cho chú nghỉ việc từ tuần tới.
- Xin lỗi, xin lỗi... Mình là người Việt với nhau mà “xếp”... Cái này là để bày tỏ tấm lòng biết ơn của vợ chồng tôi chứ không phải “hối lộ” gì đâu, xin “xếp” bớt giận.
- Cháu hiểu nhưng chú không thể làm như vậy. Chú thím ghé thăm là quý hóa lắm rồi, đừng mang quà cáp gì hết, bằng không cháu sẽ không bao giờ mở cửa.
- Được, được... Lần sau không dám nữa, nhưng xin “xếp” nhận cho lần đầu nhé.
- Nhất định là không được chú Đức à.
- “Xếp” làm tôi ngại quá, biết làm sao bây giờ?
Tôi phải nói mãi chú ấy mới chịu mang “quà” về!
Gần 2 năm sau tôi rời TRW về làm cho National Geographic nên không có dịp tiếp xúc nhiều với chú Đức nữa nhưng thỉnh thoảng bạn bè ở TRW vẫn kể cho tôi nghe những chuyện vui về chú ấy. Điều tôi vui nhất là chú ấy không những đã “tốt nghiệp ESL” mà còn tiếp tục học lấy bằng A.S. về Computer và trở thành một nhân viên xuất sắc lo việc bảo trì hệ thống máy điện toán ở sở cho tới tuổi về hưu.
* * *
Chiều Thứ Sáu... Kẹt xe... Trời nắng đẹp. Tôi chóa mắt khi bước vào nhà hàng dưới ánh đèn mờ mờ. Nhà hàng chật cứng người... Tôi nhớn nhác tìm kiếm chú Đức và đám bạn. Một bóng người vụt đến phía bên hông. Một vòng tay ôm tôi thật chặt. Một giọng nói nồng ấm bên tai:
- Mừng quá. Mừng quá. Cuối cùng rồi Duy cũng đến. Chú vui lắm. Chú không bao giờ quên được những chuyện ngày đó... Cám ơn, cám ơn Duy đã giúp đỡ và “làm khó” để chú phải đi học và có được việc làm tốt. Đến đây, đến đây. Cả đám chúng nó đang chờ Duy đàng kia kìa.
Chú Đức nắm tay kéo tôi đi ào ào đến một bàn dài trong góc trái nhà hàng. Cả đám nhao nhao bắt phạt vì tôi đến trễ... Chú Đức đã không cho khai mạc vì muốn chờ “xếp cũ” cho long trọng. Chú Đức kể với mọi người về những “cái ngố” của mình khi mới vào làm “security guard” ở TRW, vật lộn với mớ tiếng Anh “ăn đong”, những hiểu lầm “tai hại” vì hai tiếng “yes, sir” và nhất là “cũng oai ra phết” khi “tậu được một mảnh bằng” để trở thành “ông tếch” thứ thiệt. Chú Đức cám ơn đám “bạn trẻ” đã giúp đỡ một “lão H.O.” hết thời hội nhập vào xã hội tân tiến trên đất Mỹ...
“Tôi sẽ không bao giờ quên con số 13 cũng chính là cái tên các bạn vẫn gọi tôi cả chục năm nay. Nó là một con số mà người đời coi là xui xẻo, nhưng với tôi, nó là con số của định mệnh... may mắn. Xin cám ơn các bạn. Và giờ này tôi cũng muốn chia sẻ với các bạn một con số định mệnh khác nữa của đời tôi... Đúng 33 năm trước, khi tôi vừa tròn 33 tuổi thì nước mất nhà tan; và hôm nay, đúng 33 năm sau, tôi được về hưu với đầy đủ quyền lợi của một công dân Mỹ... Tôi là một cựu sĩ quan đã hết thời nhưng tôi tin tưởng nơi các bạn trẻ. Tôi hãnh diện vì các bạn. Tôi vui mừng cho dân tộc Việt Nam vẫn còn một thế hệ trẻ với đầy nhiệt huyết như các bạn...”
Những tâm tình tự đáy lòng của chú Đức đã để lại trong tôi thật nhiều trăn trở... Lại một lần nữa mùa xuân đến, tháng 4 về... nhưng biết đến bao giờ con dân Nước Việt mới có được mùa xuân đích thực trên Quê Mẹ?!
Nguyễn Duy An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 21:35)
Trên một khoang thuyền
Sáng sớm ngày thứ ba của cuộc hải trình, chen chúc trên một khoang thuyền chật hẹp mang bảng số Kiên Giang KG 0603 là hơn hai trăm mạng người đang chập chờn thoáng tỉnh thoáng mê. Đêm qua khoảng mười hai giờ khuya, tự nhiên có người rớt xuống biển, không biết là tại nhảy xuống hay là tại lỡ chân hay là tại chuyện chi. Khi con thuyền đánh một đường vòng quay lại, mặt nước biển đen kịt vẫn đen đặc như bầu trời tối đen. Thuyền đành bỏ đi. Có người nói người đàn ông rớt xuống biển mấy năm nay tính khí khật khùng, bởi người vợ vác đứa con trai duy nhất bỏ đi với người tình vượt biên trong khi ông ta đang bị giam trong trại cải tạo. Bị người ta đạp chết ngộp trong hầm tàu, xác đứa bé tám tuổi bị quẳng xuống biển. Có người nói người đàn ông đang đứng tiểu, lỡ chân. Có người thì thào nói trên biển khoảng nửa đêm về sáng là giờ của nhiều vong linh thác oan trên mặt biển, đi đứng phải cẩn thận, ăn nói phải dè chừng. Câu chuyện về người đàn ông rớt xuống biển vào lúc nửa đêm khơi dậy một thoáng bàn cãi lao xao trên khoang thuyền. Nhưng chỉ năm phút sau, tiếng người lắng xuống, rồi chìm sâu vào lòng khoang thuyền chật hẹp hôi tanh ngột ngạt hơi người.
Thuyền đi được hơn hai ngày rồi. Từ cửa Rạch Sỏi của tỉnh Rạch Giá, trong khi con thuyền chầm chậm vượt qua ngọn đèn hải đăng nhô cao ngay mũi đất, đôi mắt long nhãn của thuyền gỗ cũng như những cặp mắt màu nâu của hơn hai trăm mạng người tóc đen đăm chiêu hồi hộp dõi nhìn ngọn đèn trắng toát đều đặn quay tròn chiếu sáng những khoảng không gian tối đen. Bình bịch, bình bịch, từng nhịp trống đập của trái tim bắt đầu trỗi dậy. Đèn trắng loang loáng chiếu sáng khối nước nhấp nhô đập thêm dồn dập tiếng trống ngực, bình bịch! bình bịch! bình bịch!… Đèn trắng chụp hụt con thuyền một lần! Hụt hai lần! Đèn trắng kiên nhẫn, không bỏ cuộc, quay thêm một vòng nữa, lần này sát gần ngay đuôi thuyền. Nhịp tim của con thuyền gỗ tiếp tục đập bình bịch! bình bịch! Cong lưng vươn tới, thuyền vượt biên lọt thoát qua vòng quay lần thứ bốn, lần thứ năm, rồi lần thứ sáu của ngọn đèn trắng chiếu sáng rực rỡ một khoảng trời đêm đen. Nhìn lại đằng sau lưng là vòng quay lần thứ bẩy, thứ tám, thứ chín của ngọn hải đăng, âm ba của những hồi trống ngực cứ thế giảm dần theo số lần vòng quay của ngọn đèn trắng. Bình bịch! bình bịch! của những trái tim trên một khoang thuyền nhỏ dần nhỏ dần. Thuyền gỗ thở phào, mừng vui. Trong tiếng thở phào bỗng vang lên nho nhỏ có tiếng cầu kinh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn.
Thuyền đánh cá nghĩ thế là xong, vậy là thoát, nhưng không, nửa tiếng sau vận xám không mời không gọi tự động bước chân xuống khoang thuyền. Lần này thuyền gỗ đâm thẳng mũi nhọn vào cồn cát ẩn mình dưới làn nước tối đen. Thuyền vướng cồn cát, tiếng máy rên khừ khự như người ốm dở, chân vịt khục khặc dừng lại thôi những vòng quay. Thuyền đứng yên không nhúc nhích khiến hơn hai trăm mạng người ngó lui âu lo dõi nhìn ngọn đèn hải đăng từ phía xa xa. Thuyền vướng cồn cát! Con gái cũng như con trai trên khoang thuyền yên lặng nhảy ra, cong lưng, hai tay đẩy tới đẩy mạnh! Thuyền không xê dịch. Mọi người tiếp tục đẩy! Thuyền vẫn im lìm! Đẩy tới nữa! Thuyền gỗ cồng kềnh lười biếng nằm ì ra, không rung rinh, không động đậy! Thuyền không chuyển động, trong đêm đen và bóng tối, tiếng thở dài nghe rõ mồn một. Tiếng kinh Phật Bà cứu khổ cứu nạn lại vang lên. Vài người đàn ông bắt đầu ngó nhìn quanh quẩn xì xào nho nhỏ tìm đường tháo lui bỏ chạy.
Thêm một lần nữa, người người lại cong vòng xương sống cúi xuống, lại đẩy, đẩy nữa! Lần này nặng nề rùng mình nhè nhẹ. Cúi đầu! Nín thở! Đẩy nữa! Mặt nước lay động. Thuyền gỗ loáng thoáng xôn xao. Tiếp tục đẩy tới! Thuyền gỗ thở dài trượt mình lướt ra khỏi cồn cát. Mười phút cực nhọc trôi qua, thuyền lại nhẹ tênh. Thoát khỏi cồn cát, thuyền nhả hết ga, nhắm hướng biển Đông cương quyết lao tới.
Vào xế trưa ngày thứ nhất, hai chấm đen nắm tay rủ nhau bất ngờ xuất hiện nơi cuối đường chân trời. Đôi mắt long nhãn của con thuyền gỗ ngước lên dõi nhìn hai chấm đen xa xa, âu lo chờ đợi. Nhưng vận áo xám, đã từng ghé vào hỏi thăm rồi đưa mũi nhọn của con thuyền đâm thẳng vào cồn cát, dường như quyết định đội nón lên đầu rũ áo bỏ đi. Cho nên khoảng một tiếng sau hai chấm đen nơi đường chân trời bỗng dưng nhạt nhòe, rồi chầm chậm loãng tan biến mất nơi đường chân trời.
Đêm khuya đầu tiên của cuộc hải trình buông rơi với một đốm đèn le lói xa tít. Đốm sáng to dần, to dần, rồi bừng sáng trong đêm đen. Thuyền viễn xứ âu lo săm soi dõi nhìn đốm sáng rực rỡ. Người thanh niên mặc áo jean xanh, mũ nỉ đội xùm xụp trên đầu cất tiếng,
— Chắc là tàu vớt.
Người đàn ông tóc điểm bạc đứng bên cạnh thằng Minh càu nhàu,
— Vớt, có mà vớt xác về nhà tù. Giờ này chưa ra tới hải phận quốc tế mà đòi tàu vớt. Tàu đánh cá quốc doanh đó cha nội.
— Nói bậy nói bạ không à! Đừng quên đất có thổ thần, sông có hà bá.
Cả hai, người thanh niên và người đàn ông, không ai dám nói chi sau lời cằn nhằn của một người đàn ông trung niên mặt xương xương khắc khổ. Yên lặng trên khoang thuyền tô đậm lời kinh thuyền gỗ thầm thì to nhỏ, “Phật Bà cứu khổ cứu nạn”. Thuyền hạ ga vặn nhỏ tiếng máy. Tiếng máy nho nhỏ nhún nhường tiếng gió thì thào. Thêm một tiếng đồng hồ trôi qua, đốm sáng rực rỡ mờ dần, mờ dần, sau cùng tan loãng vào trong màn đêm dầy đặc. Thuyền gỗ thở phào nhẹ nhõm hy vọng vận áo xám đã thực sự bỏ đi.
Ngày thứ hai của cuộc hải trình đã trôi qua trong mệt nhọc, bão tố, và với một mạng người nửa đêm rớt xuống chìm sâu vào lòng đại dương.
Sáng sớm ngày thứ ba đã tới, thuyền đang tiến ngang qua Vịnh Thái Lan. Sáng sớm nhưng trời bình minh tối thui bởi bầu trời vần vũ nổi cộm mây đen. Trời bão, bão tố xịt mực đen kịt bầu trời. Trời mây, mây đen ẩm thấp oằn cong trĩu nặng. Trời mưa, mưa trời bong bóng vỡ tan trên những mảng da mốc trắng. Trời gió, gió thổi quăn tít xơ xác sợi tóc màu đen. Giờ này là ngột ngạt và nặng nề phủ chụp những mảng tóc đen mốc khô bởi nắng đại dương và nước biển mặn. Bây giờ là mệt mỏi và lăn lóc ngập phủ trên con thuyền.
Sang ngày thứ ba, hết rồi hồi hộp đứng tim khi vượt qua ngọn đèn hải đăng, mất rồi những căng cứng nghẹt thở khi bị cồn cát cầm chân níu kéo, xa rồi hụt một nhịp tim mắt căng tròn mắt khi bị đốm đen ban ngày và đốm sáng ban đêm săn đuổi. Giờ này là mệt mỏi. Nơi đây là im lìm. Mọi hoạt động trên chiếc thuyền mỏng manh nhỏ bé rơi rớt đọng lại trên cabin với tài công và hai ba người thanh niên da rám nắng, môi ngậm thuốc, mắt đăm chiêu dõi nhìn trời mây sóng nước. Trên trời, mây đen nặng nề đe dọa. Dưới biển, sóng nước nhấp nhổm dâng cao.
Từ dưới sàn thuyền nồng nặc mùi hôi của chất thải ứ đọng và của hơi người đọng lại, thằng Minh vội vàng đứng bật lên. Há to miệng, thằng Minh muốn ói, nhưng ói không được ngoại trừ một cái ói khan không nhớt không đờm. Hít thật sâu vào buồng ngực làn gió biển, thằng Minh hy vọng trấn áp được những lợn cợn đang cồn cào trong bụng. Nhưng sóng vẫn đều đặn nhấp nhô khoang thuyền khiến ruột gan và bao tử của thằng Minh tiếp tục gờn gợn cơn ói. Cơn ói nổi lên, thằng Minh ngồi sụp xuống sàn thuyền, mặt mày xây xẩm, mắt nổ tung đom đóm. Cong vòng cột xương sống, nó lại há to cổ họng, lần này miệng nôn thốc nôn tháo xuống sàn thuyền những vốc nước nhơn nhớt sền sệt màu vàng. Nước ói tanh tưởi văng vào quần áo và thịt da của hai ba người ngồi chung quanh, nhưng mọi người vẫn nhắm chặt mắt lại không buồn để ý. Ói xong, ngồi dựa lưng vào thành gỗ của con thuyền, thằng Minh ngửa cổ lên trời, thở hắt ra, mặt tái xanh lét. Một tay lau lau những dòng nước nhớp nháp còn dính hai bên khóe miệng, tay kia thằng Minh lôi ra chai dầu gió trong túi áo jean, bôi lên cổ họng nổi châm chấm da gà, và hai lỗ mũi đen kịt bụi đường khói xăng. Nhờ mùi hăng hắc của dầu xanh, thằng Minh cảm thấy dễ chịu đôi chút. Tưởng đã yên, thằng Minh vuốt vuốt ngực, đóng chặt nắp chai dầu gió màu xanh lại. Nhưng thật là bất ngờ, lợn cợn nhờn nhợn lại xuất hiện, lần này nhúc nhích nơi màng nhầy bao tử, rồi đẩy thẳng thật nhanh lên cần cổ khiến thằng con trai mười chín tuổi không kịp cúi gập người xuống, cũng không kịp há miệng ói ra. Bị hai bờ môi ngậm kín chặn giữ lại, nước vàng ngập ứ trong cổ họng xịt ra hai bên mép khiến thằng Minh phải há miệng thật nhanh, nhổ ra sàn thuyền những búng nước vàng loang loãng tanh tưởi và chua loét. Vuốt vuốt ngực, thằng Minh mở miệng ngáp ngáp tương tự như người ham ăn nuốt miếng bánh trôi vướng ngay cần cổ. Ôm bụng, thằng Minh bám thành tàu cố gắng đứng dậy, hy vọng trấn áp được lợn cợn trong bao tử bằng cách hít sâu vào buồng ngực làn gió mát lạnh của đại dương. Nhưng mới chỉ được một giây, thằng Minh hốt hoảng ngồi bệt ngay xuống sàn tàu, miệng há to tưởng chừng như sẽ nôn thốc nôn tháo một lần nữa, nhưng không, lần này nó chỉ ợ khan ra toàn hơi nồng nặc mùi tanh lờm lợm.
Mưa tiếp tục nặng hạt buông rơi, thằng Minh cúi xuống nhìn đứa em trai lên mười giờ này mặt mũi hốc hác, đen thui xám xịt, quần áo dơ dáy đang nằm bên cạnh nhấp nhô hơi thở. Tất cả sức lực của tuổi lên mười liến thoắng nghịch ngợm giờ đã khô ran bóc vảy sau gần ba ngày lang thang trên mặt biển, một phần cũng bởi vì thằng Minh làm mất giỏ cói căng phồng lương khô mà má nó đã gói ghém trao cho thằng Minh trước khi dời nhà. Thằng Minh nhớ lại giây phút hai anh em ùa theo đám đông leo lên thuyền lớn. Một tay nắm chặt đứa em, tay kia thằng Minh ôm ghì bị cói. Sau một hồi chen lấn, đẩy được thằng em lên sàn thuyền, nó nhận ra hai lòng bàn tay trống trơn, bị cói đã biến mất! Mất giỏ cói, ngày đầu tiên của cuộc hải trình, hai anh em uống nước sông thùng phi, thằng em ngậm tán đường vàng nho nhỏ xin được từ người đàn bà ngồi bên cạnh. Sang ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba, anh nhìn em, em nhìn anh, cả hai anh em cùng nhịn đói như nhau.
Sóng tiếp tục gầm gừ đe dọa, thằng Minh cúi xuống nhận ra người thanh niên chia chung căn phòng tại khách sạn trong khi chờ đợi xuống bến. Sau một ngày vật vờ ngỡ ngàng trong căn phòng lạ, người thanh niên rủ thằng Minh ra quán uống café. Trời buổi tối tháng Mười Hai gió bấc thổi buồn thiu. Bên ly café, người thanh niên trầm trầm cất giọng,
— Hồi đó, năm 76 tụi tớ thi đậu vào lớp Mười. Lớp hơn bốn mươi học sinh, cả con trai lẫn con gái. Sau hai tuần khai giảng, cô bạn gái từ hồi lớp Sáu đẹp như tranh vẽ bỏ mình chết trên biển Đông.
Người thanh niên nhìn thằng Minh, giọng nhỏ lại,
— Bị cưỡng ép, cô gái lao mình xuống biển.
Khói thuốc trong quán café tiếp tục quyện bay,
— Lớp Mười tiếp nối với thằng bạn bỏ học đi Kinh Tế Mới. Tối tối nền đất mát lạnh trống trơn bốn vách ru ngủ thằng con trai cuộn tròn bên cạnh bọ cạp, rắn hổ, và cạp nong. Có thằng còn xung phong đi Thủy Lợi hy vọng cứu được bố trong trại cải tạo. Bị rắn hổ cắn, thằng bạn Kinh Tế Mới sùi bọt mép, thân xác vùi nông trên nền đất hoang. Thằng bạn Thủy Lợi trở về với một chân. Nó đào mương, cuốc trúng đạn. Lớp Mười Một thuyền vượt biên của Cô Giáo dậy Lý bị tàu Thái Lan húc chìm. Cũng lớp Mười Một, thầy dậy Triết vượt thoát tới Singapore sau hơn một tháng lênh đênh trên mặt biển. Thuyền của thầy Triết nhổ neo với hơn một trăm người. Khi con thuyền được vớt, mùi hôi xác chết bốc cao thấu trời xanh. Trời đang xanh lơ bỗng dưng tối sầm khi tàu dầu Hòa Lan ghé ngang nhìn xuống. Người ngoại quốc mắt xanh nhỏ lệ khóc thương cho những làn da vàng giờ này thối đen. Cô bạn sống sót trong chuyến tàu nói mắt ông thầy đổi màu nâu, pha đậm nét màu vàng bởi những miếng thịt màu đỏ tươi trên một khoang thuyền.
Tử Kỳ long lanh nước mắt, tiếp tục lắng nghe bản đàn cung thương của Bá Nha,
— Hai năm liên tục của lớp Mười và lớp Mười Một, cả lớp thay phiên để tang trắng trong tâm hồn, những vành khăn tang khóc bạn, khóc cô, khóc thầy, và khóc thương cho mình.
Bản đàn cung thương tiếp tục réo rắt những nốt của gam thứ,
— Tháng Mười Hai năm 79, lớp Mười Hai, lệnh Tổng Động Viên mang lên bàn thờ bao nhiêu nhang khói của những linh hồn con trai mới lớn; con trai của thời ngồi chia xẻ với nhau một điếu thuốc bên vỉa hè café Sài Gòn; Sài Gòn của mất tên, của lạc loài, của bơ vơ, và của hờn giận, hờn giận làm người mắt nâu da vàng; thà là không sinh ra.
Thằng Minh tiếp tục nhìn người bạn. Cả hai thôi không nói thêm chi. Khói thuốc tô đậm quán café tựa như những nén nhang dành cho linh hồn những người tuổi trẻ Việt Nam đã bỏ mình thối rữa trên đất Chùa Tháp.
Bản đàn cung thương của bất hạnh cuối cùng thôi ngân dấu giáng (b) đổi sang dấu thăng (#) khi thằng Minh và người bạn mới quen sánh bước trên con đường dẫn về khách sạn. Người bạn mới nói,
— Sang đó, tớ đi học tiếp.
Thằng Minh gật đầu, vỗ vai người bạn,
— Trên vùng đất mới, tụi mình làm lại.
Tối hôm đó, từ khách sạn, người thanh niên và hai anh em thằng Minh được đưa lên hai chiếc ghe nhỏ riêng biệt. Trên mặt biển, thằng Minh gặp lại người bạn đang nôn ọe trong hầm thuyền chật chội, nóng nực, ngột ngạt hơi người và hơi dầu. Người thanh niên mặt trắng nằm dài ngã quỵ. Màu trắng biến mất. Màu xanh xam xám héo hắt trên khuôn mặt vàng úa bệnh hoạn! Thằng Minh nhớ lại những xác chết èo uột nằm vắt ngang ngửa trên người trong chuyến hải trình của hai tháng trước. Nắm cánh tay khẳng khiu của người thanh niên mặt vàng ủng, thằng Minh lay lay, lắc mạnh. Cặp mắt tròng vàng lờ đờ hé mở, liếc nhìn, rồi tiếp tục nhắm lại.
— Có tàu lạ.
Trong bầu không khí yên lặng, tiếng hét từ phía phòng máy của con thuyền vang vọng nghe rõ mồn một,
— Có chiếc tàu bên tay phải.
Nhiều người đứng nhỏm dậy nhìn ra xa xa. Theo hướng tay chỉ, người người nhận ra chấm đen chênh chếch phía bên tay phải đang thoáng hiện thoáng mất. Tiếng kinh trầm trầm trên khoang thuyền ngưng ngang rồi lại tiếp nối cung điệu. Lời kinh càng thêm ngân nga, chấm đen càng lúc càng thêm đậm nét. Từ trong phòng máy, thuyền đánh cá bật giọng chửi thề,
— Chết rồi! Tàu Thái!
Ngay lúc chữ Thái vừa chấm dứt, khoang thuyền nhỏ bé biến dạng. Phụ nữ bế xốc con nhỏ ấn sâu vào trong lòng, tay cởi tháo giây chuyền trên cổ. Đàn ông loay hoay ôm chặt xách tay, tay kia nắn tìm gấu quần viền áo. Thanh niên nhấp nhổm, đứng lên ngồi xuống, ngớ ngẩn nhìn trời. Con gái ngơ ngác nhìn nhau, nước mắt loang lổ ngắn dài. Thiếu nữ chuyền tay những vốc nhớt, trét vào mặt, bôi vào tay, xoa vào ngực, và đắp vào cổ. Mặc cho sóng biển vẫn đang dâng cao, thuyền tỵ nạn tăng tốc độ, ào ào phóng chạy. Sóng biển vươn vai đứng dậy như muốn cản lại con thuyền. Gió trời chu môi thổi mạnh như muốn cầm chân thuyền gỗ. Sóng bạc đầu nhấp nhổm vươn mình lao tới như muốn chận đầu thuyền tỵ nạn. Thuyền gỗ hét to,
— Tát nước! Tát nước bà con ơi!
Tiếng la hét kêu gọi tát nước, tiếng khóc lóc của những người phụ nữ trên khoang thuyền cùng một lúc rủ nhau mở miệng hét to. Thuyền vừa hét vừa bỏ chạy, chạy như bay, chạy như phóng, đáy như không chạm mặt nước. Nước biển trắng xóa bị đầu mũi thuyền chặt đôi tung tóe văng lên ướt đẫm cả một lòng khoang thuyền chật hẹp. Ầm! Ầm! Thuyền đánh cá chúi lên hụp xuống. Giông bão thổi toang rách nát tan thương. Mưa gió ồn ào tô đậm bất hạnh. Biển bao la vẫn nhuộm màu đen xám. Gió trời góp mây đen kịt lơ lửng không trung. Chớp sáng ngoằn ngoèo chạy ngang chạy dọc. Những tiếng sấm! Những cơn gió! Những cơn sóng! Tàu Thái Lan! Giờ này thiên nhiên rủ nhau quay cuồng, nhào lộn chung quanh con thuyền nhỏ bé. Bên kia, tàu Thái vẫn phóng tới, điệu bộ cương quyết. Bên này, thuyền vượt biên vẫn bỏ chạy, điệu bộ tuyệt vọng. Bên kia, những người con xứ Phật chùa vàng nhảy lên hét to. Bên này, nơi cuối mũi, thuyền tị nạn tắt máy buông tay đầu hàng; nơi đầu mũi, những người con gái cuống cuồng bôi thêm dầu mỡ; giữa lòng thuyền, tiếng kinh trầm trầm ngân nga, vẫn là lời kinh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn.
Tàu Thái sáp lại. Những thân thể đen bóng dầu mỡ phóng qua với dao dài nhọn hoắc và súng ngắn khạc lửa. Tay cầm dao, tay cầm súng, ngư phủ Xiêm La tóc dài quăn tít hằn học săm soi khuôn mặt lân bang. Hai phái tính được phân chia rõ rệt. Đàn ông, thanh niên ngồi tụ lại ở đầu mũi thuyền. Đàn bà, con gái, và con nít bị xua đẩy về phòng máy. Ngư phủ Thái tiến đến đám thanh niên. Áo dài tay, áo sơ-mi, áo thung, lột ra. Quần dài, quần tây, quần jean, lột bỏ. Ngư phủ Thái Lan tiến đến người đàn ông tóc bạc đứng bên cạnh thằng Minh, tay trái giơ ra táng mạnh vào mặt ông ta, tay phải giựt đứt sợi dây chuyền vàng lóng lánh trên cổ. Nhét sợi dây chuyền vàng vào túi áo, người ngư phủ quay sang người thanh niên với áo jean xanh và mũ nỉ còn khoác còn đội lùm xùm trên người và trên đầu. Một tay nắm cổ áo jean xanh, tay còn lại, ngư phủ Thái co cụm giáng mạnh vào mặt người thanh niên. Mũ nỉ lùm xùm trên đầu anh chàng rớt xuống, cô gái Việt Nam hiện nguyên hình với tóc dài đen nhánh, nước da trắng xanh, và cặp mắt lạc thần. Ngơ ngác nhìn quanh, cô gái mếu máo, ngồi sụp xuống, bưng mặt khóc. Trước cảnh tượng bất ngờ, ngư phủ xứ Thái phá ra cười to, cười hô hố. Tiếng cười mồi chài lôi kéo thêm nhiều người ngư phủ khác. Một, rồi hai, và sau cùng bao nhiêu ngư phủ của xứ chùa vàng cùng lao tới.
Ngôn ngữ địa cầu trở nên câm đặc nhìn người xứ Thái Lan nắm áo, lôi chân mặc cho những cô gái Việt Nam trên một khoang thuyền la hét, trì kéo!!! Thuyền đánh cá nhắm mắt thở dài thầm thì hy vọng vào lời kinh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn! Giờ này là mùa tuyệt vọng! Bây giờ đang là mùa tang thương! Thời gian đếm nhịp tích tắc, tích tắc, hai tiếng đồng hồ trôi qua. Thuyền đánh cá Thái Lan hững hờ bỏ đi để lại thuyền tỵ nạn một thân một mình bấp bênh phận nghèo trên mặt sóng nước và trên mặt địa cầu.
Bầu trời vẫn tối đen!
Người đàn ông trung niên mặt xương xương bất ngờ xuất hiện, ông ta chỉ thẳng vào mặt của người đàn ông tóc điểm bạc đang đứng bên cạnh thằng Minh,
— Tất cả là bởi vì thằng cha nội này nè. Mở miệng ra là nói tầm bậy tầm bạ không à.
Bị chỉ ngay mặt, điểm ngay tên, người đàn ông tóc muối tiêu nổi khùng, quát to,
— Ông tưởng ông ngon lắm hả. Ngon sao không làm trời làm đất trước mặt hải tặc Thái Lan đi? Ngoài nghề thầy bói nói láo ăn tiền, lường gạt người ta từ bao nhiêu năm nay, ông còn làm được cái gì hay hơn nữa không?
Đôi mắt long nhãn của con thuyền và những đôi mắt nâu của vơi bớt hóa ra chỉ còn sót lại gần hai trăm mạng người trên một khoang thuyền ngán ngẩm nhìn hai người đàn ông đang hung hăng cự lộn, rồi đăm chiêu dõi nhìn bầu trời xám đen như đang tìm kiếm, như đang thắc mắc tự hỏi, “Bao giờ mặt trời sẽ lại tiếp tục buông rơi vàng bạc ngọc ngà long lanh trên sóng nước?”
(Trích trong tuyển tập truyện ngắn Ốc Mượn Hồn của cùng tác giả do Dân Chúa Úc Châu xuất bản năm 2007).
www.nguyentrungtay.com
Nguyễn Trung Tây
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:03)
DÂN MÌNH MÌNH THƯƠNG
Đấu tranh dân chủ, tranh thủ gánh gồng
Dù ai trịnh thượng, vẽ rồng mặc ai
Yêu quê hương thì lòng phải thật thà
Nơi sinh tiên tổ, rứa mà ta thương
Dân mình nghèo khổ, khốn khó mình thương
Dân người giàu có, cao lương kệ người.
QUÊN QUÊ NHÀ
Vì non, vì nước, lừng khừng
Tình non, tình nước xin đừng có quên
Tình nhà, nợ nưóc phải đền
Đừng vui hải ngoại, mà quên quê nhà
THƯƠNG DÂN NGHĨA TÌNH
Thương dân thì thương cho trót
Mến dân thì đừng để sót một ai
Đóng sao cho thật đúng vai
Yêu thương không phải để người tặng khen
Thương yêu chẳng để bon chen
Yêu thương chẳng kể, trắng đen trong tuồng
Yêu đương không thể cúi luồn
Đã yêu yêu cả ngọn nguồn mới thôi
Chứ không trát phấn tô vôi
Thương dân thì phải, thắm sôi nghĩa tình.
Lê Dân Việt
VietCatholic News (Chúa Nhật 27/04/2008 11:07)
Vừa đánh trống vừa.. .
- Lúa Xạ: Bác Vụ Chiêm à, tôi biết bác rất thích văn nghệ.. .Bác mến mộ các nghệ sĩ tài hoa.. .
-Vụ Chiêm: Đúng vậy. Tôi luôn qúy mến và đánh giá cao các ca, nhạc sĩ tài hoa chẳng hạn như ban Tam Ca Áo Trắng.. .Họ có thể vừa đờn vừa ca nhiều thể nhạc...
Lúa Xạ: Nói về các ca nhạc sĩ chơi nhiều nhạc cụ trong một lúc thì không sao kể hết. Tôi biết có nhiều người vừa thổi sáo vừa ăn chuối, nhiều người khác vừa chơi ghi ta và piano trong 1 bản nhạc.. .vâng, nhiều lắm.
Vụ Chiêm: Bác nói tôi mới nhớ ra.. .mới đây tôi đã dự khán một show nhạc trong đó nổi bật nhất là tay nhạc sĩ vừa đánh trống.. .vừa thổi kèn.. .Hay tuyệt!
Lúa Xạ: Tôi nghe đồn bốn tay nhạc sĩ nổi tiếng Trọng Phú, Mạnh Đức, Dũng Tấn và Triết Minh có khả năng tuyệt vời, đỉnh cao trí tuệ.. .Họ cùng ban nhạc...
Vụ Chiêm: Bốn tay này vừa đánh trống.. .vừa ăn cướp đó mà!!!
Hà Nội ngày 25/4/2008
Đinh Phan
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 10:07)
Giêsu Đấng Cứu Tinh
Lậy Ngài Giêsu Đấng Cứu Tinh!
Là Thiên Chúa Uy Linh,
Là Chúa Chiên Nhân Từ,
Là Nơi con nương tựa,
Ngài là Hạnh Phúc của đời con.
Cuộc đời con bao gian nan,
Cùng cực khổ sở bao khốn khó,
Nuớc mắt không lúc nào ngừng rơi.
Cuộc đời con lắm lúc như giông tố,
Như cơn bão hờn căm,
Như cơn lốc hận thù.
Có Chúa Ngài dậy con nhìn cuộc đời,
Dù bon chen đến mấy,
Cũng chỉ là phù vân.
Lậy Ngài Giêsu, không có Ngài thì con biết theo ai?
Vì "Lời Ngài" nuôi sống Linh Hồn con.
Con như nai khát nước trong sa mạc.
Chúa là Mạch Suối Mát cho đời con.
Lậy Ngài Giêsu, không có Ngài thì con biết theo ai?
Vì không có Ngài con biết đi về đâu?
Con Xin Vâng, nhất quyết đi theo Ngài,
Dẫu đường đời nguy khốn đắng cay thay!
Lậy Ngài Giêsu Đấng Chí Tôn!
Ngày đêm con khát khao trông,
Hồn con luôn mong chờ,
Ngày nao cho con theo Về?
Theo Ngài Về. ...
Thiên Đàng Vương Quốc Dấu Yêu của Cha.
Để đời con thôi gian nan,
Chẳng còn đối phó những nguy khó,
Nước mắt sẽ không còn tuôn rơi.
Để Hồn con như sương ban mai tắm mát,
Như chim líu lo hoan hỉ cả mùa xuân,
Như hoa rộ nở muôn sắc thắm tươi khoe mầu.
Có Chúa Ngài dậy con Tìm Con Đường,
Về Quê Hương Vĩnh Phúc,
Cội Nguồn của Tình Cha Yêu Thương.
Tuyết Mai
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 10:05)
Tâm tình 33 năm nhìn lại biến cố 30-4
Trong tư cách là người Việt-Nam 33 năm sống xa Tổ quốc, giáo xứ Đức Mẹ Lavang tại Wyoming (tiểu bang Michigan) chúng ta chọn ngày hôm nay làm ngày Ba Mươi Ba Năm Nhìn Lại biến cố 30 THÁNG TƯ: 30/4/1975 –30/4/2008. Với tôi và với nhiều người Miền Nam Việt-Nam đương thời, 33 năm trước, ngày 30 THÁNG TƯ là một đại họa cho nhiều người, cho Đất Nước. 30/4/1975 tôi theo Cha Giuse Cao Văn Cường, rời Nha trang, qua ngã Khánh Dương đi về phiá Tây của Tổ quốc, tìm về giáo xứ Châu Sơn, ở Buôn-mê-thuột để giúp Cha Cường dâng lễ mở tay đầu đời linh mục. Hai anh em chúng tôi đang đèo nhau trên xe honda đi ngang qua thị trấn Buôn-mê-thuột thì đài phát thanh Hà Nội loan tin “Saigon Giải Phóng”. Bộ đội hai bên đường thì như đồng loạt tung mũ tai bèo, tung dép râu lên trời, reo hò vang dậy trong niềm sung suớng hân hoan của đoàn quân chiến thắng, còn chúng tôi thì bàng hoàng trong nỗi nhục của kẻ chiến bại, trong tâm trạng của người dân mất nước. 30 THÁNG TƯ là một biến cố tủi nhục cho tôi lúc đó. Hình ảnh những anh lính bộ đội, đầu đội mũ tai bèo, chân đi dép râu, ốm tong ốm teo thế kia mà đánh thắng được một đội ngũ quân hùng tướng mạnh của Miền Nam. Ức thì thì ức, tủi thì tủi, nhưng nay 33 năm sau, đứng trên địa bàn quốc ngoại nhìn lại biến cố nầy, qua những sử liệu đã được giải mật, chúng ta mới thấy rằng vào thời điểm ấy Việt-Nam đã đến lúc cần đổi ngựa thí xe trên bàn cờ quốc tế. Chỉ tủi nhục một điểm là VN chúng ta sinh ra làm thân nhuợc tiểu, đành trở thành con cờ thí trên một bàn cờ quốc tế đã định vị. Con tốt đã nhập cung, con pháo đầu đã bị lượm đi rồi thì xe, thì tượng cũng trở thành bất khiển dụng, đành đợi xóa bàn làm lại.
Hôm nay ngồi đây nhìn lại biến cố 30 THÁNG TƯ của 33 năm trước, thay vì là một đại họa thì lại là một cơ may vì biến cố vượt biên, vượt biển liên tục trong hai thập niên tiếp theo. Không có biến cố 30 THÁNG TƯ làm sức ép, thì dân Miền Nam sẽ không liều mình đi tìm cái sống trong cái chết mà vượt biên, vượt biển. Nhờ hai thập niên vượt biên, vượt biển ấy mà nay gần 3 triệu người VN đang có mặt trên khắp năm châu bốn biển. Đây là nhân tố tất yếu sẽ kéo dài ranh giới Việt-Nam tỏa rộng đi muôn phương nhờ sự hiện diện của người VN xa xứ. Căn cứ trên tinh thần hiếu học của người VN, kèm theo sự thông minh trong bản tính, chắc chắn bây giờ trong số gần 3 triệu Việt kiều ở cõi ngoài của Tổ Quốc, có ít nhất cũng hơn 300 ngàn người trẻ đã tốt nghiệp đại học, có bằng cấp Giáo sư Đại học, Bác-sĩ, Dược-sĩ, Kỹ-sư, Luật-sư, Kiến-trúc-sư, Kinh-tế-gia, Doanh-gia chuyên nghiệp, chuyên ngành. Họ là những chuyên-viên với những khả-năng thứ thiệt, làm nhân-tố cho một Việt-Nam giàu mạnh về sau trên nhiều lãnh vực chuyên môn. Nhà Nước Việt-Nam trước đây gọi những người vượt biên, vượt biển chúng ta là bọn phản quốc, vọng ngoại nhưng trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, Chế Độ lại ưu ái nhận vơ vào và gọi nịnh chúng ta là “khúc ruột ngàn dặm của Tổ Quốc ở nước ngoài”. .. Cũng là một thực tế và là một thực thể thôi, nhưng nhận hay không nhận là quyền của chúng ta.
Chúng ta cám ơn cộng đồng thế giới đã quảng đại đón nhận chúng ta làm thân tị nạn xa xứ. Là người Công giáo VN ỏ Hoa-Kỳ, chúng ta phải lớn tiếng cảm tạ Chúa đã quan phòng sắp xếp trong biến cố 30 THÁNG TƯ, chúng ta tri ân quốc gia, dân tộc và Giáo hội Công Giáo Mỹ đã quảng đại đón tiếp cộng đồng người Việt đến nhập cư, rồi định cư vĩnh viễn trên đất nước phồn vinh nầy. Hoa Kỳ đã đại lượng đón tiếp chúng ta trong 33 năm qua, chính là một món qùa đắt giá nhất của xứ sở cơ-hội nầy giúp người VN chúng ta hãnh tiến, là tụ điểm để người Việt chúng ta “châu về hiệp phố” mà thể hiện tinh thần công dân của một quốc gia độc lập cho đến nơi đến chốn, rồi từ đó ra công xây dựng cho dân hùng nước mạnh là món quà chúng ta dâng tặng lại để tri ân dân nước Mỹ vậy.
Dịp 33 năm nhìn lại biến cố 30 THÁNG TƯ hôm nay là để tạ ơn Trời, tạ ơn người và riêng là người VN, đây cũng là một cơ hội để chúng ta khẳng định lại với Mẹ Việt-Nam rằng: Chúng con rời khỏi không gian Mẹ Việt-Nam nhưng hồn nước Mẹ Việt-Nam vẫn chưa bao giờ rời khỏi con tim, khối óc của mỗi chúng con.
Đây là căn tính của nỗi ước mơ hằng đeo đuổi tôi suốt 29 năm trường rời xa Quê Mẹ Việt-Nam. Xin qúy vị và anh chị em cùng chia sẻ nỗi niềm của một “EM BÉ VIỆT NAM VÀ VIÊN SỎI” được diễn tả bởi hồn thơ ái quốc Trần Trung Đạo, một thi sĩ quê Quảng Nam:
Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu.
Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho Chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho Em
Còn viên kẹo thật to nầy. . là phần Bé đấy.
Bên bờ biển Palawan
Có một em bé gái
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm
Đang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ
Và nói chuyện một mình
Như nói với xa xăm.
-“Em đến từ Việt-Nam”
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất.
Chỉ hai tiếng nầy thôi
Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Đông hải mênh mông
Cho những câu hỏi khác.
Mẹ của em đâu?
- Ngủ ngoài biển cả.
Em của em đâu?
- Sóng cuốn đi rồi.
Chị của em đâu?
- Nghe chị chết trên mui.
Ba của em đâu?
Em lắc đầu không nói
- Bé thức dậy thì chẳng thấy ai nữa.
Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa
Trên ghe sót lại chỉ dăm người
Lạ lùng thay một em bé mồ côi
Đã sống sót sau sáu tuần trên biển.
Họ kể lại em từ đâu không biết
Cha mẹ em đã chết đói trên tàu
Chị của em hải tặc bắt đi đâu
Sóng cuốn mất người em trai một tuổi.
Kẻ sống sót sau sáu tuần trôi nổi
Đã cắt thịt mình lấy máu thấm môi em
Ôi những giọt máu Việt-Nam
Linh diệu vô cùng
Nuôi sống em
Một người con gái Việt.
Mai em lớn dù phương nào cách biệt
Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt-Nam
Máu thương yêu đã chảy bốn ngàn năm
Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại.
Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho Chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho Em
Còn viên kẹo thật to nầy. . là phần Bé đấy.
Suốt tuần nay em vẫn ngồi
Một mình lẩm bẩm
Ngơ ngác nhìn ra phía biển xa xôi
Như thuở chờ Mẹ đi chợ về.
- Thật trễ làm sao
Em tiếp tục thì thầm
Những câu nói vẩn vơ
Mẹ ngày xưa vẫn thường hay trách móc.
Trên đây là nỗi niềm của một trẻ thơ nhưng duới đây là tâm tư của một người trọng tuổi, trong cảnh sầu xa xứ đau thương, vẫn luôn uớc mong sẽ có ngày trở lại như ước mơ “RỒI SẼ ĐỔI TÊN CON” được diễn tả bằng những tâm tư sâu đậm Việt-Nam:
Lòng cha đêm sầu rụng
Trong nỗi đời cô đơn
Vẳng nghe lởi Việt Dũng
Cất gịng ca tủi hờn.
Mẹ đặt tên con:
Nguyễn Thị Saigòn
Đì con: Lê-Tị-Nạn
Đau tên: Vũ-Nhục-Nhằn
Biển Đông dù có cạn
Lòng cha hoài nước dâng
Con buớc đi
Mang tuổi trẻ phong trần
Lạc loài không lý lịch.
Máu của cha tạo nên con xiềng xích
Thuở bào thai đâu mẹ muốn con buồn?
Da con vàng: trời Tây Phương đối nghịch
Nói tiếng người con bị giống nòi khinh
Nỗi thương con cha chỉ biết hận mình
Sao lại dẫn con đi vào viễn xứ?
Lỗi lầm cha hay vòng xoay lịch sử
Đưa con mình vào kiếp sống lưu vong
Được tự do nhưng lại mất giống giòng
Con đâu biết trứng Rồng Tiên chung bọc!
Trời đêm mưa và lòng cha đang khóc
Đời con đi xẻ dọc một đời cha
Người ta cuời khi thấy bóng con qua
Hình dáng Việt mà sao không phải Việt
Cha cúi đầu cuồng quay ảo xiệc
Quê Hương nào dẵn dắt bước con đi?
Óc Tây Phương con đâu biết nghĩ gì
Về Dân Tộc đang lầm than khốn khổ?
Lỗi tại cha? -Mẹ dầm mưa trút đổ
Gọi tên con: Nguyễn Thị Sàigòn
Chiều ‘mít-tinh’ nghẹn lời ca góc phố
Cha gào than đòi lẽ sống cho con
Thắp sáng niềm tin từ vực sâu đáy mộ
Tiếng cuời ai quên nuớc mất hay còn.
Con cố đợi
Cha dẫn con đi đường quê sẽ tới
Một ngày mai hoa nắng huy hoàng
Tượng đất nghênh ngang
Lòng dân mình sẽ đập
Màu đỏ sang vàng
Trời oan khiên phải sập.
Mẹ đổi tên con, tiếng cười reo vang khắp
Trần Tự Do
Lê Dân Chủ
Tên Nhục Nhằn không kèm theo họ Vũ
Một đời con lý lịch sẽ vinh quang.
Máu lòng cha chưa cạn
Hồn vẫn chảy niềm tin
Cha đổi lao tù cho con ánh sáng
Tiếng gào hôm nay thành tiếng hát mai sau.
Hoa sẽ nở từ hạt giống cha đau
Cho con vòng nguyệt quế
Đường con đi: đẹp trời hoa thế hệ
Đến ngàn năm Xuân mãi thắm phương Nam.
(Võ Đại Nam: 10-12-1995)
Tôi thực sự đã rời xa Việt-Nam trong không gian vật lý nhưng hình ảnh đất nước Việt-Nam, Dân tộc Việt-Nam chưa hề rời xa tôi trong tâm tưởng, trong uớc mơ. Tôi bắt gặp tâm tư nầy của tôi trong những giòng suy tư sau đây của một tâm hồn Việt-Nam: “Tôi yêu quê tôi, giải đất chạy dài theo bờ Thái Bình Dương êm đềm và hùng vĩ. Tôi yêu hình ảnh của núi rừng thâm u và cô độc. Tôi yêu dân tộc tôi với một qúa trình lịch sử đầy điêu đứng và không hề nguội lửa đấu tranh. Tôi yêu đồng bào tôi, những người đã cùng tôi chia sẻ một cội nguồn lịch sử, cùng chung những niềm hãnh diện và những nỗi đắng cay... Tôi nghĩ đền hai tiếng Việt-Nam mà lòng cảm thầy bùi ngùi xúc động. Tiếng Việt, người Việt và phong tục Việt được ràng buộc với nhau bởi một sợi dây thiêng liêng mà chỉ có chúng ta mới hiểu được và chỉ có chúng ta sẽ bảo tồn... Bạn trẻ ơi! Dân ta còn đó, hãy cố gắng gìn giữ lại những gì chúng ta còn có. Bạn trẻ của tôi ơi! Chúng ta còn ngồi lại nơi đây, hãy cầm lấy tay nhau mà hẹn với lòng mình: Chúng ta sẽ chiến đấu mãi mãi, chiến đấu với sự nghèo nàn, ngu tối, bệnh hoạn và sẽ tha thứ cho nhau rồi đứng lên cùng ôm chặt lấy nhau cho da Việt-Nam VÀNG, cho máu Việt-Nam ĐỎ”. (Thương Yêu, trong bài tựa đề “TÔI YÊU. .. TÔI YÊU” đăng trong tờ Đất Mới).
VIỆT NAM LÀ TIM, ĐỜI MÌNH LÀ MÁU. Làm sao Tim và Máu lại có thể tách rời? Tâm trạng nầy cần phải được hét to lên “ĐỂ CON NHỚ” như tâm sự của Nhất Tuấn được đăng trên báo Văn Nghệ Tiền Phong ngày nào:
Cùng các anh chị con, mình lạc loài Do-Thái
Để con nhớ, suốt đời con nhớ mãi
Giống Lạc Hồng là giòng dõi Rồng Tiên
Nước Việt-Nam ta cảnh đẹp dân hiền.
Bên Biển Thái: đó giang sơn cẩm tú
Dẫu là Mỹ nhưng con ơi phải nhớ
Mình ở đây ăn gởi nằm nhờ
Mình ở đây mà canh cánh từng giờ
Ngày trở lại quê nhà xưa yêu dấu.
Việt-Nam là tim
Đời mình là máu
Bố dặn con ghi khắc một niềm tin
Máu đi rồi máu phải trở về tim.
Máu sẽ chết nếu chảy ngoài huyết quản.
Nhớ kỹ chưa con lời ta căn dặn
Máu đi máu trở về tim,
Việt-Nam nghèo khó cũng xin trở về.”
(Nhất Tuấn, Văn Nghệ Tiền Phong #169)
Nói như Bảo-Thái trong cuốn sách mang tựa đề “Một Thời Hoàng Tộc” nơi trang 84 rằng: “Tôi đã bỏ nước ra đi, nhưng vẫn mang theo hồn nước trong trái tim mình. Hồn nước tiềm ẩn trong những khúc ca dao, lời mẹ ru từ lúc nằm nôi, trong những điệu hò mái nhì mái đẩy, đầy tình tự quê hương, đã vang vọng lại trên sông núi ở quê nhà và đang vang vọng trong lòng của mỗi một người chúng ta”:
Chiều cbiều trước bến Vân Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non..”
Tôi cám ơn qúy vị và anh chị em đã cho tôi cơ-hội đặc biệt để chia sẻ với anh chị em Chúa và cũng là đồng bào Việt-Nam chung bọc, rất thân thương của tôi về nỗi niềm ngày càng sâu đậm và xác tín: Tôi rời khỏi Việt-Nam nhưng Việt-Nam chưa bao giờ rời khỏi con tim và khối óc của tôi. Qúy vị và anh chị em có chung cùng tâm trạng nầy với tôi không? Hẹn sẽ gặp nhau trong tâm tình nầy và mãi mãi hãnh diện là người Việt-Nam đang ở cõi ngoài của Tổ Quốc.
Muôn vàn trân trọng
LM Phêrô Hoàng Xuân Nghiêm.
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 02:55)
Thương Chị tôiNắng chiều gay gắt đường về
Chị tôi hối hả, tiếng ve gọi mùa
Trán hừng lấp lánh gió đưa
Hạt rơi xuống đất, hạt chưa nẩy mầm.
Chị tôi trông dáng tảo tần
Chợ xa, gạo mới, bao lần chị đi
Thức khuya dậy sớm ngại gì
Đường xa, có xóc có bì lòng tôi.
Chiều nay chị đứng bồi hồi
Chồng đang ở viện, con thôi học bài
Chị ra hỏi lúa hỏi khoai
Xin Trời cho đất cho đai chóng mềm.
Chị tôi không ước gì thêm
Không son không phấn, ấm êm riêng mình
Chị vui với cả gia đình
Bữa trưa bữa tối có tình mẹ con.
Rôma ngày 24.04.2008
Viết tặng người chị gái thân yêu
Lm. Thiên Ân
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 01:55)
Nay, trên hè phốXưa, Chúa gọi bên bờ Biển Hồ.Nay, Chúa gọi ngay trên hè phố,Giữa dòng đời xe cộ ngược xuôi,Trời trưa hè nắng nung lửa đỏ.
Xưa, ngư phủ Biển Hồ cực nhọc buông thả lưới,Nguyên đêm dài vất vả, lưng trần thấm mồ hôi.Bình minh tới, lưới nặng rong rêu vỏ ốc thối!Bên bờ biển, bất ngờ Chúa hiện ra, Ngài nói,"Thả lưới nơi mạn nước sâu, ngay bên tay phải".Thế là khoang thuyền đầy cá, cá bạc, cá vàng.
Nay, con cực nhọc với gánh hàng,Trên hè phố đôi chân nhịp nhàngbước chân rảo bước nhanh nhanh.Chúa nói khẽ, dừng lại, nhìn bên tay phải…Con nhận ra ông lão người Thượng đang xiêu vẹo những bước chân,đang cố gắng băng ngang qua mặt đường nhựa.Xe đạp vẫn phóng tới, xe máy ồn ào nóng nảy rú ga, xe hơi bấm còi khó chịu!Dừng lại quang gánh hàng rong,Con chạy tới dẫn “hình ảnh Thiên Chúa”vượt qua lòng đường nhựa.
Xưa, ngư phủ Biển Hồ lang thang trên mặt sóng tìm kiếm những luồng cá biển,Nay, con đẩy xe bánh mì, mắt đăm chiêu dõi nhìn tìm kiếmnhững tờ giấy thiên hạ gọi là tiền.Chúa gọi, con nhận ra em bé đang ngồi nhặt cát bỏ vào miệng.Chúa nói mẹ em mắc bệnh Sida, chết, xác sình thối, dân làng vùi nông bên vệ đường.Con dừng lại những vòng bánh xe, tặng em ổ bánh mì nướng vàng.Em bé mồ côi mẹ mở miệng cười tươi, nụ cười thiên đàng,tay thôi nhặt đất cát, cầm ổ bánh mì thơm,mở miệng nói cám ơn.Con cũng nói mình cùng cám ơn Chúa.
Xưa, ngư phủ bán sỉ, ngồi đan lưới,Nay, con bán lẻ, ngồi đan giỏ cói,Chúa gọi, con ngẩng lên nhìnthấy bà lão ăn mày người gầy gò còm cõi.Con ngừng đan giỏ cói,bước vô nhà đong chén gạo hoa tặng người cơ bần nghèo đói.
Xưa, ngư phủ bơ vơ trên sóng biển,Nay, con cũng ngơ ngác giữa biển đời.Dòng đời sóng nước mênh mông,Biết đâu là bến, thuyền con cắm sào.Sông sâu còn có kẻ dò,Lòng người sâu? cạn?, con dò không ra.Chúa gọi, “Bước theo ta…”
Bước con nối bước Chúa, con nhận rangười thương binh cụt một chân ngồi bán trà đángay bên vỉa hè,trời trưa nắng nung đổ lửa,Con mua ly trà đá,Uống cạn một hơi!Tay sờ túi,Túi quần rỗng tênh với một lổ hổng không biết từ bao giờ.Nhìn mặt con đỏ bừng bừng, điệu bộ lúng túng,người thương binh nói,— Thôi, tặng chú em.Con mở miệng lí nhí nói không ra lời.Tự nhiên muốn khóc, ai nghèo hơn ai?
Xưa, Chúa gọi bên bờ biển Hồ,Nay, Chúa gọi ngay nơi hè phố.Dòng đời xe cô ngược xuôi,Chúa đứng ở ngã ba đường,tiếp tục gọi, tiếp tục nói...
www.nguyentrungtay.com
Nguyễn Trung Tây
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 10:40)
Kinh nghiệm đau buồn với Bưu Điện Việt Nam
Hôm qua, ngày 23.4.2008 tôi đến bưu điện Thành phố Saigòn nằm cạnh nhà thờ chính tòa Sài Gòn, để gởi cho một người bạn tại Pháp một bức tranh thư pháp. Một bà già nhờ viết thánh vịnh 129 câu 5, để mừng cháu nhân dịp cháu tham dự lớp giáo lý bao đồng. Nhân viên bưu điện nói với tôi, chị phải điền nhiều giấy tờ lắm đó. Rồi anh tươi cười đưa cho tôi một xấp giấy, tất cả 6 tờ giấy A4 để điền, có những tờ có cả giấy than ở dưới để in thành ba bản giống nhau. Nếu gỡ chúng ra thì thủ tục có tất cả là 10 tờ khai giấy A4.
Nội dung trong những tờ giấy để điền đó là tên người gởi, tên người nhận, mô tả vật mình gởi, định giá tiền của bưu phẩm, để dán lên bên ngoài bao bì của bưu phẩm. Mô tả vật mình gởi để nhân viên hải quan biết trong bưu phẩm đó là cái gì. Và nhân viên bưu phẩm biết mình chuyển cái gì để mình cẩn thận như thế nào. Tôi phải mất 45 phút, vừa điền tất cả những giấy tờ đó, tôi mới hoàn thành thủ tục gởi bưu phẩm ra nước ngoài. Nhân viên bưu phẩm sau khi tính tiền gởi bưu phẩm là 643.000 nói với tôi, chị cho tôi 4000 đồng tiền tôi gói bưu phẩm cho chị. Tôi đưa tiền và cám ơn anh nhân viên tử tế ấy.
Tôi cất bước ra khỏi bưu điện vì cách làm việc tử tế ấy và an tâm vì món quà mình gởi sẽ đến nơi an toàn và đẹp. Như đã nói giá cước chuyển phát nhanh 1 bức tranh thư pháp loại vừa tới Pháp là 643.000 đồng. Tiền nhiều cũng tiếc nhưng tôi an tâm vì hy vọng quà mình gởi đến nơi an toàn. Còn nguyên vẹn.
Hôm nay,
Ngày 24.4.2008 một nhân viên đưa thư của bưu điện chuyển đến cho tôi một bưu phẩm gởi từ Roma về. Bưu phẩm là một phép lành tòa thánh, tôi xin để mừng 50 năm thành hôn của cha mẹ. Nhận bưu phẩm từ tay nhân viên, cũng một ống dài tựa như bức tranh thư pháp tôi gởi hôm qua mà tôi đau lòng muốn ứa nước mắt. Bưu phẩm của tôi bị nhân viên hải quan và nhân viên viên bưu điện gỡ bóc ra, chắc hẳn họ muốn kiểm duyệt nội dung bên trong. Các lớp băng keo bóc ra dán lại trông thật thô. Hai đầu ống xé rách chứ không gỡ hẳn hoi. Phần thân ống bẹp dúm méo mó. Tôi từ từ gỡ phép lành bên trong ra, thì ôi thôi “phép ấy là phép rách chứ đâu phải phép lành”.
Tôi chợt nghĩ, khi đi gởi phép lành cho tôi, người gởi nào chắc hẳn cũng bị nhân viên bưu điện bắt làm các thủ tục kỹ lưỡng như hôm qua tôi gởi bức tranh thư pháp. Vậy mà phép lành của tôi nó đã rách và xấu đi nhiều. Không lẽ nhân viên hải quan không biết đọc các chữ mà nhân viên bưu điện gởi bằng các phiếu gởi mô tả món đồ. Mà nếu không biết đọc chữ thì ít ra họ cũng là những người có văn hóa, được dạy cho “cách ăn, cách nói, cách gói, cách mở” như truyền thống Việt Nam dạy cho con cháu “học ăn, học nói, học gói, học mở” ngay khi còn bé chứ.
Nhận gói bưu phẩm mà lòng tôi buồn, vì những người đại diện cho một đất nước làm công việc giao dịch văn hóa, lại chẳng có tí nào văn hóa. Nếu họ không biết đọc chữ, mà nghi ngờ nội dung bên trong thì ít ra họ cũng mở nắp ống cách khéo léo, dán lại cho đẹp mắt. Mà nói đến chuyện nghi ngờ thì tôi lại càng đánh giá thái độ đó là thái độ không được có của người làm giao dịch. Vì nhiệm vụ nghi ngờ vật gởi đó là nhiệm vụ của người nhận ở bưu điện chứ đâu phải của người giao dịch trên đường.
Nhận gói bưu phẩm mà tôi buồn, vì không biết đến khi nào nhân viên hải quan mới được giáo dục cho xứng đáng để cho người dân dám tin tưởng để trao cho họ vận chuyển quà tặng của người khác. Nhận gói bưu phẩm mà tôi buồn, vì đất nước tôi phải sống dưới một chế độ mà người ta dốt không biết đọc chữ mà làm nhân viên hải quan và nhân viên bưu điện, người ta không xứng đáng để giữ gìn và chuyển trao sự bí mật nhân bản của người khác, người ta không có khả năng làm nhiệm vụ mà không xúc phạm dến người khác.
Ước chi khi nền giáo dục Việt Nam được quan tâm để không có những chuyện như thế xảy ra, để người nước ngoài không còn đánh giá dân Việt Nam kém văn hóa, 4000 năm văn hiến mà tràn ngập những người thiếu văn hóa.
Bùi Vũ
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 10:33)
Quê Mẹ
Hàng dừa đứng nghiêng chiều ven sông lặng gió
Dòng nước lờ lững trôi theo muôn thuở trầm ngâm
Tình non nước đầy trong tim từ thuở nhỏ
Lai láng yêu thương tình tự lúc nôi nằm
Quê hương ơi con yêu người lắm lắm
Như yêu mẹ hiền nhẫn nhục đến tội tình
Tình yêu ấy con không vội vàng say đắm
Nhưng dịu dàng theo con từng bước điêu linh
Con ra đi trong một buổi chiều nắng chết
Đèn nhà ai thắp sớm hiu hắt buổi hoàng hôn
Tuổi hai mươi bước đầu đời chừng thấm mệt
Trốn chạy quê hương vì chẳng biết khác hơn
Ôi cái đêm cô đơn trên trần toa xe lửa
Trốn về nơi chẳng chắc hướng tương lai
Sao trời long lanh như mẹ già lệứa
Cố cầm tiếng nấc để an ủi thằng con trai
Trong túi con là một mảnh khăn tay
Cắt từ chiếc áo bà ba cũ của mẹ may
Chẳng biết vì sao mẹ làm vậy?
Để lau lệ chăng? Sao lau hết lệ quê hương này?
Con quên cả rồi quê hương ơi
Thù xưa hận cũđã phai phôi
Chỉ còn lại trong tim niềm xa xót
Với nỗi đau theo đất nước con người
Quê hương bây giờ vẫn réo gọi trong con
Âm thầm, dữ dội như nước nguồn
Tình khe suối muốn trào ra biển lớn
Sau hơn ba mươi năm róc rách điệu ru buồn
Điệu ru ấy một thời nuôi con lớn
Đêm hỏa châu trời thắp sáng che sao
Tiếng đại bác tiếng khóc đêm lẫn lộn
Át cả tiếng ru của mẹ đến nghẹn ngào
Nghìn đêm tiếng súng im, hỏa châu trời đã tắt
Sao soi tình người hiu hắt như sao
Chiến tranh để lại bao tan nát
Hòa bình khâu lành vá víu được mấy nỗi đau?
Quê hương ơi còn bao nhiêu năm nữa
Cho người nhận ra niềm đau khổ của nhau
Cho người hiểu tình đồng bào chan chứa
Trong trăm con từ bọc mẹ đẻ đau
Trường Sơn đứng rũ buồn phía đằng Tây
Nhìn Hoàng Sa, Trường Sa cúi mặt chia tay
Mỗi tất đất có máu xương ông bà chảy
Trộn máu cháu con nên huyền thoại núi sông này
Mũi Cà Mau con nước chảy đục ngầu
Khóc Ải Nam Quan chắc đã mất còn đâu
Trên tiếng sấm còn vẳng lời thơ Nam Quốc
Như tiếng Lý Thường Kiệt xưa trách cứ nghìn sau!
“Nam quốc sơn hà của dân Nam
Ý trời chăng? sao cắt đất dâng sang
Ta chẳng cần khói nhang phúng điếu
Hãy giữ cho cháu con chút khí phách nguội tàn!”
Quê hương ơi dăm hàng thơ con viết
Khóc với người lời tha thiết Việt Nam
Nói với người nay và với nghìn sau nữa
Dù chỉ rã rời trong một tiếng thở than
Hàng dừa đứng ven sông chiều bỗng dưng dậy gió
Dòng nước trôi nhanh muôn sóng gợn lăn tăn
Tình non nước lớn lên từ thuở xa người đó
Réo gọi trong hồn con lời tổ quốc ăn năn!
lykhách
VietCatholic News (Thứ Tư 30/04/2008 00:15)
CẦU NGUYỆN - Prayer
Ảnh của Josephhoa Phạm. ..Xin cúi đầu lặng lẽ
Hát kinh cầu hồn thương nhớ Thuyền Nhân !!!
(Trích thơ Trần Thu Miên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Josephhoa Phạm
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 00:19)
THƠ TRÊN CÁT
Ảnh của Đặng Hà Nội, Brooklyn Park, MN. (Hình chụp tại Mũi Né, VN)“ Em vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh.”
(Trích Ca khúc Một Chút Qùa Cho Quê Hương của Việt Dzũng)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Đặng Hà Nội
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 00:54)
TÂM TÌNH
Ảnh của Sen K. – Philippines Con chim nho nhỏ
Đỏ mỏ xanh lông
Đỏ mồng xanh kiếng
Nó kêu xao xuyến
Kêu cho quân tử nghe cùng
Phải duyên thì kết, phải lòng thì thương.
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Sen K.
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 00:12)
BƯỚC MỘNG MỘT MÌNH
Ảnh của Bro. Phạm Ngọc Thạch CMC, Carthage, MO.Từ buổi ấy mặt hồ thôi lặng sóng
Bước thời gian mờ nhạt dấu yêu đương
Chim vỗ cánh mang đầy bao nỗi nhớ
Bóng mây xa theo gió gọi trên ngàn.
(Trích thơ Mạc Phương Đình)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Bro. Phạm Ngọc Thạch, cmc.
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 00:50)
NHẶT LẠI TUỔI THƠ
Ảnh của Hồng Nhung ”Ba mươi năm… tôi trở về quê mẹ
giật mình khi nhận ra sông
đứa bé nào kia nhặt thóc trên đồng
như nhặt lại tuổi thơ tôi rơi rụng”
(Trích thơ Thu Bồn)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Hồng Nhung
VietCatholic News (Thứ Năm 24/04/2008 11:26)
Điệu Nhạc Jazz Trên Bờ Sông Mississippi
Ảnh của Cao TườngĐiệu nhạc Jazz với tiếng kèn saxo sao mà trầm buồn ray rứt quá, nhưng cũng rất hào sảng cao ngạo.
Nó cười vào mặt nhân gian.
Nó như cũng nhắc cho người ly hương
nhìn theo hướng sông kia mà tìm về nguồn ngọn mình giữa những xô bồ nổi trôi của kiếp nhân sinh..
(TCT)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Lm. Trần Cao Tường
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 10:38)
HÀNH HƯƠNG ĐẤT THÁNH (phần cuối)
Từ Giêrusalem, chúng tôi khởi hành đi Bêlem lúc sáng sớm. Qua trạm gác Palestine mỗi người trình Hộ Chiếu cho lính gác. Chúng tôi đi qua bức tường ngăn cách 2 nước Israel – Palestine. Bức tường dài 100km, cao 12m, Israel chỉ xây dựng trong một đêm.
BÊLEM Thị trấn Bêlem hiện nay là một trung tâm thương mại, điểm thu hút nhiều khách du lịch, có một khu kỷ nghệ chuyên tạo các vật phẩm lưu niệm mang tính tôn giáo và và truyền thống nổi tiếng, có rất nhiều thánh đường, trường học. Dân số khoảng 50.000 người, thuộc quyềnh quản lý của chính quyền Palestine.
Thị trấn cách Giêrusalem 8km về hướng Nam. Bêlem nằm trên một ngọn đồi đá vôi cao trên mặt biển. Bêlem là một địa danh rất quan trọng vì trong Thánh Kinh đã đề cập tới nhiều lần. Bêlem là nơi an nghỉ của Rakel vợ Tổ phụ Jacob, được chôn cất trên đường vào Ephrata. Đây cũng là nơi Bà Ruth, bà cố của vua Đavid đã gặp ông Boaz và kết hôn với ông. Bêlem còn là nơi sinh trưởng của vua Đavid, chính nơi đây ông đã được tiên tri Samuel xức dầu tấn phong làm vua dân Do Thái.
Theo Thánh kinh, vào thời Giacóp, Bêlem được gọi là Erphrath, nơi chôn cất Rakel (St 35,16,19;48,7). Sau khi chinh phục Canaan, Bêlem thuộc chi tộc Giuđa. Bêlem còn gọi là xứ Giuđa, phân biệt với Bêlem xứ Zabulon (R 1,1). Ong Ibzan làm thủ lãnh bảy năm, khi qua đời được chôn cất tại Bêlem (Tl 12,8-10); ông Emilech, bố vợ bà Ruth là người Etrát thuộc Bêlem (R1,1-2), cũng như chồng của bà Ruth, ông Bôaz (2,1,4). Ong Bôaz sinh Ô bét, Ô bét là ông nội của Đavit (R4, 18-22). Đavit được Samuel xức dầu phong vương (1Sm 16,13- 15) và do vậy Bêlem còn gọi là thành Đavit (Lc 2,4-11). Bêlem là nơi Đấng cứu thế đã hạ sinh (Mt 2,1-7), một thành được xem là nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa (Mk 5,1) sẽ xuất hiện vị cứu tinh dân Israen, vì thế Bêlem đã xảy ra vụ tàn sát các hài nhi Herôđê... (Mt 2,16) Bêlem một thành của dân tộc Dơvulun (Gs 19,15). Đối với Do Thái giáo, Bêlem là quê hương của Đavit, vua Israel trị vì năm 1000 trước CN. Đây cũng là một địa danh linh thiêng của Kitô giáo vì là nơi Chúa sinh ra.
Theo Phúc Âm, Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong một chuồng bò lừa. Theo một cổ truyền mà Thánh Giustinô thế kỷ thứ hai đã nói tới, ấn định nơi đó là một hang đá. Trên hang đá đó Hoàng đế Constantinô đã xây một Vương cung Thánh đường còn tồn tại cho đến ngày nay. Các mục đồng ban đêm canh gác đoàn vật ở cánh đồng chung quanh Bêlem được Thiên thần báo tin và thấy nhiều Thiên thần hát “Gloria in excelsis Deo”. Họ là những người đầu tiên đã đến thờ lạy Chúa Cứu Thế mới giáng sinh.
HANG BÊLEM
Là một căn hầm nhỏ (12mx3m) nằm dưới cung nguyện của Thánh đường Giáng Sinh. Nền thờ được dát bằng đá cẩm thạch. Các cộng đoàn Kitô giáo vẫn luôn thắp sáng các ngọn đèn dầu, xông hương dâng Chúa Hài Đồng. Một chiếc ngôi sao bằng bạc với dòng chữ: “Nơi đây, Đấng cứu thế đã Giáng Sinh”. Hang Bêlem có lẽ là nơi bày tỏ sự hiệp nhất của Kitô giáo, người ta vẫn thường chứng kiến các linh mục, tu sĩ của Công giáo và chính thống cùng dâng lễ với nhau.
THÁNH ĐƯỜNG GIÁNG SINH Một trong những thánh đường cổ xưa theo lưu truyền, Chúa Giêsu giáng sinh trong một hang đá. Thế kỷ thứ hai, thánh Justinô, giáo phụ Originê đều nói đến việc Chúa sinh hạ trong một hang đá. Năm 135, hoàng đế La mã Adrien đã ra lệnh cho dựng tượng thần Adonis tại chỗ để ngăn các cuộc hành hương sùng kính. Khoảng năm 333, hoàng đế Constantin và mẹ ông là Hêlêna đã cho xây một thánh đường trùm lên vị trí thánh đường ngày nay. Thánh Giêrônimô đã ở Bêlem từ năm 384-420. Qua nhiều thế kỷ, Bêlem là nơi đã nảy sinh nhiều cuộc tranh chấp mang tính chất tôn giáo. Thánh đường giáng sinh hiện nay được phân chia làm ba khu vực: Chính thống giáo Hy Lạp; Công Giáo và Chính Thống Armenia. Trên nóc thánh đường, có bốn cây Thánh giá nhỏ nằm sau cây thánh giá lớn biểu trưng cho bốn nước đã tham gia vào đội quân thập tự chinh thời bấy giờ gồm: Pháp, Ý, Đức, Anh.
Từ Thánh đường giáng sinh, chúng tôi đi xuống những bậc cấp, từng người một bước vào trong hang. Để vào bên trong, người ta phải khom mình xuống, vì lối vào chỉ cao 1m và rộng 0,8m. Lối vào có tên là “Cổng khiêm cung” vì khi vào ai cũng phải cúi đầu! Nguyên thuỷ, lối vào rất rộng, sở dĩ hẹp như bây giờ là do Thập Tự Quân dựng nên để ngăn ngừa quân Hồi giáo đang tàn phá các di tích Thánh. Mỗi người lần lượt quỳ gối hôn kính tảng đá ngôi sao bằng bạc ghi dấu nơi Chúa sinh xuống trần hơn 2000 năm trước. Nơi đây được gọi là Động Giáng Sinh, nơi đánh dấu một trang tình sử của Thiên Chúa, ghi nhớ một đêm đông giá lạnh, từ trời cao Thiên Chúa xuống thế làm người, giao hòa trời đất. Thật cảm động và chan chứa hồng ân, môi miệng con được hôn dấu tích thánh thiêng nhất lịch sử - nơi Chúa hạ sinh làm người. Kế bên có Động Sữa, theo tương truyền Đức Mẹ cho Chúa Giêsu bú, vài giọt sữa mẹ rơi ra. Vì thế động sữa là nơi chan hoà tình mẫu tử.
Chúng tôi cùng hát những bài thánh ca Giáng Sinh. Đêm nay Noel về, Hát khen mừng Chúa Giáng sinh ra đời…Hát giữa ban ngày mà cứ tưởng như là đêm thánh vô cùng. Cảm nghiệm tình yêu cao vời của Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại.
Tin mừng Lc 2,1-20 kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Một biến cố tầm thường nhất. Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse - Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền. Các quán trọ đã hết chỗ. Mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo, ở đó không có chỗ trống cho tình người. Họ đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết gió lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai, bà đặt con trong máng cỏ, bạn hữu thân nhân chẳng có ai, chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng, sự kiện chỉ có thế, thật là đơn giản.
Một biến cố vĩ đại nhất. Thế nhưng em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên sai. Người đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Người. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Vĩnh Cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang. Bởi vậy, biến cố giáng sinh bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nỗi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra ? Môt sự kiện táo bạo. Táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi,chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm.Thiên Chúa, Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được.Thiên Chúa,Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình. Thiên Chúa, Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn,giờ đây lại ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ.Quả là sự kiện táo bạo.
Chính Chúa Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Người đến mang sự hoà bình cho nhân loại, tước bỏ khỏi lòng người sự thù hận. Tất cả mọi người là con cùng một Cha, Thiên Chúa nhân lành. Giáo lý quan trọng nhất của Chúa Giêsu là dạy cho mọi người biết Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Chỉ có giáo lý cao đẹp này, chỉ có Tin mừng này mới giải thoát nhân loại khỏi chiến tranh để xây dựng hoà bình.
Hài nhi nằm trong máng cỏ mời gọi con người:
- Hãy mở rộng vòng tay: Đôi tay Chúa giang rộng như muốn ôm tất cả nhân loại, cử chỉ đó nhắn gửi rằng, hãy mở rộng vòng tay tiếp đón mọi người.
- Hãy mở rộng tầm nhìn: Anh mắt Hài nhi đơn sơ trong sáng như muốn nhắn bảo: Đừng chỉ nhìn hạn hẹp vào bản thân mình, hãy biết mở rộng tầm nhìn ra xã hội, ra giáo hội, ra thế giới. Đừng hạn chế tầm nhìn vào lãnh vực vật chất kinh tế, hãy mở rộng tầm nhìn sang lãnh vực tinh thần tâm linh.
- Hãy mở rộng trái tim: Mở rộng trái tim mình ra để đón Chúa sinh vào, để nghe và hiểu Lời Chúa. Lời Chúa nói thì thầm vào trái tim, Lời ấy nhẹ nhàng sâu thẳm.
|
| Nơi thánh Giêrônimô sống để dịch Thánh Kinh |
Trong những giây phút hồng phúc đó, chúng tôi cầu xin cho mọi người trên thế giới được đón nhận giáo lý cao đẹp của Chúa Giêsu. Đó là Tin Mừng cho nhân loại, Tin Mừng dẫn đường soi lối cho nhân loại xây dựng hoà bình trên công lý và tình yêu.
Rời động Giáng sinh, chúng tôi lên phía trên. Trong Nhà thờ Giáng Sinh đang cử hành thánh lễ. Chúng tôi lại đi xuống lối khác để dâng lễ tại nhà nguyện các Thánh Anh Hài. Nơi đây còn có hai nhà nguyện nhỏ nữa, đó là nhà nguyện kính Thánh Gia lên đường trốn sang Aicập, nhà nguyện kính Thánh Giêrônimô (Ngài đã sống nhiều năm tại đây để dịch Thánh kinh từ nguyên bản Hylạp, Hipri, Aram sang tiếng Latinh, bản Vulgata.)
Rời Thánh đường Giáng sinh, chúng tôi thăm cánh đồng chiên nơi Thiên thần báo tin cho các mục đồng.
Những di tích nơi cũng đầy sự thánh thiêng. Các mục đồng chỉ là những người nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc, không học cao hiểu rộng, không danh vọng cao sang, không tiền tài vật chất. Thiên Chúa đến ghé thăm, đem ánh sáng cứu độ đến cho họ. Ba Đạo sĩ Đông phương cũng được Chúa gọi, và họ đã mở lòng ra đón nhận Ngài là Cứu Chúa của họ. Ở Palestine, có những toán du mục quanh năm sống với đàn chiên, người ta gọi là “mục tử sa mạc”. Họ sống giữa thiên nhiên, khi đêm về giá lạnh, họ lùa đàn chiên vào những bộng đá, hoặc những chuồng nằm sau bờ làng. Người Do thái không thích những người chăn kiểu đó, họ nói: “Đừng dạy con làm nghề chăn cừu, thợ cạo, lái đò, hàng xén, vì là nghề của phường trộm cướp. Người pharisiêu không bao giờ mua sữa, mua len của họ, vì sợ phải mua của gian”. Thế nhưng, Chúa sinh hạ làm người, kêu mời họ đến với Ngài.
|
| nơi Thiên thần báo tin cho các mục đồng |
Đêm hôm ấy là đêm bình an, đêm diễm phúc trước hết là các mục đồng, tức là thành phần nghèo khó trong xã hội, bởi vì Chúa đến để đem niềm an vui đến cho họ. Chính những người chăn chiên nghèo hèn mộc mạc ấy được thiên thần loan báo tin vui: “Hôm nay. Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em.” Khi các Mục Đồng canh giữ đàn chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa ( Lc 2, 10 – 12 ). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Mađian và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ.
Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa - Đấng tràn đầy vinh quang thánh thiện sinh ra trong cảnh bần cùng, Đấng là Ánh sáng muôn dân chấp nhận sinh ra trong cảnh tối tăm của hang bò lừa, Đấng là Ngôi Lời sáng tạo hóa thân làm trẻ sơ sinh yếu đuối. Do đó, không lạ gì khi “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không đón nhận” (Ga 1,11). Và chỉ có những người nghèo hèn và bé nhỏ như các mục đồng mới đón nhận sứ điệp: Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha giấu không cho hạng thông thái biết những điều ấy, mà Cha lại mạc khải cho kẻ bé mọn. Vâng, vì ý Cha là như thế! Đấng giàu lòng thương xót đã bị lôi cuốn bởi sự nghèo khó, mời nhân loại đến tựa nương bên máng cỏ như phương thế tốt nhất để nên giống Cứu Chúa, nhờ đó mà mỗi người được quyền làm con Thiên Chúa. Thế giới hôm nay biến chuyển không ngừng và đầy những phức tạp: nhiều triển vọng cho tương lai nhưng cũng đầy những lo âu khắc khoải, yêu chuộng hòa bình nhưng còn quá nhiều chia rẽ, bất đồng, bất công và khủng bố. Dầu có nhiều tôn giáo lớn như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo... nhưng con người vẫn có khuynh hướng mê tín, thích tìm sự lạ, khát khao huyền bí. Thế giới đang không ngừng tục hóa: chối bỏ những giá trị siêu việt để chỉ nhìn nhận những giá trị vật chất, con người sống bằng tính toán lợi nhuận, đánh giá thực tại và đồng loại bằng cân đo đong đếm mà không nghĩ đến phẩm giá con người, hành động dựa trên tự do cá nhân chủ nghĩa mà không quan tâm đến những tiêu chuẩn luân lý đạo đức. Vì thế, thế giới vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm, nghèo tình thương, nghèo chân lý, nghèo công bằng, nghèo tự do, nghèo đạo đức, nghèo vật chất đến nỗi người nghèo vẫn hoàn nghèo và có biết bao gia đình phải túng đói cơ cực kiếm sống hằng ngày bên cạnh sự nhởn nhơ hưởng thụ của tầng lớp giàu sang mê say hưởng thụ... Trong một xã hội như thế, sống đạo quả là khó khăn nếu không nói là lạc lõng và thách đố, vì thực tế đi ngược lại vối Tin mừng của Đức Kitô là Tin mừng của sự sống, của tình yêu, của chân lý, công bằng và huynh đệ.
Thành GiêricôGiêricô là nơi khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy đất hứa. Sách Giôsuê chương 6 kể lại cuộc đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô nổi tiếng với câu chuyện Ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu. Vì tò mò muốn gặp Chúa mà vóc người thấp bé nên ông đã trèo lên cây sung để được thấy Ngài. Hôm đó ông đã được Chúa ghé nhà ông ăn cơm tối: "Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông." (Lc 1, 5). Và “Hôm nay ơn cứu độ đã đến với nhà này”.
Chúng tôi thăm “Cây sung ông Giakêu”. Cây sung to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây 700 năm. Bà cụ Dung hái và ăn luôn ba quả sung. Bà đang bị thấp khớp nên tin rằng ăn trái sung Giakêu sẽ được lành. Chúng tôi liền đặt tên cho bà là “Bà ba quả”, thêm nhiều tiếng cười vui vẻ quanh chuyện trái sung.
Từ cây sung Giakêu đi thêm chừng vài km, chúng tôi đến Núi cám dỗ. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện trong 40 ngày. Thời gian 40 đêm ngày Chúa trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Môsê đã ở trên núi Sinai.
Chúa Giêsu đã chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ, sau khi ăn chay cầu nguyện trong sa mạc. Có ba cơn cám dỗ là ba biểu tượng mọi cám dỗ qua các thời đại.
1- Cám dỗ cơm bánh hay vật chất: Trong hoang địa, dân Do thái kêu ca vì thiếu tiện nghi và lương thực. Chúa cho manna để nuôi họ. Nhưng họ nhàm chán thứ bánh họ ăn hằng ngày. Lương thực nói đây tượng trưng nhu cầu vật chất chúng ta muốn hưởng thụ. Trong cơn cám dỗ vật chất, Chúa Giêsu đã trưng lời sách Đệ nhị luật: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng bởi lời từ miệng Thiên Chúa”. Mặc dù Chúa Giêsu cảm thấy đói, nhưng sự đói khát nghe lời Thiên Chúa còn quan trọng hơn là nhu cầu về cơm bánh. Ngài hơn hẳn dân Do thái xưa, Ngài tìm ý Thiên Chúa hơn là tìm sự thỏa mãn cho riêng Ngài.
2- Cám dỗ về sự thử thánh quyền năng Thiên Chúa: Dân Do thái luôn yêu cầu Chúa ban những dấu lạ điềm thiêng, nhưng Chúa từ chối vì họ không thực tâm tin vào Ngài, mà đơn thuần chỉ để thách thức Chúa. Hôm nay, khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống khỏi đền thờ, Ngài đã trả lời bằng cách trưng dẫn sách đệ nhị luật: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Những gì dân Do Thái khiêu khích Thiên Chúa nơi hoang địa, nơi đây Chúa Giêsu đã chẳng hề làm.
3- Cám dỗ sấp mình thờ lạy ma quỷ: Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, thú vui, vật chất, tiện nghi, sắc dục đem con người xa lìa Chúa và dẫn đi đến chỗ thỏa hiệp, phạm tội. Chúa Giêsu chẳng màng bất cứ điều gì ma quỷ trưng dẫn, kể cả vương quốc nó muốn dâng tặng Ngài. Ngài đã chẳng cúi đầu thờ lạy nó, trái lại Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ngươi chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa” (Đnl 6,13).
Núi cám dỗ " Quỷ lại đem người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy."
Đường lên núi cám dỗ dốc đá, nên phải có cáp treo để đi lên. Hôm ấy, thật đáng tiếc, trục trặc kỹ thuật nên cáp treo không chạy. Chúng tôi chỉ đứng bên dưới nhìn lên với tất cả tiếc nuối không lên đến đỉnh núi. Chúng tôi trở lại chân núi để dâng lễ tại nhà thờ Chúa chịu cám dỗ.
Qumran: Nằm trên bờ tây bắc của Biển Chết, là nơi cư ngụ của các ẩn sĩ Esseni, những người ghi chép các bản văn Kinh Thánh rất cổ xưa vô cùng quí giá cho việc học hỏi Kinh Thánh. Tại đây, năm 1947 hai người chăn cừu đã tình cờ khám ra một hang động có những bình chứa các văn kiện quan trọng này. Các nhà khảo cổ đã mua lại được một số văn kiện ghi chép Thánh Kinh. Họ cũng khám phá ra một tu viện đã bị vùi lấp. Những tài liệu quí giá này được lưu trữ và trưng bày tại một bảo tàng viện lớn của Do Thái là Shrine of the Rock.
Chúng ta được biết nhiều về nhóm Esseni nhờ các bản chép tay phát hiện được từ năm 1947 tại Qumran. Lịch sử và nhất là gốc tích của họ chưa được làm sáng tỏ. Hình như là vào thời kỳ bị nhà Maccabê bắt bớ, con cháu dòng họ Xađốc đã trốn vào sa mạc. Sau đó một cơn khủng hoảng xảy ra trong nội bộ. Những người khô đạo trở về quê quán, còn những người mộ đạo thì đi tới Qumran, nơi đã có mặt những người đầu tiên bị lưu đày. Ở đây họ sống có tôn ti đẳng cấp. Các tư tế, con cháu Xađốc, chiếm giữ một địa vị then chốt. Nhóm Esseni gắn bó với Luật trong sạch tỉ mỉ hơn cả người Pharisiêu và ở một vài điểm, họ còn bảo thủ hơn cả người Pharisiêu. Họ từ chối không dùng bộ lịch của nhà Xêlơxít mà chỉ dùng bộ lịch cũ. Do đó, họ không mừng lễ Vượt qua cùng một lúc với Do Thái giáo chính tông. Để được trong sạch, họ tắm nhiều lần mỗi ngày và nhất là họ không chịu lên Đền thờ, vì theo họ Đền thờ đã ra ô uế kể từ ngày thay bộ lịch và các tư tế không còn thuộc nhà Xađốc nữa. Họ thích lấy đời sống thánh thiện để thay thế cho các lễ phẩm, đợi cho tới ngày Thiên Chúa tái lập việc phụng tự và trả lại cho Đền thờ sự trong sạch nguyên thuỷ.
|
| Hang số 4, phát hiện đầu tiên vê Qumran |
Những dãy núi đá mầu đỏ xám có nhiều hang. Chính ở nơi đây, mùa xuân năm 1947, hai du mục Mohammad el Dib và Ahmad Mohammad thuộc bộ lạc Ta’Amira đã khám phá trong một hang, bây giờ người ta gọi là I Q, bảy cuốn sách hầu như còn nguyên vẹn. Những cuốn sách đó sau ít tháng đã làm chấn động thế giới Kinh Thánh và Cận đông học. Đó là sách Tiên tri Isaia còn nguyên vẹn (I QIsa), sách chú giải (peser) Habacuc (I QpHab), cuốn Luật (Serek) Cộng đồng (I QS). Những cuốn trên đã do American Schools of Oriental Research xuất bản và do M.Burrows phụ trách; một cuốn Tiên tri Isaia thứ hai (I QIsb), sách những Bài ca (Hôdayot: I QH), cuốn Luật chiến đấu (Milhamah I QM) do Đại học Do thái xuất bản và do E. Sukenik phụ trách, một ngụy thư về Sáng thế ký đã hư hại nhiều cũng do Viện Đại học Do thái xuất bản năm 1956. Sau một thời gian tản mát đó đây, bây giờ các cuốn nói trên đều được giữ tại Viện Đại học Do thái ở Giêrusalem. Năm 1949, các nhà cổ học đại diện Bộ Khảo cổ Jordania, trường Kinh Thánh các cha Đaminh Pháp và Bảo tàng viện Palestina bắt đầu cuộc tìm kiếm. Cuộc tìm kiếm đó kéo dài tới năm 1956 và thu được nhiều mảnh cảo bản trong 11 hang khác nhau, nhất là trong hang IV. Các nhà khảo cổ đó cũng khai quật hoang tàn Qumran. Cuộc khai quật này cho ta biết Khirbet Qumran đã là trụ sở của một cộng đồng đông đảo vào thời Hasmônêô (135 - 37 trước Công nguyên) (tiền đúc của Alexandrô Jannêô 103 - 76 trước Công nguyên) và từ năm 4 đến năm 68 sau Công nguyên. Người ta chỉ mới xuất bản những mảnh cảo bản của hang I: D. Barthelemy - T.J. Milik, Qumran Cave I, Oxford 1955; những mảnh cảo bản ở các hang khác mới được nói tới trên tạp chí đó đây. Chúng ta còn phải đợi một thời gian nữa mới được biết tất cả các tài liệu và có thể những du mục còn giữ một số tài liệu quí báu. Họ đã đòi một số tiền khổng lồ để bán các tài liệu mà họ đã lấy được; bây giờ có lẽ họ còn đợi cho lên giá (mỗi phân vuông một Bảng Anh). Dầu sao tất cả các mảnh cảo bản đã tìm thấy, cả các mảnh cảo bản mà những tổ chức khoa học đã bỏ tiền ra mua đều được giữ tại Viện Bảo tàng Jordania và do một nhóm học giả thuộc nhiều quốc tịch và tôn giáo khác nhau khảo sát. Trong những cuộc tìm kiếm văn kiện Qumran, người ta đã khám phá ra hai kho cảo bản khác: ở Murabbaat và ở Khirbet Mird. Nhưng những tài liệu này không liên quan tới vấn đề của chúng ta. Trái lại phải kể vào loại văn kiện Qumran, tài liệu Damas (CD) do S. Schlechter tìm thấy năm 1896 - 1897 trong một hội đường Do-thái ở Le Caire (Ai-cập) và do ông xuất bản: Fragment of a Zadokite Work, Cambridge 1910. Tài liệu này đã là một bí nhiệm cho đến khi người ta khám phá ra những mảnh cảo bản ở hang IV, V và VI Qumran. Những mảnh cảo bản này cho ta biết chắc tài liệu trên là của các ẩn sĩ Qumran.
Biển Chết: Rời Qumran trong gió lộng và nắng chiều vàng nhạt chúng tôi đi Biển Chết. Qua nhiều cánh đồng chà là bạt ngàn, tôi nhớ đến những vườn dừa ven biển Phan thiết, những rừng cao su ngút ngàn ở Đồng nai. Biển Chết nằm trong vùng sa mạc của miền Giuđêa, miền nam Israel, mặt nước có diện tích khoảng 1.020km2, chỗ sâu nhất là 385m. Mặt nước của biển thấp nhất trái đất. Nơi đây không có một sinh vật nào có thể sống nổi vì quá mặn, 33% độ mặn so với các biển khác chỉ có 3%, mặn đến độ có thể nằm đọc báo trên biển. Hằng ngày nước sông Jordan và những dòng sông khác đổ vào đây khoảng 7 triệu tấn nước mang theo một khối lượng khoáng chất đáng kể.
Đến biển chết ai cũng thích tắm và trét bùn lên người. Bùn Biển Chết chữa bệnh được đóng gói bày bán tại nhiều cửa hàng. Tắm ở đây không được để nước vào mắt vào miệng, chỉ cần tắm 10 phút là đủ rát bỏng người. Khách hành hương quá đông, đủ mọi màu da sắc tộc. Người ta bảo rằng đi khắp thế giới mà chưa bồng bềnh trên Biển Chết thì chưa đủ. Trở về Giêrusalem, mỗi người mang theo muối mặn chát trên khắp cơ thể.
Bêtania Một làng nằm ở phía đông nam núi Cây Dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem (Mc 11,1), trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là: El-Azariyeh, “Nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn nấu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khoảng 5.000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khoảng 1 giờ vì phải rẽ nhiều ngã quanh thành phố.
Chúng tôi đến thăm ngôi mộ Ladarô, mộ đục sâu vào đá, mấy chục bước tam cấp đi xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã an nghĩ 4 ngày; thăm căn nhà 3 chị em Matta, Maria và Ladarô ở, viếng nhà thờ dâng kính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Matta trước khi Chúa làm phép lạ cho Ladarô sống lại.
Đứng trước mộ Ladarô, tôi nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11,1-45.
Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: - Ladarô, người Thầy thương mến đang đau nặng. Chúa bảo: Bệnh này không đến nổi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa.
Cho dù Ladarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: - Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình: - Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. Ladarô đã chết nhưng Matta tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Matta: - Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ. Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: - Con có tin điều đó không? Và Matta đã tuyên xưng: - Lạy Thầy con tin, Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha.
Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.
“Ta là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại, là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô Giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin vào thánh giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải thoát, tin vào sự sống và sự sống lại.
Chính vì thế mà tất cả những lời chứa đựng trong Kinh thánh Tân ước được gọi là Tin mừng, Evangélion. Đó là Tin mừng cứu sống mà Chúa Kitô chính là nội dung; nói khác đi, chính Ngài là Tin mừng cứu sống (x.Mc 1,1). Thánh Phaolô thường gọi những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin mừng Chúa Kitô” (x.1Tx 3,2; 1Cr 2,12; 4,4; 8,13; 10,14; Pl 1,27; Rm 15,19). Và chúng ta có thể tìm thấy trong thư gởi giáo dân thành Côrintô một toát yếu về Tin mừng ấy như sau: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cũng như đang nắm vững. Nhờ Tin mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.
Trước hết, tôi đã trình bày lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ 3 đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm 12. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các tông đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.” (1Cr 15,1-8)
Chúng ta còn có thể tìm được những câu toát lược hơn nữa về Tin mừng Chúa Kitô, nhưng trong đó bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu: Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại (x.1Tx 4,14; 2 Cr 13,4; Rm 4,24-25; 8,34; 14,9).
Tin Mừng Cứu Sống chính là Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Chết và sống lại đó là hai sự kiện căn bản không thể tách rời. Không thể có sống lại nếu không chết, trái lại, nếu Chúa Kitô chết mà không sống lại thì nói như Thánh Phaolô “đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng” (1Cr 15,14), nghĩa là vô giá trị, giả dối.
Hai sự kiện trên vì bất khả phân như thế nên thánh Gioan đã liên kết lại trong cái mà Van den BUSSCHE gọi là “biến cố bất khả phân”, biến cố đó là biến cố cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trên thánh giá mà thánh Gioan coi như là chính sự “Thăng Thượng” (Elevatio) của Chúa Kitô (Ga 8,28; 12,32); nói khác đi là chính giờ phút vinh quang của Ngài (Ga 13,31).
Hai sự kiện, chết và sống lại đều cùng một mầu nhiệm Chúa Kitô. Lễ Vượt qua mới, hay là biến cố giải thoát, là môt biến cố bất khả phân. Tuy nhiên trong thực tế, biến cố này, tuy là một biến cố duy nhất nhưng rõ rệt phân làm hai đoạn chính: đó là chiều thứ 6 thụ khổ và sáng Chúa nhật Phục sinh. Vì thế, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là hai giai đoạn của cùng môt biến cố Cứu độ duy nhất.
En Kerem:Chúng tôi đi thăm quê hương thánh Gioan Tẩy Giả. Một ngôi nhà thờ lớn xây trên nơi Gioan được sinh hạ. Cũng như Động Giáng Sinh, nơi đây có một phiến đá ghi nhớ ngày ra đời của Gioan, bên trên có bàn thờ dâng lễ. Chúng tôi thành kính hôn lên tảng đá. Sau đó dâng thánh lễ trong nhà thờ.
Với sự chào đời của Gioan Tẩy giả, nhân loại như đứng trước một thế giới mới, sống động được loan báo bởi niềm vui. Họ hàng bà con đến chia vui. Êlisabét vui. Giacaria vui vì hết câm và dâng lời ca chúc tụng. Nhân loại vui vì đã đến thời kỳ ân sủng: Đấng Tiền hô chào đời dọn đường cho Đấng Cứu tinh xuất hiện ( Lc 1,57-66). Họ hàng đều muốn đặt tên cho trẻ theo dòng tộc. Người ta hỏi ý cha nó. Ông viết tên nó là Gioan theo lời sứ thần đã báo. Gioan có nghĩa là “Chúa ban ơn”. Ông hết câm và nói tiên tri về con mình. Đây là một dấu hiệu. Mọi người kinh sợ: trẻ này rồi sẽ ra sao? Phải đặt tên cho trẻ là Gioan, vì Chúa muốn thế. Điều đó có nghĩa là Chúa đã có chương trình cho nó. Mỗi người sinh ra đều nằm trong chương trình của Chúa và Chúa có chương trình cho mỗi người. Cuộc đời là ơn gọi. Lòng tràn ngập niềm vui, Giacaria xướng lên bài ca vịnh ngợi ca lòng từ bi của Chúa, tóm kết toàn lịch sử Israel từ Xuất hành, Giao ước đến niềm hy vọng giải thoát, cứu độ. Lời kinh làm vang lên sự phó thác bền vững nơi lòng từ bi thương xót của Chúa. Lòng từ bi Chúa đến viếng thăm sự đày ải của con người, ban niềm hy vọng cứu thoát (Lc 1,67-79). Ca vịnh diễn tả cho thấy qua thời gian lâu dài đợi chờ, nay Chúa đến giữa nhân loại, để từ đây ta mang lấy niềm hy vọng về vĩnh cửu. Niềm hy vọng ấy nhắc mỗi người sống cái hiện tại với niềm tin tưởng phó thác. Lòng từ bi Chúa như mặt trời xua tan mọi bóng đêm và dẫn ta đến an bình. Bài ca Bênêđictus được viết bằng nhiều ngôn ngữ trên đá, kín cả bức tường phía ngoài.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú, sống nơi hoang địa vắng người trơ trụi. Nhưng chính nơi đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc Gioan càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng Ong đã kiên nhẫn đợi chờ nhiều năm tháng cho đến ngày Ong nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với Ong. Lời của Chúa đưa Ong ra khỏi hoang địa để đến gặp gỡ con người qua mọi vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Ong nghe đã trở thành Lời Chúa Ong công bố. Tiếng Chúa gọi Ong đã trở thành tiếng Ong mời gọi mọi người.
Gioan đã sống trong dòng lịch sử của Đạo và Đời: Thời hoàng đế Tibêriô, hai Thượng tế Khana và Caipha, một Philatô, tổng trấn Giuđêa tham lam tàn bạo, một Hêrôđê tiểu vương Galilêa,kẻ giết Gioan sau này. Gioan đã đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy để làm trọn sứ mạng Tiền Hô – Dọn Đường cho Đấng Cứu Thế.
|
| Kinh Benedictus bằng tiếng Việt |
Gioan là tiếng nói bất khuất. Vua Hêrôđê Antipas bỏ vợ, kết hôn với bà Hêrôđia, vừa là cháu vừa là chị dâu, một vụ loạn luân được dư luận bàn tán, một số tai tiếng không tha thứ được. Gioan đến trước nhà vua và nói: “Nhà vua không được lấy bà làm vợ” (Mt 14,3-5). Hêrôđê nổi giận truyền tống giam Gioan vào ngục Mechaerus, nhà vua muốn ngăn chặn một tiếng nói quấy rầy hơn là thủ tiêu một đối thủ, nhất là khi đối thủ là người đang có uy tín trong quần chúng. Vả chăng, chính ông cũng phải kiêng nể, hay đến thăm, trò chuyện với Gioan, có thể với hậu ý ve vuốt để cho qua chuyện. Nhưng tại hoàng triều, Gioan có một địch thủ nguy hiểm hơn cả nhà vua ham danh và hiếu sắc. Đó là bà Hêrôđia, từ lâu vẫn tìm cơ hội trả thù. Thánh Marcô đã mô tả tâm lý của các diễn viên trong màn kịch hoàng cung mà Hêrôđia là người chủ mưu và đạo diễn. Ngăn trở chính phải vượt qua là sự do dự của nhà vua trước dư luận quần chúng vốn thuận lợi cho Gioan. Cơ hội đã đến, vào mùa xuân năm 28, khi Hêrôđê Antipas mừng lễ sinh nhật. Từ ngày vua ruồng bỏ con gái vua Arêtas để kết hôn với Hêrôđia là cháu ruột, ông lo sợ một cuộc xâm lăng của bộ lạc Nabaton và có lẽ vì thế ông thường cư ngụ ở Machaerus, để trông chừng biên giới miền nam. Đây là một thành luỹ kiên cố, nhưng cũng là cung điện nguy nga tráng lệ. Nhà vua mời các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng tong xứ Galilêa đến dự tiệc sinh nhật. Theo phong tục thời đó, dạ yến hay biến thành cuồng loạn. Khi thực khách đã ngà ngà, thấy một thành hai, người ta thường cho các vũ nữ vào nhảy múa. Lần này chính Salômê, con gái Hêrôđia đảm nhận việc mua vui. Cô gái mới 15 tuổi nhưng cũng rất lành nghề, làm cho nhà vua, quan khách say mê. Antipas nói với thiếu nữ: “Con muốn gì, trẫm sẽ cho dù là nửa nước!” một lời thề như người Do Thái hay làm. Cô ra hỏi mẹ, người phụ nữ không tham dự trong cùng tiệc. Hêrôđia bảo: “Xin đầu Gioan Tẩy giả đặt trên đĩa này”. Salômê trở vào ỏn ẻn như một lệnh truyền: “Con muốn đức vua ban cho con cái đầu của Gioan đặt trên đĩa”. Hêrôđê hoảng hốt, nhưng việc đã rồi. Ông chần chừ trong khi cả triều thần nhìn ông, xem ông xử trí làm sao. Ông sai vệ sĩ đi lấy đầu Gioan trong ngục Machaerus bên cạnh tư dinh. Người cận vệ trở về với cái đầu loang máu. Nhà vua trao cho thiếu nữ, cô ta đem về cho mẹ. Các môn đệ Gioan Tẩy giả đến lấy xác thầy và mai táng trong mộ (Mc 6,29). Hêrôđia hả dạ vì giết được kẻ thù nhưng nhà vua thì lại lo lắng phập phòng. Để rửa nhục cho con gái bị bỏ rơi, vua Arêtas của người Nabaton, xua quân đánh bại đạo binh của Hêrôđê Antipas. Hơn nữa, hoàng đế Caligula đặt em của Hêrôđia là Agrippa đệ nhất làm vua thay thế và đầy Hêrôđê Antipas đi mãi tới tận xứ Gaule. Người đương thời coi đó là quả báo vì đã dám giết hại một nhà tiên tri, một vị Thánh. Gioan Tiền hô là gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước, một ngôn sứ bất khuất trước bạo quyền, bảo vệ bênh vực cho sự thật, luôn bao dung và khiêm tốn. Cả đời Gioan chỉ có một tâm nguyện là làm người dọn lòng người cho Chúa đến. Dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
|
| Nhà thờ kính Gioan Tẩy Gỉa |
Đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một đường dốc cao để đến Nhà thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ ngũ. Leo lên đúng 66 bậc thang mới đến Nhà thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng tuyệt đẹp. Nhà thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Đức Mẹ. Khi nghe tin bà Isave mang thai, Đức Mẹ đã vượt đường sá xa xôi đến thămvà giúp đỡ. Từ Nazarét về tới En Kerem cũng xa xôi lắm (90 km) và nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ Isave.Nơi đây bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Thiên thần Gabriel chào Đức Mẹ: “Vui lên, hỡi đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Bà Isave khi nghe Maria chào mình, cất tiếng tung hô: “Em thật diễm phúc hơn mọi phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (1,42). Đức Maria được diễm phúc vì Mẹ đã tin vào lời Chúa phán. Giáo hội đã nối kết hai lời ấy làm thành phần đầu kinh Kính Mừng để ca ngợi Đức Maria. Trước lời chúc khen của bà Isave, Đức Maria xúc động, cảm hứng từ bài ca ngợi khen và tạ ơn của bà Anna, mẹ của Samuel, chỉ còn biết dâng lên Thiên Chúa lời kinh ca ngợi Magnificat. Qua lời kinh tán tụng này, Đức Mẹ bày tỏ lòng biết
|
| Dâng lễ tại nhà thờ Gioan Tẩy Giả |
ơn sâu thẳm trước những việc kỳ diệu và trong đại mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi chính bản thân yếu hèn của mình, để qua Mẹ mà đến với toàn dân Thiên Chúa: “Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ Người… Đấng quyền năng đã làm cho tôi những điều cao cả”. Cuộc viếng thăm chan hòa niềm vui. Isave là người đầu tiên, nhờ ơn soi sáng của Thánh thần, nhận ra Maria là Mẹ Đấng Thiên sai, nên thốt lên: “Em có phúc vì đã tin”. Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ khi được hội ngộ với Đấng mà ông sẽ có sứ mệnh dọn đường. Đức Maria hân hoan cất tiếng ca tạ ơn Magnificat. Tất cả đều xuất phát từ niềm tin như ngọn nguồn của niềm vui. Hình ảnh Mẹ vội vã lên đường đem Thánh Thần bình an, đem Ngôi Lời Cứu Thế, đem niềm vui cứu độ chia sẻ cho người chị họ là bản trắc nghiệm cho lòng tin của mỗi người. Tin mang đến niềm vui và chia sẻ niềm vui cho người khác bằng tinh thần phục vụ đến quên mình.
Nhà thờ Đức Mẹ ngũSau kinh cầu nguyện trong Nhà thờ thăm viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ ngũ. Nhìn Đức Mẹ thánh thiện ngũ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức, khóc nghẹn ngào bên Mẹ. Theo truyền thống xa xưa, Đức Mẹ không chết mà chỉ ngũ một giấc rồi Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác. Phụng vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio (an giấc),
Deposotio (an táng), Transitus (qua đời), Natalis (ngày sinh vào Nước Chúa). Tất cả những danh từ đó đựoc dùng để nói tới cái chết của Đức Mẹ. Tiếng « assumptio » (bởi động từ assumere; sumere: cất lấy; ad: kết hợp, đoàn tụ) lúc đầu ám chỉ việc linh hồn Mẹ được vào vinh quang Chúa (giống như các thánh); về sau từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về trời. Giáo hội phân biệt hai từ ngữ « ascensio » áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên trời do quyền năng riêng, còn« assumptio » áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ đựơc đưa về trời. Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: « Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về trời cả xác hồn ». Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rắng Đức Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không đụng tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế Mẹ được cất về trời cả xác và hồn. Nhìn Đức Mẹ ngũ, tôi thấy toát lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp cao quý vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội,vì làm Mẹ Dấng Cứu Thế, vì niềm tin đơn sơ cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thư muối thiêng liêng, lung linh như ánh sáng dịu mát, huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Nhà tiệc ly: Tiếp tục hành hương đến phòng Tiệc Ly để thăm nơi Chúa thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Truyền Chức. Căn phòng nhỏ chừng 40m2, nền cũ kỷ, tường loang lỗ. Nơi đây đã diễn ra bữa băn cuối cùng của Chúa với các môn đệ (Lc 22,14-18). “Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và người yêu thương họ đén cùng.. . nên trong một bữa ăn, Người đứng đậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau ». Chúa dạy bài học yêu thương phục vụ: ”Vậy nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” ( Ga 13, 1-15). Qua Thánh Thể, Chúa tiếp tục nuôi dưỡng nhân loại bằng Mình và Máu Chúa trên hành trình của con người về quê hương vĩnh cửu: “Này là mình Thầy. Hãy cầm lấy mà ăn” (Mt 26:26), và “Tất cả hãy uống. Đây là chén máu Thầy. Máu Tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người để được tha tội” (Mt 26:27-28). Trong đêm đó Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một điều răn mới là « anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”.
|
| Trước phòng lưu trữ Scroll Kinh Thánh Qumran |
Cũng tại căn phòng này, Chúa đã hiện ra hai lần sau khi sống lại. Đây cũng là nơi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các môn đệ nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các tín hữu tiên khởi chọn Núi Sion làm trụ sở chính và xây cất thánh đường này sau khi được người Byzantin nới rộng và gọi là ‘Núi Thánh Sion’ để liên kết Giáo hội tiên khởi với lời tiên tri của Isaia: "Từ Sion sẽ phát sinh lề luật và từ Jerusalem sẽ phát sinh Lời Chúa". Người Ba Tư đã phá hủy Nơi Thánh này vào năm 614. Vào thế kỷ thứ 12 Đạo Binh Thánh Giá lại tái thiết thánh đường khác và trùng tu phòng Tiệc Ly. Năm 1176, người ta đã khám phá ra mộ của Đavit ở nhà nguyện lầu dưới. Chúng tôi lần lượt vào viếng lăng mộ Vua Đavit.
Rời Em Kerem, chúng tôi đi thăm Điện Kinh Thư, nơi lưu trữ những cảo bản Thánh Kinh cổ. Tiếp tục hành trình về Tel Avil chuẩn bị bay về nhà sau gần 10 ngày hành hương Đất Thánh.
B. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ.Một dòng tộc bị nguyền rủaKhoảng 3.000 trước CN, vùng mà người Do Thái (Jew-Israel) và người Palestines đang tranh dành nhau hiện nay, là đất của người Canaan, một dòng tộc được nhắc đến nhiều trong lịch sử và trong Thánh Kinh, nhưng dấu tích còn lại rất ít. Đó là vùng đất phía Đông của Địa Trung Hải. Tại đây, người Canaan đã sống trong những thành phố, trong đó có những thành phố rất nổi tiếng, thường được nhắc đến trong sách vở, như Giêrusalem và Giêricho. Họ đã có chữ viết và một tôn giáo sau này còn tồn tại nơi người Do Thái, và qua người Do Thái, ảnh hướng đến Thiên Chúa giáo và Hồi Giáo.
Theo thánh kinh, các thành phố của người Canaan đã bị người Do Thái huỷ diệt dưới thời của Giosuê (Gs 7-8). Người Do Thái thiêu huỷ thành Giêricho trước, sau đó đến thành Ai. Thánh kinh ghi rõ như sau: “Israel giết chúng, không sót một tên, không để thoát một mống. Vô thành ai bị bắt sống và bị diệt bởi Giosuê” (Gs 7, 22-23). Số người bị giết lên đến 12000 người.
Trở lui lại lịch sử một chút, chúng ta thấy người Canaan và người Do Thái không phải là những người xa lạ. Theo gia phả được ghi trong Thánh Kinh, người Canaan và người Do Thái đều là con cháu của ông Nôe. Sau trận đại hồng thuỷ, ông Noe sống sót với 3 người con là Sem, Ham và Jaspheth người Do Thái thuộc dòng của Sem và người Canaan thuộc dòng của Ham. Dòng dõi của Ham bị ông Noe chúc dữ, vì khi ông Noe uống rượu say và ngủ trần truồng, ông Ham đã chỉ trỏ và chế diễu. Canaan là con của ông Ham. Lời nguyền rủa của ông Noe như sau: “Canana đáng bị nguyền rủa! Nó phải là đầy tớ của anh em nó.”
Rồi ông nói: “chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Sem; Canaan phải là đầy tớ nó! Xin Thiên Chúa mở rộng Japheth, nó hãy ở trong lều của Sem, và Canaan là đầy tớ của nó.”
Dòng tộc Canaan là dòng tộc đầu tiên đến chiếm vùng đất mầu mỡ ở phía Đông Địa Trung Hải nên vùng đất đó được gọi là vùng Canaan. Dòng tộc Philistines – sau này gọi là Palestines – là một trong những dòng tộc thuộc dòng dõi của Canaan, một dòng dõi đã bị ông Noe chúc dữ, sống ở phía Nam vùng Canaan.
Vùng đất hứaAbram thuộc dòng của Sem được Thiên Chúa trọn lãnh đạo dân Do Thái. Khi ông đến vùng đất của dòng Canaan, tức vùng phía Đông của Địa Trung Hải, Thiên Chúa phán: “ ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi.” (St 12,7). Từ đó đất Canaan được gọi là đất hứa của người Do Thái.
Khi nạn đói xảy ra Abram, Abram dẫn dân Do Thái sang Ai Cập, nhưng bị vua Pharao đuổi, ông dẫn dân lên miền Negeb. Sau những trận đánh ác liệt, người Do Thái đã đánh bại nhóm vua Chodorlahomor ở vùng thung lũng Siddim, Thiên Chúa đã lập lại giao ước với Abram, tổ phụ của người Do Thái: “ Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến sông Cả (tức Euphrates), đất của những người Cinietes, Cenezites, Cedmonites, Hethites, Pherezites, Raphaim, Amorrites, Canaan, Gergeites và Jebusites.” (St. 15.19-20)
Do đó, đi đâu thì đi, đến đâu thì đến, nhưng người Do Thái vẫn cố tìm về đất Canaan. Tuy Thiên Chúa đã hứa như vậy, nhưng cuộc chiến đấu trở về và giữ vững vùng đất hứa này rất căm go, nó đã kéo dài trên 5.000 năm và đến nay vẫn còn được tiếp tục.
Đến thời Giacob làm lãnh tụ của Do Thái, khi ông đến thành Bethel của người Canaan, Thiên Chúa lại nói với ông: “tên ngươi là Giacob, nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Giacob nữa, ngươi sẽ được gọi là Israel.” Vậy người đặt tên cho ông là Israel. (St. 35,10-11). từ đó, con cháu của dân tộc Do Thái được gọi là dân Israel. Người Do Thái giữ mãi tên này cho đến bây giờ.
Biên giới Do Thái theo thánh kinhKhi nạn đói lại xảy ra, Giacob dẫn dân của ông đến Ai Cập và ông đã chết tại đây. Cuộc sống của dân Israel tại Ai Cập lúc đầu khá thoải mái và ngày càng lớn mạnh, nên vua Ai Cập lo sợ, đã tìm cách khống chế. Môisê đã làm một cuộc cách mạng, dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập, đi qua biển Đỏ và đến sa mạc Sinai. Sau nhiều cuộc chiến đấu vất vả, họ đến thảo nguyên Moab, gần sông Jordan, đối diện với thành Giêricho, rồi vượt qua sông Jordan vào chiếm đất Canaan. Thiên Chúa nói với Môisê: “ Hãy ra lệnh cho con cái Israel và bảo chúng: khi anh em vào đất Canaan, phần đất rơi vào tay anh em là gia nghiệp, chính đất Canaan với biên giới như sau:
“Phía nam của anh em bắt đầu từ sa mạc Sin, giáp giới Edom. Ranh giới phía nam sẽ khởi sự từ cuối biển muối (Salt Sea), ở mạn đông. Rồi ranh giới đó sẽ vòng xuống phía Nam, lên giốc Acrabbim, đi qua Sin, đến phia nam Cadesbarne, tiến về Hasar-Addar; sau đó từ Asemon ranh giới vòng xuống suối Ai Cập và đến biển.
“Phía tây anh em có biển lớn làm ranh giới. Đó là ranh giới phía tây của anh em.
“ và đây là ranh giới phía Bắc: từ biển lớn, anh em sẽ vạch một đường lên núi Hor, anh em sẽ vạch một đường đến cửa Hamath, ranh giới sẽ đi đến Sedada, rồi chạy tiếp đến Zephrona và chấm dứt ở Hasar-Enan. Đó là ranh giới phía Bắc của anh em.
“sau đó anh em vạch một đường làm ranh giới phía Đông từ Hasar-Enan đến Sepham. Từ Sepham, ranh giới đó sẽ đi xuống đến Ar-Baal, phía đông của Ain. Đi xuống nữa ranh giới đó sẽ tiếp giáp với các đồi phía đông biển hồ Chenereth; rồi biên giới sẽ tiếp tục chạy đến Jordan và chấm dứt ở Biển Muối.
“Đó là đất của anh em với các ranh giới chung quanh.”
Ông Môisê ra lệnh cho con cái Israel: “đó là đất mà anh em sẽ bốc thăm để chia nhau làm gia nghiệp, đất mà Thiên Chúa truyền phải ban cho chín chi tộc và một chi tộc.” (Ds 34, 1-13).
Khởi đầu cuộc chiến giữa Israel và PalestinesGiosuê là người kế vị của Môsê lãnh đạo dân Israel, đã mở những trận đánh lớn để diệt những dòng tộc của người Canaan và chiếm đất Canaan. Khi nghe tin Giosuê đã chiếm thành Giêricho và thành Ai, vua thành Giêrusalem là Adonicsedec và các vua khác đã cầu hoà với Israel rồi liên kết với nhau đánh chiếm miền Nam do người Philistines (tức Palestines) đang chiếm giữ. Các vua ở phía đông sông Jordan cũng bị Israel đánh bại. Cuộc chiến giữa Israel và Palestines bắt đầu từ đó. Thánh kinh cho biết, khi ông Giosuê đã già, vẫn còn nhiều vùng đất lãnh thổ Canaan đang do 5 thổ mục của Palestines chiếm giữ, đó là các vùng Gaza, Azotus, Ascalon, Geth và Accaron. (Gs.13). Các thế hệ nối tiếp của cả hai bên đã tiếp tục chiến đấu để được làm chủ vùng đất này.
Một vài nét đại cương như thế cũng đủ cho thấy rằng mặc dầu dòng tộc Israel và dòng tộc Palestines đều là con cháu của ông Noe, nhưng họ đã tranh nhau vùng Canaan, tức vùng đất màu mỡ phía đông Điạ Trung Hải, bằng những cuộc chiến tranh đẫm máu và bất khoan dung, kéo dài đã trên 5000 năm và đến bây giờ vẫn chưa dứt.
Thăng trầm qua lịch sử Khoảng năm 722 trước công nguyên, người Babylon đã đánh chiếm vùng Canaan và phá huỷ thành Giêrusalem của người Dothái và bắt người Do thái phải lưu qua Babylon.(Trong cổ sử, Babylon là một quốc gia ở vùng Mesopotania, giữa sông Tigris và sông Euphrates, ngày nay là khoảng từ Iraq đến vịnh Ba Tư). Tuy nhiên, người Do Thái vẫn được cho giữ quốc tịch và tôn giáo riêng của họ. Năm 539 TCN, Đại đế Cyrus của Ba Tư chinh phục được Babylon, người Do Thái được trở lại vùng Judea, khu vực của người Palestines. Mặc dầu bị đặt dưới sự bảo hộ của Ba Tư, người Do Thái vẫn được phép xây dựng thành Giêrusalem và sống với tôn giáo riêng của họ.
Vào năm 333 TCN, Đại đế Alexander đã chiếm vùng đất Palestines, nơi người Do Thái đang cư ngụ. Đại đế này và những người kế vị ông đã không thành công trong nỗ lực đồng hoá người Do Thái bằng tôn giáo và văn hoá Hy Lạp. Năm 141 TCN, dân Do Thái đã nổi dậy thành công và thiết lập một nước Do Thái độc lập, nhưng sau đó lại bị Đại đế Pompey của La Mã đến đánh chiếm và cai trị. Thời gian Chúa Giêsu giáng sinh và truyền đạo là thời gian Do Thái đang bị người La Mã đô hộ.
Trong thời gian từ năm 66-73 và năm 132-135 sau công nguyên, dân Do Thái đã tổ chức hai cuộc nổi dậy chống người La Mã nhưng không thành công, nhiều người Do Thái bị hành quyết hay bắt đi làm nô lệ. Người theo Do Thái giáo cấm đến viếng thăm Giêrusalem. Dưới thời Đại đế Constantine, Giêrusalem và vùng đất Palestines trở thành nơi hành hương của Thiên Chúa giáo.
Năm 638, Hồi giáo đánh chiếm Palestines và Giêrusalem. Thành Giêrusalem bị biến thành thánh địa đầu tiên của Hồi giáo. Các tín đồ Hồi giáo mỗi khi đọc kinh thường quay mặt về Giêrusalem. Sau này thánh địa của Hồi giáo được chuyển về Makkah và Medina. Người Do Thái bị buộc phải chọn hoặc theo Hồi giáo và nộp cống hoặc chết. Nhiều người Do Thái vượt qua khó khăn bằng cách sống thầm lặng, hoặc di cư đến những nơi khác để tiếp tục sinh sống và giữ đạo của họ.
Năm 1517 Đế quốc Ottomans của Thổ Nhĩ Kỳ chiếm vùng Địa Trung Hải, cai quản đất Palestines trong gần 400 năm. Nhà cách mạng Ai Cập là Mohammed Ali đã thực hiện hai cuộc nổi dậy trong hai thập niên 1830 và 1840 nhưng không thành công.
Quyết tâm trở về của người Do Thái.Năm 1897, Theodor Herzl (1860-1904) đã đi khắp nơi vận động một phong trào gọi là Zionimus (hay Zionism hoặc Sonisme), thường được gọi World Zionist Organization để đưa người Do Thái trở về “đất hứa” của họ trên vùng Canaan ngày xưa. Sion là tên của hòn núi thánh ở phía đông Giêrusalem, nơi tượng trưng tinh thần của người Do Thái. Phong trào này trước được thành lập tại Châu Âu, về sau lan ra rộng khắp nơi.
Sau đại chiến thứ I (1917-1918), khối Arập đã giúp Anh đánh bại Đế quốc Ottomans và chiếm vùng Palestines, vì Anh hứa sẽ trao trả độc lập cho các dân tộc Arập. Nhưng Anh cũng đã hứa như vậy với người Do Thái. Do đó, khi kí kết hiệp ước với Pháp và Nga năm 1916 tại Sykes-Picot, Anh tuyên bố sẽ chia vùng này thành hai vùng, đặt dưới sự cai quản của đồng minh. Ngày 2.11.1917 Ngoại trưởng Anh là Arthur James Balfour đã đưa ra một tuyên bố nổi tiếng, hứa sẽ cho thành lập một quốc gia Do Thái tại đất Palestines. Năm 1922 Anh chính thức chia vùng Palestines làm 2 khu vực, phần phía tây được giao cho người Do Thái, phần phía đông cho hình thành một quốc gia mới lấy tên là Transjordan do Abdullah cai quản. Abdullah là người A-rập bị khối A-rập trục xuất. Tính lại, phần đất của Do Thái chỉ bằng 22% phần dành cho người Transjordan. Năm 1946 Anh trao độc lập cho Transjordan và tạo thành một nước Palestines - Arập mới.
Khối Arập đã phản đối mãnh mẽ sự phân chia này. tướng Azzam Pasha, Tổng thư ký Liên Đoàn Ả Rập tuyên bố sẽ mở “Jihad” (tức thánh chiến) đẻ chiếm lại. còn Hajamin nói: “tôi tuyên bố một cuộc thánh chiến. hỡi những người anh em hồi giáo! Hãy giất người Dothái! Hãy giết tất cả chúng!”.
Không làm gì được trước tình trạng này, năm 1947 Anh đưa vấn đề cho liên hiệp quốc giải quyết. ngày 29-11-1947, đại hội đồng liên hiệp quốc đã họp và quyết định 2/3 phiếu thuận, chia phần phía Tây phe Aletresttine cho người Do Thái. phần đất này chỉ có 25% là màu mở còn 75% là sa mạc. người Ả rập cương quyết chống lại, Jordan đem quân chiếm phía đông Giêrusalem và một phần lớn ở phía tây sông Jordan, thu hẹp lãnh thổ Dothái lại.Ai Cập đem quân chiếm dãy Gaza và bao vây phía nam Giêrusalem. mặt sdầu bị mất mát lớn như thế, Dothái vẫn tồn tại.
Cuộc trở về đầy gian khổ.Trong khi cuộc chiến xảy ra, trên đất Arập có khoảng 870.000 người Dothái đang sinh sống. Nhiều cộng đồng của họ đã có cách đây khoảng 2500 năm. những người Dothái này bắt đầu bị khủng bố, tài sản của họ bị tịch thu. Khoảng 600.000 người Dothái đã phải từ bỏ vùng của người Arập, trở về định cư tại vùng dành cho người Do thái. nhiều người Do Thái đã thoát khỏi cuộc tàn sát của Đức quốc xã trong thế chiến thứ II cũng quay về.
Năm 1948, do sự khuyến khích của các lãnh tụ ARập, khoảng 720.000 người ARập di cư ra khỏi vùng đất dành cho ngưòi Do thái. Các lãnh tũ A Rập Chúa sẽ đưa họ về sau khi đánh bại Dothái. thủ tướng Dothái Đavítd Ben-gurion đã khuyến khích người Ả Rập ở lại và hứa không làm hại họ nhưng họ cứ đi. khối A Rập thành lập những trại tỵ nạn cho người Palestines chung quanh vùng lãnh thổ dành cho người Dothái và người Palestines để chống lại Dothái.
Ngày 7-1-1949 một hiệp ước ngưng bắn đã được ký kết giữa Dothái với Aicập, Syria, Libanon và Tansjordan (sau này đổi thành Jordan), nhưng tới lúc đó Dothái đã chiếm thêm được khoảng 50% phần đất đã đựơc Liên Hiệp Quốc giao cho, gồm vùng phía tây vùng gallile làm thành một hành lan rộng lớn xuyên qua trung tâm Palestines tới Jerusalem và một phần của Jerusalem. Nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục.
Tháng 4-1950 Jordan chiếm thêm West bank và Ai Cập chiếm vùng Gaza, nhưng không nước nào dành cho người Palestines quền tự trị. Hai vùng Juđea và Samaria đưỡc xác nhập vào Jordan. Đây là hai vùng được dùng làm địa bàn để thực hiện các cuộc khủng bố người Dothái. Họ đã thành lập một tổ chức gọi là FATAH (hay Fatek hoặc Fedayee) để khủng bố dân chúng Dothái. từ 1949-1956 đã có khoảng 1300 thường dân Dothái bị giết. Aicập phong toả hải cảng Eliat làm Dothái gặp nhiều khó khănm trong việc giao thông với ngoại quốc. ngày 29-10-1956 Dothái liền mở cuộc tấn công vào khối A Rập. Anh và Pháp cũng mở cuộc tấn công Ai Cập để giải toả kênh đào Suez. Nhưng các cuộc xung đột vẫn tiếp tục.
Sự xuất hiện của PLO và Yesser ArafatNăm 1964 tổ chức giải phóng Palestines (Palestines liberation Organistion- PLO) đã được thành lập dười sự tài trợ của Liên Đoàn A Rập để traanh đấu lấy lại phần đất mà họ cho rằng Dothái đã chiếm của họ.
Yesser Arafat có cái tên khá dài là Mohammed Yesser Abddul-Raouf Qudwa Al-Husseini, sinh ngày 24-8-1929 tại Cairô (có sách nói là tại Jerusalem). Ông có người vợ tên là Suha At-Taweel và mọt ngưòi con gái tên là Zahwa. Ông tốt nghiệp bằng kỹ sư canh nông năm 1951 tại đại học King Fuad ở Ai Cập. Năm 1958 ông tham gia tổ chức Fatah chống lại người Dothái. Năm 1967 tổ chức Fatak liên kết với tổ chức PLO và năm 1968 ông được bầu làm chủ tịch tổ chức PLO.
Năm 1970 lực lượng PLO đã đụng độ đẫm máu với lực lượng của Jordan và bị trục xuất qua lebanon. Năm 1982, khi Do Thái tấn công Lebanon, khoảng 12 000 quân võ trang của PLO di chuyển đến Syria và các nước A-rập khác và đặt bộ tư lệnh tại Tunisia. Bộ tư lệnh này đã bị Do Thái phá huỷ năm 1985.
Năm 1974, Hội nghị thượng đỉnh của khối Arập họp tại Moroco đã công nhận PLO là tổ chức đại diện chính thức của người Palestines.
Cuộc chiến 6 ngày.Năm 1967 các nước Arập quyết tâm đánh bại Do Thái. Syria từ cao nguyên Golan pháo kích liên tục vào các thành phố của Do Thái. Ngày 15 – 5- 1967 lực lượng của Ai Cập tiến chiếm Sinai. Các nước Jordan, Iraq và Arập Saudi cũng đem quân phong toả Do Thái. Tổng thống Nasser của Ai Cập tuyên bố: “mục tiêu của chúng tôi là tiêu diệt Do Thái…”. Trước tình trạng này, ngày 5-6-1967, với võ khí tối tân được Hoa Kỳ cung cấp Do Thái đã mở cuộc tấn công Ai Cập và kêu gọi Jordan đứng ngoài cuộc chiến, nhưng Jordan từ chối. Ngày 8-6-1967, Do Thái đánh bại trận Jordan và chiếm vùng Juda và Samaria. Sáng 9-6-1967 Do Thái đánh bại quân Syria trên cao nguyên Golan… chỉ trong 6 ngày, quân Do Thái đã chiếm trọn bản đảo Sinai, dảy Gaza, vùng Judea, và Samaria, và cao nguyên Golan. Qua các cuộc thương lượng, một cuộc đình chiến đã được thiện hiện, nhưng Do Thái không chịu rút ra khỏi tất cả những vùng họ đã chiếm được. Khối Arập dùng chiến dịch khủng bố để tiếp tục chống lại Do Thái. Năm 1973, Ai Cập và Syria lại mở cuộc tấn công Do Thái nhưng thất bại.
Một giải pháp cho Palestines.Tháng 11-1988, Hội Đồng An Ninh quốc gia Palestines họp tại Algiers, tuyên bố thành lập một nước Palestines độc lập và lấy Giêrusalem làm thủ đô. Hội đồng cũng quyết định sử dụng nghị quyết số 242 và 338 của Liên Hiệp Quốc về quyền tự quyết của người Palestines để làm căn bản cho cuộc thương thuyết hoà bình. Sau những cuộc thương thuyết gây cấn và kéo dài, Do Thái và PLO đã kí hiệp ước hoà bình ngày 13-9-1993 trong khuôn viên toà Bạch Ốc của Hoa Kỳ, trước sự chứng kiến của tổng thống Clinton và hai cựu tổng thống George Bush và Jimmy Carter. Theo hiệp ước này Do Thái thừa nhận quyền tự trị của người Palestines trên vùng Gaza và West Bank, bắt đầu là tại thành phố Giêricho. Ngày hôm sau, Do Thái lại ký hiệp ước sống chung hoà bình với các quốc gia Arập. Ngày 28-9-1995 hai bên đã trở lại Washington kí hoà ước chính thức công nhận quyền tự trị của Palestines trên vùng West Bank.
Tính sổ lại, chúng ta thấy sau nhiều cuộc đấu tranh đẫm máu và cam go, Do Thái đã có một vùng rộng 8.020 dặm vuông trên vùng đất hứa với dân số 5.938.000 người (Do Thái chiếm 82%), trong đó thủ đô Giêrusalem có 550.000 người. Tổng sản lượng quốc gia của Do Thái là 105 tỉ mỹ kim và lợi tức theo đầu người là 18.300 mỹ kim. Đây là một mức tương đối cao. Tại vùng Gaza rộng 140 dặm vuông có 925.000 dân và vùng West Bank rộng 2.270 dặm vuông có 2.500.000 dân. Mặc dầu đã có hiệp ước hoà bình, cuộc chiến vẫn chưa dứt và có thể nói là không bao giờ dứt, vì nhiều người Arập vẫn chủ trương phải tiêu diệt Do Thái.
Do thái cương quyết bảo vệ đất hứa của họ trên vùng Canaan ngày xưa, một vùng đất mà họ đã phải chiến đấu liên tục trong hơn 5.000 năm để chiếm đoạt và bảo vệ. Người Palestines cũng cương quyết bảo vệ mảnh đất mà cha ông của họ đã từng sinh sống trên đó cách đây hơn 5.000 năm trước.
Người Palestines tuy yếu nhưng có khối Arập đứng đằng sau, nhất là khối tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Trước một khối sức mạnh như vậy, Do Thái vẫn đương đầu được vì các lý do sau đây:
Lý do thứ nhất là Do Thái có những võ khí tối tân nhất thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Mỗi năm Hoa Kỳ viện trợ cho Do Thái khoảng 3 tỷ 500 triệu Mỹ kim về quân sự. Có thể nói, hầu hết các võ khí tối tân nhất của Hoa Kỳ đều đã được chuyển cho Do Thái, vì Do Thái được coi là tiền đồn của Hoa Kỳ tại vùng Trung Đông. Bất cứ chuyện “ngổ nghịch” nào xảy ra trong khối Arập, Do Thái cũng có khả năng can thiệp ngay tức khắc. Nếu không có Do Thái đóng trụ ở đó, các nước Arập sẽ liên kết lại và bất thần giáng hoạ cho Hoa Kỳ cả quân sự lẫn kinh tế. Ngoài ra sự lớn mạnh cuả Do Thái bắt buộc các quốc gia Arập lại bỏ tiền ra mua vũ khí cho Hoa Kỳ canh tân canh tân liên tục để bất trắc đây là một mối lợi lớn của Hoa Kỳ.
Lý do thứ hai là khối người Do Thái lưu vong trên thế giới, nhất là tại Hoa Kỳ, luôn yểm trợ cho người Do Thái ở quê hương. Tại Hoa Kỳ hiện có 6 triệu người Do Thái, ở Châu Âu có khoảng 2 triệu 200 ngàn người (đa số ở vùng Liên Xô cũ), Pháp có 6.000 người, Anh có 3.000 người, Đức 50.000 người,…. Trong những người Do Thái lưu vong này có những người rất giàu có hoặc đang giữ những chức lớn trong chính quyền tây phương như Henry Kissinger, Joseph Liebeman…, những người Do Thái lưu vong đã vận động hậu trường rất giỏi để các nước phương tây luôn yểm trợ Do Thái.
Lý do thứ ba là người Do Thái có một niềm tin bất diệt nơi Thiên Chúa Yahweh, Đấng luôn che trở và bảo vệ và bên vực dân tộc Do Thái. Họ tin chắc dân tộc Do Thái nhất định phải toàn thắng. Từ năm 638, Hồi giáo đã mở cuộc thánh chiến chiếm toàn khối Arập và phía Bắc Phi Châu biến vùng này thành những quốc gia Hồi giáo. Họ buộc người Do Thái phải chọn: “hoặc theo Hồi giáo và nộp cống hoặc phải chết”. Nhưng đa số người Do Thái vẫn giữ đạo của họ.
Ngoài ra, dù ở đâu trong hoàn cảnh nào, ngươi Do Thái vẫn gắn bó với nhau và sống cho quê hương. Họ lại là những người rất thông minh, có đầu óc thực tế, cương quyết, chịu khó làm và hoạt động có phương pháp, các lãnh đạo có chiến lược và chiến thuật. Thiếu những đặc tính đó, người Do Thái lưu vọng đã bị đồng hoá từ lâu và ngày về sẽ không có.
Người Palestines biết mình là kẻ yếu, không thể đương đầu nổi Do Thái, nhưng họ không chịu ngồi yên, họ dùng vũ khí của kẻ yếu là khủng bố để chống lại. Thêm vào đó là sự trợ giúp và xúi biểu của các thành phần Arập chống lại Do Thái và chống Hoa Kỳ. Do Thái dĩ nhiên không bao giờ chịu ngồi yên cho kẻ địch chơi thọc nách như thế. Chiến thuật của Do Thái là thỉnh thoảng mở cuộc hành quân “lùng và diệt địch” ngay trên những sào huyệt của những tổ chức khủng bố, phá đi tiềm lực của chúng về cả võ khí lẫn con người. Sau những cuộc hành quân “lùng và diệt địch” như thế Do Thái tin rằng nếu muốn phục hồi lại, người Palestines phải có một thời gian rất dài, trong thời gian đó Do Thái sẽ được bình an.
(Theo tài liệu của sử gia Lữ Giang; thamkhảo: Our visit to the Holy Land, Fr.Peter R. Vasko, OFM; The Holy Land, Palphot).
Israel là hình ảnh của Giáo Hội. Kinh Thánh Cựu Ước liên quan rất nhiều đến lịch sử Đất Nước và Dân Tộc Israel. Biết thêm được đôi điều về địa lý, lịch sử Israel để có thêm sự hiểu biết về Cựu Ước và Tin Mừng.
“Những người hiền lành sẽ được đất làm sản nghiệp”,đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bát Phúc,lấy lại Thánh vịnh 37. Hy vọng mọi nổ lực của thế giới của Giáo hội sẽ mang lại hoà bình cho miền đất Thánh Thiêng.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 20:20)
Nhân Ngày 30 Tháng Tư,
Nhìn Lại Thái Độ Một Đồng Minh Nước Úc vốn có rất ít quan hệ với Việt Nam Công Hòa và không đóng vai trò quan trọng gì trong việc quyết định tương lai của nền Cộng Hòa ấy, nhưng có lúc họ cũng đã “lợi dụng” chiến tranh Việt Nam trong thế phòng thủ chiến lược của họ. Nên khi việc lợi dụng ấy không còn đáng giá nữa, cũng như mọi người khác, họ chẳng ngần ngại gì không quay 180 độ. Nhân ngày 30 tháng Tư, thử ôn lại bài học lịch sử năm xưa. I. Liên Đảng và Chiến Tranh Việt-Nam1. Một quyết định ngạc nhiênNgày 29 Tháng 4 năm 1965 (gần đúng 10 năm trước ngày 30-04-1975), Thủ tướng Menzies của Úc chính thức công bố sự can dự của Nước ông vào cuộc chiến ở Việt-Nam. Ông giải thích lý do của sự can thiệp này như sau:
“Việc mất Nam Việt Nam sẽ là một đe doạ quân sự trực tiếp đối với Úc và mọi quốc gia Miền Nam và Đông Nam Á Châu. Ta phải nhìn điều đó như là một phần trong cuộc nam tiến của Cộng sản Trung Hoa giữa Ấn độ và Thái Bình Dương”.
Bốn mươi năm đã trôi qua, đủ để người ta hiểu ra những nguyên động lực đã thúc đẩy ông Robert Menzies đi đến một quyết định quan trọng như thế đối với một quốc gia thực ra không có nhiều quan hệ gắn bó với Úc, một quyết định làm ngạc nhiên không những Việt-Nam Cộng Hòa mà cả người bạn đồng minh, đến lúc đó, vẫn được coi là hững hờ với số mệnh nước Úc, tức chính phủ Hoa-Kỳ.
Dù quân số do ông Menzies gửi qua Nam Việt-Nam ngày 29-04-1965 chỉ là một tiểu đoàn pháo binh với các đơn vị yểm trợ, nhưng đó là một đóng góp hết sức có ý nghĩa. Ý nghĩa đầu tiên đó là lực lượng chiến đấu, trong khi Hoa-kỳ chỉ hy vọng Úc sẽ gửi thêm huấn luyện viên cho Quân Lực Việt-Nam Cộng Hoà. Thực thế, để trả lời cho câu hỏi châm chọc của viên chức ngoại giao Úc (Waller) về các hành động có thể có của Mỹ từ tháng Giêng 1965 trở đi, Bundy đã bực dọc phản pháo bằng cách nhắc đến lời hứa của Úc gửi thêm 30 huấn luyện viên qua Nam Việt-Nam mà mãi vẫn chưa thấy thực hiện. Càng ý nghĩa hơn nữa là kế hoạch này, tuy được Mỹ và quốc hội chấp thuận và chính thức công bố ngày 29 tháng 4 năm 1965, nhưng thực ra đã được đưa ra từ ngày 18 tháng 12 năm 1964, lúc Mỹ chưa chính thức đưa quân tác chiến vào Nam Việt-Nam (thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà nẵng tháng 3 năm 1965). Ý nghĩa thứ hai, đây là lực lượng chiến đấu gồm quân nhân không tình nguyện đầu tiên được gửi ra ngoại quốc trong suốt lịch sử Úc, và cũng là lực lượng đầu tiên gửi ra ngoại quốc tiếp sau lệnh động viên có tuyển lựa (selective compulsory conscription) ban hành năm 1964, nhằm nâng quân số lên 37.000 người. Quân số này là quân số tối đa. Trên thực tế, trước khi lệnh này được ban ra, toàn nước Úc chỉ có hai tiểu đoàn để phòng vệ một lục địa bao la. Số lớn khác đã phải phái qua Mã-Lai và Bắc Borneo. Xem như thế, thì số quân một tiểu đoàn chiến đấu kia qủa là một đóng góp có ý nghĩa. Đơn vị nhỏ bé ấy nhanh chóng phát triển thành một Lực Lượng Đặc Nhiệm (tương đương một Lữ Đoàn) gồm từ ba đến bốn tiểu đoàn với các đơn vị yểm trợ của Thiết Giáp, Công Binh, Pháo Binh và Tiếp Vận cũng như các đơn vị không quân, trực thăng và hải quân. Vai trò của các đơn vị này cũng nhanh chóng thay đổi từ canh gác và phòng bị qua trực tiếp hành quân chống lại Công Sản Việt-Nam. Quân số ấy lên đến cao điểm 8,000 người vào năm 1968-1969. Điều có ý nghĩa khác nữa là quyết định của ông Menzies được toàn dân ủng hộ, kể cả những nhân vật tên tuổi thuộc đảng đối lập như Whitlam, Beazley (Bố) và Benson. Và dù ông Menzies rời khỏi chính trường năm 1965, Chính phủ Liên đảng dưới sự lãnh đạo của Harold Holt vẫn đạt được chiến thắng lẫy lừng vào năm 1966 với một đa số lớn hơn trước nhờ một cử tri vẫn tin rằng cần phải có mặt và tiếp tục hiện diện ở Việt-Nam.
2. KonfrontasiÔng Menzies quả đã đọc được ý nghĩ thầm kín của tuyệt đại đa số cử tri Úc. Thực ra, cái cử tri ấy chẳng mấy quan tâm đến điều ông Menzies chính thức nói ra. Họ không hẳn sợ anh khổng lồ Trung Quốc xa xôi, mà sợ cái anh chàng hàng xóm Nam Dương kế cận. Và ông Menzies khi cam kết đem quân vào Việt-Nam chỉ là bỏ ra một mà nhằm lời cả trăm. Đã đành người Úc rất sợ anh khổng lồ Trung Quốc. Cái biển người Quân Đội Nhân Dân Trung Hoa tràn vào Triều Tiên thập niên 1950 là hình ảnh ít người Úc nào có thể quên được. Nhưng điều họ sợ hơn cả chính là chính sách Konfrontasi (Đương Đầu) của Nam Dương năm 1963 và sự hững hờ trông thấy của Mỹ đối với Hiệp Ước Mỹ Úc Tân Tây Lan (ANZUS) ký năm 1951, một hiệp ước Úc đặt rất nhiều kỳ vọng.
Ai cũng biết sau Thế Chiến Hai, Chính phủ Lao động của Thủ tướng Chiefly rất có thiện cảm đối với yêu sách tự trị của Nam Dương, một phần vì những cam kết sâu xa đối với Hiến Chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter) năm 1941, một phần vì muốn loại trừ ảnh hưởng của Hòa Lan ra khỏi bán đảo này. Điều này khiến ngoại trưởng Nam Dương, Tiến sĩ Subandria, gọi Úc là “bà đỡ của Cộng Hòa Nam Dương”. Nhưng thái độ ấy không được cả Anh lẫn Mỹ có thiện cảm, vì hai cường quốc này, lúc ấy, vẫn muốn Nam Dương tiếp tục nằm trong những bàn tay “thân hữu” (thực dân). Do đó, chính phủ kế tiếp của Liên Đảng, lên cầm quyền năm 1949, đã thay đổi chính sách đối với Nam Dương, nhất là khi thấy sự thỏa hiệp lộ rõ giữa Nước này và Đảng Cộng sản Úc qua vụ Nghiệp Đoàn Công Nhân Bến Tầu từ khước không chịu chất hàng cho tầu Hòa Lan đi Nam Dương. Liên Đảng, vốn không thích chủ nghĩa cộng sản, nên đã ngờ vực bất cứ ai bắt tay với nó. Cảm tình thân Hòa-lan vì thế dâng cao. Có người cho hay Menzies đáng lý ra đã có thể chỉnh đốn được cái thiên kiến hẹp hòi ấy nếu không có vấn đề Tân Guinea (New Guinea) với tầm quan trọng chiến lược của nó. Người Úc vốn không quên năm 1942, khi việc chém giết của người Nhật xẩy ra ngay bắc Port Moresby. Ký ức ấy khiến tân tổng trưởng ngoại giao, P.C. Spender tuyên bố Tân Guinea là “chiếc móc hoàn toàn chủ yếu trong dây xích phòng thủ Nước Úc” và thêm rằng Úc có “bổn phận, bằng mọi phương thế có thể có, đảm bảo rằng tại khu vực đảo kế cận Úc, theo bất cứ hướng nào, không gì có thể xẩy ra mà lại đe doạ cách này cách khác tới Úc được”. Một trong những phương thế ấy dĩ nhiên là việc ủng hộ sự tiếp tục hiện diện của người Hòa Lan tại Tây Tân Guinea (nay là Irian Jaya) như một trái độn chống lại chủ nghĩa bành trướng của Nam Dương. Chính phủ Liên đảng vì thế một mặt hợp tác với Hòa Lan, một mặt vận động (lobby) với Liên Hiệp Quốc làm nản yêu sách của Nam Dương đối với hòn đảo này. Úc làm thế một phần vì chắc mẩm cả Anh lẫn Hoà kỳ đều mặc nhiên ủng hộ sự hiện diện tiếp tục của Hòa Lan tại Tây Tân Guinea. Dù sao, Úc từng ký ANZUS với Mỹ với kỳ vọng cột chặt Nước Mỹ trước nhất và đầu hết vào việc phòng thủ Úc (dù Hiệp Ước chỉ dự trù ba bên “tham khảo” trong trường hợp một trong ba bên bị tấn công. Không như NATO coi cuộc tấn công chống một nước hội viên là tấn công mọi nước khác trong Hiệp Ước). Nhưng các biến cố lúc đó cho Úc thấy sự chắc mẩm của họ không có căn bản: cả Anh lẫn Mỹ đều tiếp tục chở vũ khí đến Nam Dương. Đứng trước sự thật ấy, Úc bắt đầu dịu giọng và mời ngoại trưởng Nam Dương, Subandria, qua Canberra. Thái độ dịu giọng ấy làm dư luận dân chúng phản đối khiến chính phủ Menzies, lúc ấy chỉ nắm được đa số một phiếu tại Hạ viện, phải quay trở lại chính sách cứng rắn cũ. Tuy nhiên, đã quá muộn. Lợi dụng thái độ hoà hoãn của Canberra, Nam Dương đẩy mạnh yêu sách của họ đối với Tây Tân Guinea. Tháng Sáu 1958, Nam Dương cho hay họ không tha thiết đến các phương thế luật lệ nữa, nhưng muốn dùng “tranh đua lực lượng” để giải quyết tranh chấp với Hòa Lan. Tình thế đi vào ngõ bí. Đại Hội Đồng LHQ năm 1961 không giải quyết được gì: chán chường vấn đề, chính phủ Hòa Lan trao nó cho LHQ giải quyết. Nhưng LHQ từ chối. Mỹ và phần lớn các quốc gia khác không muốn ủng hộ bất cứ cố gắng nào nhằm ngăn cản Nam Dương chiếm hữu lãnh thổ này, vì Tiến sĩ Sukarno lúc đó rất có ảnh hưởng đối với Thế Giới Thứ Ba. Mặt khác, lúc ấy cũng là lúc Ấn Độ chấm dứt sự hiện diện thực dân của Bồ Đào Nha tại Goa bằng võ lực. Khi thấy LHQ bất lực, thái độ của cả Nam Dương, Hòa Lan và Mỹ đều thay đổi. Một ngày sau khi Ấn xâm lăng Goa, Tổng thống Sukarno ra lệnh tổng động viên. Ông còn gửi cho TT Kennedy một bức thư đe doạ rằng Nam Dương sẽ sử dụng võ lực, nếu cần, để giải quyết tranh chấp. Chính phủ Mỹ tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh, nên đã kêu gọi hai bên ngồi vào bàn thương nghị. TT Kennedy áp lực Hòa Lan bãi bỏ điều kiện tiên quyết đòi cho dân Tây Tân Guinea được quyền tự trị, và nhận làm trung gian thương nghị. Dù không chính thức từ bỏ điều kiện tiên quyết ấy, nhưng đến cuối năm 1961, Hoà Lan miễn cưỡng phải chấp nhận thực tế trước áp lực quân sự của Nam Dương và áp lực ngoại giao của Mỹ. Kết quả: một thoả ước được ký ngày 15 tháng 8 năm 1962 đặt Tây Tân Guinea (Đông Tân Guinea vốn dưới quyền quản trị của Úc) dưới quyền quản trị của LHQ trong một thời gian ngắn, trước khi trao qua tay Nam Dương. Ngày 17 tháng 8 năm 1963, khi Sukarno tuyên dương “Năm Chiến Thắng”, ông ta biết rằng nạn nhân của ông ta bao gồm luôn nước Úc. Ít nhất ông ta cũng biết rằng từ nay trở đi, nếu có tranh chấp giữa hai nước, ông ta chắc chắn khỏi bận tâm đến phản ứng của người bảo bọc Úc là Nước Mỹ.
Úc chẳng làm gì được trong trận tranh chấp trên chỉ vì cái Lục quân nhỏ bé của mình lúc ấy chỉ gồm 4 tiểu đoàn bộ binh cộng với một ít đơn vị yểm trợ. Năm 1955, Menzies gửi một trong các tiểu đoàn kia qua Mã Lai (Malaya) như một phần trong Lực Lượng Trừ Bị Chiến Thuật Khối Thịnh Vượng Chung.
3. Động ViênSau khi chính sách đối với Tây Tân Guinea thành công, Sukarno áp dụng nó cho tân quốc gia Mã Lai Á (Malaysia), vừa được thành lập từ Mã-lai, Sarawak, Bắc Borneo, Tân Gia Ba và Brunei. Khởi đầu chỉ khẩu chiến, tiếp theo là biểu tình và bạo động chống Anh và chống Mã Lai Á. Cuối cùng là xâm nhập quân sự, vượt qua biên giới, gây rối Bắc Borneo. Anh lập tức gửi quân qua và Úc theo chân gửi qua đó một tiểu đoàn để “duy trì ổn định trong vùng”. Còn lại 2 tiểu đoàn bảo vệ đất liền và nhiều lãnh thổ rải rác khác!
Có điều ông Menzies vẫn được lòng dân. Cuộc bầu cử tháng 11 năm 1963 với chủ đề quốc phòng vẫn đem lại cho ông thêm bẩy ghế nữa tại Hạ Viện. Với chiến thắng này, ông chuẩn bị đối đầu với Nam Dương. Việc đối đầu này chỉ bao gồm những cuộc hành quân chống khởi loạn tại Bắc Borneo. Tuy nhiên, chính phủ Menzies rất lo ngại một cuộc tấn công trực tiếp của Nam Dương vào lãnh thổ mình, nhất là Tân Guinea. Thực vậy, tháng 5 năm 1964, nhân khi kêu gọi “21 triệu chí nguyện quân” lên đường đè bẹp Mã Lai Á, Sukarno cảnh cáo Úc đừng nhúng tay vào vì đây là vấn đề của riêng người Á Châu; nếu Úc cứ nhúng tay vào, thì Úc hoàn toàn chịu lấy trách nhiệm. Tại quốc hội, một cuộc tranh luận nổ ra là trong trường hợp Nam Dương tấn công, liệu Mỹ có vì hiệp ước ANZUS mà can thiệp không. Ông Menzies mạnh miệng nói là có. Nhưng phần đông vẫn lo sợ là không (dù tháng 12 năm 1963, Sukarno phải giật mình khi thấy một phần Hạm Đội 7 diệu võ dương oai ngay ngoài khơi Nam Dương và Dean Rusk doạ sẽ nại đến Hiệp Ước ANSUZ, khi quân đội Úc và Tân Tây Lan bị liên lụy). Chính trong bầu khí ấy, dự luật động viên đã được đệ trình quốc hội ngày 10 tháng 11 năm 1964, nâng ngân sách quốc phòng lên thêm 41 triệu bảng và nâng số quân lên 37.000 người.
Người Úc vốn không thích chi tiêu nhiều về quốc phòng. Họ muốn các đồng minh của họ gánh đỡ. Bất đắc dĩ, họ mới phải thắt lưng buộc bụng như lần này. Bất đắc dĩ này, có người cho, là do áp lực của Mỹ trước nhu cầu chiến tranh Việt-Nam. Úc thường bị Mỹ chỉ trích là chuyên dùng những phương cách rẻ tiền để mời gọi sự can dự của Mỹ. Chính vì vậy năm 1962, Dean Rusk nhắc khéo Barwick (ngoại trưởng Úc) về sự hiện diện của 8,000 quân nhân Mỹ ở Việt-Nam, trong khi số quân nhân của Úc là không. Cho nên, khi nghe tin Úc ra lệnh động viên, Rusk rất hài lòng và hứa sẽ phúc trình cho Johnson tin gia tăng ngân sách quốc phòng của Úc. Đàng khác, ngày 24 tháng 11 năm 1964, Hasluck và Howson đã đích thân trao sắc lệnh động viên của quốc hội cho Hoa Thịnh Đốn. Chính Hasluck minh xác với các ký giả rằng tình hình ở Lào và Việt-Nam nguy kịch hơn cả Konfrontasi. Và để chứng minh điều ấy, Menzies phái một tiểu đoàn chiến đấu qua Việt-Nam, quá cả lòng mong đợi của Mỹ, với lời giải thích hoàn toàn phù hợp với đường lối của Hoa Thịnh Đốn lúc bấy giờ.
Các nhà bình luận Úc ngày nay như Peter Edwards, Frank Frost, Gregory Pemberton…phần lớn không tin ông Menzies nói thật lòng mình. Chiến lược của ông thật sự nhằm vào việc cột chặt nước Mỹ vào hiệp ước ANZUS, để phòng khi Sukarno làm ẩu, Mỹ sẵn sàng nhẩy vào chống đỡ, chứ không tơ lơ mơ như trước đây. Và ông vẫn chỉ áp dụng phương cách rẻ tiền để đạt mục đích: một tiểu đoàn, sau này thành lữ đoàn, quá rẻ so với Hạm đội 7 và hoả tiễn liên lục địa của Mỹ. Edwadrs cho hay: vấn đề trước mắt của việc động viên và gia tăng ngân sách quốc phòng là nguy cơ Nam Dương xâm lăng Tân Guinea, chứ không phải Việt-Nam. Tuy nhiên, muốn giải thoát khỏi cái ám ảnh Nam Dương ấy, 37,000 quân và 41 triệu bảng gia tăng ngân sách cũng đâu thấm thía gì so với lực lượng hùng hậu của “địch thủ”, đến lúc ấy ít nhất cũng gồm 60,000 quân với đầy đủ tiềm thủy đỉnh hạng “W”, tuần dương hạm hạng nặng, oanh tạc và chiến đấu cơ tối tân. Điều họ không thực hiện được bằng súng đạn quân số, họ bắt buộc phải trông mong thực hiện được bằng liên minh quân sự (ANZUS). Pemberton vì thế cho rằng: Đe doạ từ Trung Hoa chỉ là một cường điệu (hyperbole). Nam Dương, chứ không phải Trung Hoa, mới là mối lo thực sự và lâu dài. Mục tiêu tức khắc đàng sau cam kết kia (đem quân vào VN) là để thắt chặt thế liên minh với Mỹ quá bên kia những ràng buộc lỏng lẻo của ANZUS. Hy vọng duy nhất có thể khiến Mỹ can dự vào vấn đề Nam Dương là ủng hộ Mỹ tại Việt-nam, như nhận định của bộ trưởng Alan Renouf, một người rất có ảnh hưởng đối với Mỹ: chính sách của Mỹ đối với (vấn đề) Nam Dương không có chi rõ rệt và cứng rắn như người Úc mong muốn; nên cần đạt được một mức độ gần gũi thường xuyên trong các liên hệ với Hiệp Chúng Quốc… để đến lúc ta cần… Hiệp Chúng Quốc sẽ không còn do dự đáp trả như lòng mong đợi của ta. Thái độ Mỹ chung quanh vấn đề Tây Tân Guinea và Bắc Borneo cho Úc thấy rõ họ không có cùng mối lo sâu xa đối với Nam Dương. Mặt khác, cả Anh lẫn Mỹ lúc đó đều không có lợi lộc gì trong việc kình chống Nam-Dương, một nước đang có ảnh hưởng mạnh đối với Thế giới Thứ ba và đang đe doạ quốc hữu hóa các đầu tư ngoại quốc lên đến hơn 5 trăm triệu đô-la. Dù Mỹ cho hay họ hoàn toàn cam kết đối với Úc, nhưng Menzies rất lo ngại khi không thấy dấu hiệu cũng như tuyên bố công khai nào về sự cam kết ấy. Cho nên, như câu ngạn ngữ Ả-rập: “Nếu núi không đến với Mohammed, thì Mohammed phải đến với núi thôi”, Úc đành phải kiếm cách cột Mỹ vào vấn đề bảo vệ Úc. Cơ may thật đúng lúc khi Mỹ đề nghị Úc cung cấp thêm cho Việt-Nam các huấn luyện viên và một ít viện trợ hải và không quân. Như ta đã thấy, Úc nắm ngay cơ hội và làm hơn thế nữa bằng cách đề nghị đưa quân chiến đấu vào, khiến William Bundy, Phụ tá Bộ Ngoại Giao Mỹ, phụ trách Đông Nam Á, mừng hết chỗ nói vì ông ta chỉ mong Úc cung cấp huấn luyện viên mà thôi.
Như trên đã nói, một tiểu đoàn với các đơn vị yểm trợ thật nhỏ so với cam kết của Mỹ, một siêu cường quân sự và ngoại giao. Ông Menzies đã làm theo khuyến cáo của bộ Ngoại giao Úc: cam kết của Úc đối vớiViệt-Nam trong tương lai sẽ là một giá nhỏ để mua cam kết lớn hơn của Mỹ đối với ANZUS. Một nhà bình luận khác kết luận: Cộng Hòa Việt Nam không bao giờ là mối quan tâm thực sự, tư lợi (self-interest) xét cho cùng mới là điều chủ yếu.
II. Đảng Lao Động và Chiến Tranh Việt-Nam4. Đất lở 1966Chính sách của Menzies được khá nhiều nhân vật thuộc đảng Lao-Động ủng hộ. Lúc ấy, Lao Động chia thành ba nhóm: nhóm về phe với chính phủ, như trên đã nói, gồm Whitlam, Beazley và Benson, trong khi Calwell, Cairns và Fraser đứng giữa, còn Uren, Cameron và Johnson thì cực lực chống đối. Năm 1980, Clyde Cameron có viết cuốn China, Communism And Coca-Cola mục đích thuật lại ba chuyến viếng thăm Trung Quốc năm 1977, 1978 và 1979 của phái đoàn quốc hội Úc do ông cầm đầu. Nhân khi đề cập đến cuộc tranh chấp võ trang giữa Trung Quốc và Việt-Nam, Cameron có giành một chương nói về Đảng Lao Động và vấn đề Việt-Nam, trong đó, ông xác nhận Whitlam, lúc đó là phó của Calwell, lãnh tụ đối lập, đứng về phía chính sách Liên Đảng. Cameron thêm rằng, đến năm 1966, Calwell ra mặt chống đối điều ông gọi là “cuộc chiến tranh dơ bẩn và không thể thắng được này” và ông biến việc triệt thoái tức khắc và vô điều kiện các lực lượng Úc thành một vấn đề tranh cử. Whitlam không đồng ý với lãnh tụ của mình. Mười một ngày sau khi Calwell đọc diễn văn chính sách, ông viết một bài trên tờ Sydney Daily Mirror cho rằng chính phủ Lao-Động sẽ “gửi quân chính qui” qua Việt-Nam, sau khi tham khảo hai chính phủ Mỹ và Nam Việt-Nam. Một tuần lễ sau khi bài báo kia xuất hiện, Whitlam nhắc lại chủ trương của ông tiếp tục để lực lượng Úc tại Việt-Nam. Lúc ấy cuộc tranh cử đang bước vào tuần lễ cuối cùng, cả Đảng Lao-Động lên cơn sốt. Truyền thông và Đảng Tự Do chĩa mũi dùi vào vụ chia rẽ công khai giữa Lãnh tụ và Phó Lãnh tụ Lao Động. Chiến dịch tranh cử của Đảng ra tả tơi. Calwell không thể làm gì khác hơn là tái khẳng định chính sách của Đảng. Chưa bao giờ người ta thấy sự rạn nứt to lớn như thế nơi một đảng chính trị. Lao-động dĩ nhiên không mong chiến thắng lần này, nhưng sự chia rẽ kia đã khiến cho sự thất bại của họ trở thành đất lở (landslide). Ngoài vụ thất bại của chính Whitlam năm 1975, chưa bao giờ Lao-Động thua đau như thế kể từ thập niên 1930.
5. Một trăm tám mươi độViệc Whitlam được bầu làm lãnh tụ sau cuộc bầu cử 1966 không làm thái độ ông thay đổi chút nào đối với vấn đề duy trì các đơn vị chính qui Úc tại Việt-Nam. Tuy nhiên, tháng Giêng 1968, ông qua Việt-Nam lần nữa để gặp Ellsworth Bunker, Đại sứ Mỹ và tướng Westmoreland. Theo Graham Freudenberg, phía Mỹ hết sức nhồi nhét tuyên truyền Whitlam. Westmoreland cho ông hay: không một nơi nào trên lãnh thổ Việt-Nam Cộng Hòa mà Việt Cộng lại có thể sống sót quá 24 tiếng đồng hồ. Từ Việt-Nam, Whitlam ra lệnh cho Lance Barnard chuẩn bị một cuộc họp ‘Nội Các Bóng Tối’ bất thường tại Sydney một ngày sau khi ông về tới nơi. Cameron cho hay ai cũng hồi hộp chờ tuyên bố giật gân của Whitlam. Nhưng không, ông cho hay muốn được nghe các thành viên trong ban lãnh đạo thảo luận về chiến thuật cho kỳ họp Mùa Thu của Quốc hội. Mọi người chưng hửng. Có người đồ đoán rằng biến cố Tết Mậu Thân, xẩy ra trong thời gian Whitlam lưu tại Việt-Nam, đã làm ông mất tin tưởng vào khả năng của Mỹ và do đó khiến quan điểm của ông quay một vòng 180 độ. Ông định nói nhưng quá mắc cỡ nói ra không được! Phải chờ đến 1972, lúc phần lớn công luận phản đối sự can dự của Úc vào chiến tranh Việt-Nam, quan điểm chống chiến tranh Việt-Nam của Whitlam mới công khai được trình bầy và đạt thắng lợi qua cuộc tổng tuyển cử năm đó.
Có điều sự trở mặt của Whitlam thật là triệt để. Nó không những chỉ đụng đến lực lượng Úc, mà đụng đến cả bản chất và danh dự của Việt-Nam Cộng-Hòa. Tháng 3 năm 1975, Tổng thư ký Bộ Ngoại giao là Alan Renouf phúc trình rằng: “tiếp tục kêu gọi tôn trọng Hiệp Định Paris chỉ ‘phục vụ mục tiêu của Sài-gòn mà thôi (tức là duy trì việc phân đôi Việt-Nam, vốn không phải là mục tiêu của Hà-Nội, và nhất định không thể là mục tiêu của Úc), và không nhìn nhận rằng áp lực quân sự là cách duy nhất thay đổi được hiện trạng”. Vì tin C.I.A. cho hay Sài-gòn có thể thất thủ trong vòng một tháng, nên ngày 2 tháng 4, Gough Whitlam cho phép Bộ Ngoại giao ra chỉ thị cho các đại sứ Úc tại Sài gòn và Hà-nội gửi thư cho hai chính phủ Nam Bắc. Thư cho miền Nam chỉ gồm 196 chữ, chủ yếu nói rằng trừ khi lời kêu gọi thống nhất của Hiệp Định Paris được thi hành, việc sớm chấm dứt chiến tranh sẽ không có được. Thư gửi miền Bắc có khác: dài 499 chữ. Thư này kêu gọi tái thống nhất và thêm rằng: “chúng tôi lượng giá thấy Thiệu không cho thấy dấu hiệu gì là sẵn sàng làm điều đó, và chính phủ Úc hiểu cảm thức thất vọng khi phải dùng lại áp lực quân sự đối với Thiệu, mặc dù chúng tôi không thể làm ngơ biện pháp ấy. Trong vấn đề này, chính phủ Úc tin rằng hiệu quả sẽ rất thuận lợi nếu Chính Phủ Lâm Thời (PRG) cho người ta thấy rõ những cuộc hành quân quân sự gần đây có mục đích gây áp lực cho việc tuân giữ các điều khoản chính trị từng bị làm ngơ của Hiệp định Paris và những cuộc hành quân ấy sẽ chấm dứt khi Sài-gòn đưa ra các bảo đảm thoả đáng thi hành các điều khoản chính trị kia”.
6. Phù ThịnhPhù thịnh là lẽ thường tình. Tuy nhiên, ngày 10 tháng 4, khi Malcolm Fraser, trong buổi chất vấn chính phủ tại Quốc hội, tố cáo Whitlam thiên vị Hà-Nội, Whitlam lại chối mà cho rằng ông ta không gửi hai bức thư đó mà là Bộ Ngoại giao, vả lại hai bức thư đó hoàn toàn có nội dung như nhau. Khi Fraser đòi coi hai bức thư, thì Whitlam từ chối. Trong khi ấy, Hà-Nội tăng cường cuộc Nam tiến của họ. Ngày 20 tháng 4, Đại sứ Úc tại Sài-gòn gửi một điện báo mật cho Whitlam cho hay Sài-Gòn sắp sửa thất thủ và “một trận đánh đẫm máu và vô vọng” sắp sửa xẩy ra. Tuy nhiên Đại sứ G.J. Price tiên đoán “một kết liễu nhanh chóng và tức tưởi cho sự hiện hữu của Sài-gòn trong tư cách thủ đô của Việt-Nam Cộng Hòa”. Ông khuyến cáo triệt thoái toàn bộ Tòa Đại sứ vào cuối tuần. Điện báo tiếp: “Như tôi đã nói sẽ có thể có hai nguy hiểm chính đối với các người Úc nếu họ tiếp tục lưu lại Sài-gòn. Nguy hiểm thứ nhất là bị thương trong các cuộc oanh tạc và đánh nhau nếu xẩy ra cận chiến trong thành phố. Nguy hiểm thứ hai là trong khoảng giữa lúc quân đội Việt-Nam Cộng Hoà ngưng kháng cự và lúc quân đội Bắc việt tiến vào. Một vài ngày hỗn loạn có thể kéo dài trong đó mọi người Tây phương (caucasians) có thể lâm nguy, không do đoàn quân xâm nhập mà do đoàn quân thất trận. Phần lớn vì lý do này, mà người Mỹ đã hoạch định một cuộc thao diễn quân sự để che chở cho việc triệt thoái sau cùng toà đại sứ của họ. Cho nên tôi nghĩ rằng dù khó nói tôi cũng phải cẩn trọng mà yêu cầu cho toà đại sứ Úc được triệt thoái qua Bangkok hay Singapore chờ đợi các diễn biến. Tôi sẽ khai triển thêm điểm này”. Trong điện báo, ông đại sứ yêu cầu phái trực thăng Hercules của Không quân Úc qua Sài-Gòn chở nhân viên tòa Đại sứ, các cư dân Úc, các nhà báo Úc và những người khác. Ông muốn toàn bộ nhân viên toà Đại sứ bao gồm cá nhân ông được di tản hạn chót là 24 tháng 4. Ông lo ngại cho số phận các nhân viên địa phương cùng với các thân nhân hay các người vợ lấy viên chức Úc và yêu cầu được quyền cho “bất cứ ai có thông hành Úc” được bao gồm trong kế hoạch di tản.
Điện báo mật trên cùng với bản sao hai bức thư gửi Hà-Nội và Sài-Gòn ngày 2 tháng 4 lọt vào tay báo Sydney Morning Herald. Hai bức thư gửi Hà-nội và Sài-gòn khiến Tờ bào kêu gọi Fraser tìm mọi cách hạ bệ chính phủ Whitlam. Bài xã luận ngày 30-04-1975 của báo này được Graham Freudenberg trích lại trong A Certain Grandeur. Ông cho hay đây là một trong những bài xã luận dài nhất của tờ báo kỳ cựu nhất nước Úc. Tuy nhiên, Ông chỉ trích một phần như sau: “Thủ tướng đã nói láo với Quốc hội. Ông đã lừa dối nhân dân Úc. Ông đã lạm dụng lòng tin cậy của họ đối với ông… Tính cách hai mặt của ông đã bị phanh phui một cách đáng bị kết án do việc công bố (không có phép) các chỉ thị mật do Ông Whitlam gửi cho các Đại sứ của chúng ta tại Hà-nội và Sài-Gòn. Việc công bố này đem ra công khai xì-căng-đan chính trị trầm trọng nhất từ ngày có Liên Bang. Điều có liên hệ đi sâu hơn những câu hỏi về sự chính xác và đúng đắn trong chính sách ngoại giao của Ông Whitlam… Vấn đề quan hệ ở đây là tính đáng tin cậy của Thủ tướng và chính phủ của ông. Bản văn của các bức thư cho thấy Ông Whitlam không đáng được tin cậy. Chúng tôi tin rằng giờ đây Ông Fraser có nghĩa vụ rút lại cam kết của ông không buộc Chính phủ phải tổ chức tổng tuyển cử… Cần phải dùng mọi phương thế hợp pháp buộc Chính phủ phải trả lời trước toà án nhân dân… Dọc dài suốt thời kỳ tồi tệ này, Thủ tướng đã nói một đàng làm một nẻo. Ông đã dối trá để ngăn không cho Quốc hội và nhân dân biết điều ông làm và hướng ông dẫn chính sách ngoại giao của Úc đi đâu. Hành động của ông là hành động che đậy (dissimulation) và lừa dối (dupplicity). Cả ông lẫn chính phủ ông đều không còn đáng tin cậy nữa. Một chính phủ không còn tin cậy được, lạm dụng quyền lực và thẩm quyền giữ bí mật của mình là một chính phủ tự làm mất quyền cai trị của mình. Cần phải hạ bệ nó”.
Bài xã luận tiếp tục tấn công Whitlam đã chỉ cho Hà-nội cách “làm thế nào đánh lừa dư luận thế giới” và lần lữa không chịu đưa ra các chỉ dẫn liên quan đến việc người Việt-Nam muốn xin tị nạn tại Úc. Những điểm trên cho thấy rất rõ thái độ mà người Việt thường gọi là ăn cháo đá bát của Whitlam, nếu không nói là của cả chính phủ Lao-Động lúc ấy. Thực vậy, bình luận về chính sách của Whitlam, Cameron, lúc ấy là Bộ trưởng Lao-động và Di trú, cho hay ông ta hoàn toàn nhất trí. Vì “Đến ngày 2 tháng 4 năm 1975, Chính phủ biết rõ cuộc chiến gần như đã kết thúc. Theo quan điểm riêng của tôi, bên chính nghĩa đã thắng! (the right side had won!). Quả là thích đáng khi Whitlam thực tiễn đủ để chấp nhận thực tế này là Hà-nội không còn cách nào khác hơn là duy trì áp lực quân sự đối với Sài-gòn nếu muốn chấm dứt sớm cuộc chiến tranh. Whitlam đúng khi hàm ý rằng Chính phủ Úc tin trở ngại chính cho hòa bình là sự ngoan cố của Sài-Gòn… Thật là hợp lý khi ông sớm cho thấy cảm tình ông dành cho Hà-nội” (tác phẩm đã dẫn, tr.228). Cameron cũng nhất trí đối với chính sách di trú áp dụng cho người Việt lúc ấy. Úc là một quốc gia độc lập, họ có quyền áp dụng chính sách di trú thế nào thì đó là thẩm quyền của họ. Ông ta cũng có quyền không tin chuyện “tắm máu”. Nhưng chủ trương rằng “mọi người Việt-nam đều đựơc đối xử cùng y một cách như các ứng viên di trú Âu châu” (tr.229) là đã quên đi cái quá khứ mười mấy năm trời ơn phúc do đoàn quân ít ỏi của Úc tại Việt-Nam đem lại cho thế an toàn chiến lược của Úc, một thế chiến lược ông Menzies đã dầy công xây dựng và các chính phủ kế tiếp tận cho đến ngày nay vô cùng trân quí gìn giữ.
7. Những tên di dân khốn kiếpNói một đàng làm một nẻo. Không biết chính sách di trú đối với ứng viên Âu Châu như thế nào, nhưng Whitlam đã hủy bỏ kế hoạch của Lance Barnard trong việc không vận trẻ mồ côi từ Việt-Nam qua Úc, đồng thời ra lệnh (vượt cả thẩm quyền Bộ Di Trú) không được cứu xét mọi đơn xin cho người Việt-Nam (Đã dẫn, tr.229). Câu nói của Whitlam trả lời Don Willesee ngày 21 tháng 4, khi ông này đến để vận động cho một số người Việt được tới Úc, đủ nói lên tất cả:
“I’m not having hundreds of fucking Vietnamese Balts coming into this country with their religious and political hatreds against us” (tôi sẽ không nhận hàng trăm tên di dân khốn kiếp Việt-nam vào xứ này với lòng thù hận tôn giáo và chính trị của chúng chống lại chúng ta) (Đã dẫn, tr.230). Cameron cũng nhất trí như thế và nói thêm với Willesee: “Tôi thấy không có lý do gì khiến ta lại phải liều mở cửa cho các tên tội phạm chiến tranh” (Đã dẫn, cùng trang). Không biết Whitlam và Cameron muốn ám chỉ ai, nhưng Willesee đã cho họ hay ông ta không muốn xin cho “những khuôn mặt quân sự và chính trị lớn trong chính phủ Thiệu” vì những người này dư sức tự lo liệu lấy được và phần lớn nhất định sẽ qua Mỹ. Ông ta chỉ muốn xin cho những người phối ngẫu Việt-Nam của những người Úc không phải là viên chức. Whitlam miễn cưỡng đồng ý. Được đà, Willesee xin cho những ai liều mình bị “tiền trảm hậu tấu, bị hành hung, bị đối xử tàn bạo, vô nhân, và mất nhân phẩm” được tị nạn chính trị. Ông nhắc Whitlam nhớ lại những giúp đỡ Úc từng dành cho các nạn nhân của cuộc đảo chánh quân sự ở Santiago, gương lãnh tụ Imre Nagy của Hung gia lợi bị Hồng quân Nga ‘tiền trảm hậu tấu’ ra sao năm 1956 dù được chính Liên Sô hứa an toàn. Ông đặc biệt xin cho các công nhân viên người Việt làm việc cho Tòa Đại sứ Úc, vì theo ông, Úc có nghĩa vụ tinh thần giơ tay đón tiếp họ. Nhưng Whitlam từ khước thẳng thừng (Đã dẫn, tr.231). Ông cũng từ khước không cho các sinh viên từng du học tại Úc nhưng sau khi tốt nghiệp đã trở lại Việt-Nam nay muốn nhập cảnh. Cameron tóm tắt những người sau đây được và không được Whitlam chấp thuận. Được: người phối ngẫu Việt-Nam và con cái của người Úc không phải viên chức; người phối ngẫu, con cái, vị hôn thê/phu của các sinh viên Việt-nam đang học tại Úc (cha mẹ không được); công dân Việt-Nam có liên hệ mật thiết với sự hiện diện của Úc tại Việt-Nam và đời sống bị đe dọa có thể đệ trình về Úc cứu xét tùy trường hợp. Không được: các nhân viên địa phương làm việc cho Tòa Đại sứ Úc và gia đình và những sinh viên Việt-Nam tốt nghiệp ở Úc nhưng đã trở về Việt-Nam. Con số ấy (theo Cameron ước tính vào khoảng 1,000) quả là hạn chế. Chỉ sau khi gặp Tổng thống Ford hồi tháng 5, sau hội nghị Jamaica, Whitlam mới nâng con số trên lên 3,000 người.
Rất may, chính phủ Whitlam đã bị Tổng Toàn Quyền Jonh Kerr bãi nhiệm vào tháng 11 năm 1975. Chính phủ Fraser của Liên Đảng Tự Do và Quốc Gia lên cầm quyền, đã kịp thời ra tay cứu vớt làn sóng người đang ồ ạt rời Việt-Nam lên đường tìm tự do, nâng con số người Việt nhập cư Úc lên gấp bội so với con số nhỏ giọt của chính phủ Whitlam. Cái nhìn của Đảng Tự Do có tầm xa rộng và nhất quán hơn. Ít nhất, họ cũng không quên cái nợ chiến lược đối với một đồng minh bất đắc dĩ. Dù sao, ông Malcolm Fraser, thời chiến tranh Việt Nam, vốn là bộ trưởng Lục Quân, nên khi vừa nhậm chức, đã đưa ra đề nghị tiếp nhận mỗi năm 15,000 người tị nạn Việt Nam. Dù con số ấy, trên thực tế có trồi sụt, nhưng trung bình vẫn ở mức 8,000 người một năm. Nhờ thế đến năm 1981, số người tị nạn Việt Nam vào Úc đã lên đến 41,096 người. Mười năm sau, con số lên tới 121,813. Thống kê năm 2001 cho thấy tại Úc, có 154,831 người sinh tại Việt-Nam, nhưng số người nói tiếng Việt lại là 174,236, có thể vì bao gồm các trẻ em Việt-Nam sinh tại Úc. Con số thực tế có thể cao hơn, và người ta thường ước lượng con số người Việt hiện nay tại Úc vào khoảng trên dưới 200,000. Đủ đông để “phát triển ra nền chính trị riêng trong bản sắc văn hóa của mình” như nhận định của Andrew Jakubowics, giáo sư Đại Học Kỹ Thuật Sydney.
Sự trở mặt của Gough Whitlam ngay vào thời điểm 30 tháng Tư 1975 quả là một bất hạnh. Mặc dù các chính phủ Lao-Động sau này đã thay đổi nhiều trong quan điểm đối ngoại của họ, nhưng những tranh luận gần đây về sự hợp tác của Úc trong vấn đề I-rắc cho thấy sự thay đổi ấy chưa thỏa đáng lắm, ít nhất xét về chính sách an toàn chiến lược, một chiến lược mà Frank Frost đã tóm tắt trong ba thuật ngữ: quan tâm cao độ về an ninh, chi tiêu thấp về quốc phòng và lệ thuộc các liên hệ liên minh.
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 11:17)
NGƯỜI VIỆT NAM CÔNG GIÁO (17)
CHƯƠNG XI: GIÁO XỨ và CỘNG ĐOÀN
Điều 374 Giáo Luật ngày 25.01.1983 quy định:
(1) Tất cả các Giáo phận hoặc Giáo Hội địa phương nào khác đều phải được phân chia ra thành nhiều phần riêng biệt hoặc Giáo Xứ.
(2) Để cổ võ việc săn sóc mục vụ bằng hoạt động chung, nhiều Giáo Xứ lân cận gần nhau có thể hợp lại thành những hợp đoàn địa phương, tỉ như các Giáo Hạt.
I. GIÁO XỨ
Điều 515 Giáo Luật định nghĩa:
(1) Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của Giám mục Giáo phận.
(2) Chỉ duy có Giám mục Giáo phận có quyền thành lập, giải tán hoặc thay đổi các Giáo xứ; tuy nhiên Người không nên thành lập, giải tán hoặc thay đổi một cách đáng kể các Giáo xứ mà không tham khảo ý kiến Hội Đồng Linh Mục.
(3) Một khi đã được thành lập hợp lệ, Giáo xứ đương nhiên được hưởng tính cách pháp nhân theo luật.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong một văn kiện đã nhấn mạnh Ơn Gọi của Giáo xứ là biểu hiện sự gần gũi của Giáo Hội: « Giáo xứ như Giáo Hội, tự mình sống giữa con cái nam nữ của mình. »
« Nếu Giáo xứ xen vào giữa những căn nhà của tha nhân, giáo xứ sống và tác động trong lòng xã hội loài người và liên đới thâm sâu với các ước vọng và thảm kịch của nó… Giáo xứ phải là căn nhà mở rộng đón tiếp mọi người, hay như Đức Gioan XXIII thường nói là ‘giếng nước của thôn xóm’ để mọi người đến giải khát. » (Ơn gọi và Sứ mệnh của người giáo dân, số 26 và 27).
Điều 518 Giáo Luật quy định: « Theo luật chung, Giáo xứ phải có tính cách tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các tín hữu thuộc một địa sở nhất định; tuy nhiên ở đâu thấy thuận lợi, cũng có thể thiết lập các Giáo xứ tòng nhân xét vì lý do lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các tín hữu thuộc về một lãnh thổ hay kể cả vì một lý do nào khác. »
Do đó, trên Quê Hương Việt-Nam, chúng ta chỉ thấy những Giáo xứ tòng thổ và được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương.
Một Giáo xứ tòng nhân.
Giáo Xứ Việt-Nam Paris có thể được xem như là Giáo xứ tòng nhân người Việt đầu tiên trên thế giới.
Ngày 01.10.1947, Giáo Xứ đã được Giáo quyền Tổng Giáo phận Paris chính thức công nhận dưới danh hiệu Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp.
Giáo Xứ đã được manh nha từ 1946, do sáng kiến và góp sức của các Giáo sĩ du học và anh chị em Giáo dân sinh sống tại Pháp vào thập niên 40, sau đệ nhị thế chiến, trong bầu không khí tranh đấu độc lập cho Quê Hương. Đại Hội Toulouse 1946 là một Đại Hội lịch sử của người Công Giáo Việt-Nam tại Pháp dưới nhiều khía cạnh. Nhờ ơn Chúa Thánh Thấn, thành quả của Đại Hội Toulouse là ‘Bản Điều Lệ và sinh hoạt Liên Đoàn’ đã được Giáo Quyền Pháp công nhận năm 1947.
Trong thư ngày 19.02.1952, gởi cho Đức Khâm Sứ Toà Thánh Đông Dương tại Hà nội, Đức Ông Rupp, Cha Chính Tổng Giáo Phận Paris đã mong muốn có một Linh mục Việt-Nam được các Giám Mục Việt-Nam bổ nhiệm để chuyên lo việc thiêng liêng cho người Việt tại Paris.
Với Thư đề ngày 25.10.1952, Đức Khâm sứ Toà Thánh John Dooley tại Đông Dương trả lời cho Đức Ông Rupp hay rằng Đức Khâm sứ đã gặp các Giám Mục Việt-Nam và xin giới thiệu với Đức Tổng Giám Mục Giáo phận Paris và xin Đức Tổng Giám Mục bổ nhiệm cha Pacifique Nguyễn Bình An.
Ngày 24.11.1952, Đức Ông Rupp, Cha Chính Tổng Giáo Phận Paris và Cha thư ký của Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều Vụ đã trả lời cho Đức Khâm Sứ: “Trong buổi hội tháng 10 vừa qua, các Đức Hồng Y và Tổng Giám Mục đã đồng ý ký thác cho cha Pacifique An Sở Tuyên Úy người Công Giáo Việt Nam trên toàn lãnh thổ Pháp. Để chứng tỏ rằng Cha An không chỉ là tuyên úy của Liên Đoàn mà thôi, nhưng còn là Giám Đốc Tổ Chức Truyền Giáo”.
Mặc dầu tự sắc ‘Pastoralis Migratorum Cura’ đã được ban hành từ 1969, nhưng mãi đến biến cố 1975 ở Việt Nam và với làn sóng người Việt tỵ nạn qua Pháp, Giáo Hội Pháp mới nghĩ đến việc áp dụng tinh thần tự sắc vào việc tổ chức lại cơ cấu và sinh hoạt mục vụ cho cộng đồng người Việt tại Pháp. Việc áp dụng này chỉ thành hình cụ thể vào năm 1977 và từ 1986, trong các thư bổ nhiệm Cha Mai Đức Vinh mới rõ rệt dùng chữ ‘Curé de la paroisse Vietnamienne’.
Hiện nay, trên thế giới, nhiều Giáo xứ tòng nhân người Việt cũng đã được Giáo Quyền địa phương công nhận vì được thiết lập cách bền vững trong Giáo phận.
II. CỘNG ĐOÀN
Biến cố đau thương lịch sử 30.04.1975 của Dân Tộc đã khiến hàng triệu người Việt-Nam đã phải liều chết, lìa bỏ Quê Hương thân yêu ra đi, dĩ nhiên trong đó, có người Việt Công giáo. Ngay khi đặt chân đến quốc gia tạm cư, giáo sĩ và giáo dân Việt-Nam đã dâng Thánh Lễ đầu tiên để cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria cùng cầu nguyện cho Quê Hương và gia đình. Hình thức các Cộng Đoàn Công giáo Việt-Nam đã thành hình.
Hai văn kiện căn bản của Tòa Thánh về mục vụ cho người di cư – tỵ nạn là tự sắc « Pastoralis Migratorum Cura » do Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành ngày 30.09.1969 truyền áp dụng tích cực giáo huấn mục vụ của Công Đồng Vatican II đối với dân tỵ nạn, và nhất là những quy định trong Tông huấn « Exsul Familia » do Đức Thánh Cha Piô XII ban hành ngày 30.09.1952.
Chính với tinh thần của hai văn kiện này mà người tỵ nạn Việt-Nam được đón tiếp khắp nơi bởi các Giáo Hội địa phương, và nhờ thế, các Cộng đoàn Công giáo Việt-Nam Hải ngoại được thành hình và phát triển.
Theo ngôn ngữ chuyên môn hay thông thường, Cộng đoàn từ lâu đã mang một ý nghĩa nhất định. Đối với các nhà triết học, xã hội học và luật học, Cộng đoàn gợi lên ý niệm một tập thể. Trên tiêu chuẩn ‘cùng một nòi giống và tiếng nói, cùng một phong tục nhất là những người di cư, lưu vong, tỵ nạn’ thì Giáo luật khuyên các Giám mục địa phương ‘hãy dự liệu mọi nhu cầu thiêng liêng, nên đặt các Tuyên úy để giúp đỡ họ’ (GL 518, 568*). Cho nên, Cộng đoàn Công giáo Việt-Nam là một tập thể người Việt-Nam, đã nhận lãnh bí tích Thánh tẩy và trở nên con Chúa. Vì lý do tiếng nói và phong tục, Kitô hữu Việt được giáo quyền địa phương chấp thuận cho ‘tụ hợp lại với nhau, thông công việc bẻ bánh và cầu nguyện’ (Tđcv 2, 42), ‘chung một lòng một ý’ (Tđcv 4, 332), hầu trở thành ‘một thân thể và một tâm hồn’ (Ep. 4,4) trong Giáo Hội hoàn vũ, để họ cùng nhau phụng thờ Thiên Chúa và làm việc truyền giáo, theo cách thức của người giáo dân.
* Điều 568: Đối với những người vì điều kiện sinh sống không thể được hưởng sự săn sóc thông thường của các Cha Sở, chẳng hạn như những người di cư, lưu vong, tỵ nạn, du mục, thủy thủ, thì tùy mức độ có thể, nên đặt các Tuyên Úy để giúp họ.
Do đó, trên lãnh thổ các quốc gia tạm dung tín hữu Công giáo Việt-Nam, chúng ta thấy đa số những Cộng đoàn tòng thổ và được thiết lập cách tạm thời trong các Giáo Hội địa phương.
Tuyên Úy
Điều 564 Giáo Luật định nghĩa: « Tuyên Úy là một Linh mục được ủy thác việc săn sóc mục vụ cách thường xuyên, ít là một phần nào, của một Cộng đoàn hoặc cho một nhóm tín hữu đặc biệt, và phải thi hành theo đúng quy tắc của luật phổ quát và luật địa phương. »
Tưởng cũng cần nói rõ: Tuyên úy, theo Giáo luật, phải là một Linh mục. Nhưng vì nhu cầu, chúng ta thấy có những Phó tế, Sư huynh hay Nữ tu Tuyên úy, được bổ nhiệm bởi Giám mục với sự chấp thuận của Bề Trên Dòng để coi sóc Cộng đoàn nhưng không được cử hành các Bí tích.
III. VĂN PHÒNG PHỐI KẾT TÔNG ĐỒ VIỆT-NAM HẢI NGOẠI
Truớc làn sóng người Việt được Chính phủ Pháp nhận vào Pháp quốc, ngày 28.05.1976, với tư cách là Giám mục phụ trách về kiều dân Á Châu, Đức Cha André Rousset đã viết thơ cho Linh mục Michel Nguyễn Quang Toán báo tin rằng trước tình hình khẩn trương và bi thương của dân tỵ nạn ba nước Việt Miên Lào, Ủy Ban Mục Vụ Ngoại Kiều yêu cầu Hội Thừa Sai Paris giúp đỡ, Cha Etcharren đã được bổ nhiệm làm việc với hai cha Guillard và Couessin, và xin cha Toán liên lạc với cha Guillard để xác định phận vụ của mình.
Nhiều Giám mục địa phương đã bổ nhiệm Tuyên úy Việt-Nam trong các năm 1975 và 1976.
Đại Hội ngày 21.10.1976 qui tụ trên 30 Linh mục Việt-Nam Nam từ nhiều tỉnh khác nhau về họp tại Toà Tổng Giám Mục Paris, dưới quyền chủ tọa của Cha Trương Đình Hoè, do đại hội bầu lên, để bàn về các vấn đề và hành động mục vụ khẩn cấp cho đồng bào Việt-Nam.
Tại các quốc gia tạm dung người Việt-Nam, Hội đồng Giám Mục cũng đã có phương pháp tiếp nhận người Việt tỵ nạn, thành lập các Cộng đoàn và bổ nhiệm Tuyên úy coi sóc mục vụ.
Riêng tại Pháp quốc, ngày 09.06.1977, Đức Cha Sabin St Gaudens, Chủ tịch Ủy ban Giám mục Ngoại kiều vụ ký văn thư đề cử cha Samuel Trương đình Hoè làm Đại diện các Tuyên úy Việt Nam, để lo cho người Công giáo tỵ nạn. Cuối tháng 09/1978, theo lời mời của Cha Hoè, hơn 30 linh mục, tu sĩ nam nữ đang giúp đở đồng bào tỵ nạn, trong 18 Giáo phận trên nước Pháp về Orsay họp bàn Mục vụ và trù liệu kế hoạch để làm việc chung. Từ đó, Tuyên úy đoàn được thành hình.
Hằng năm, vào tháng 9, các Linh mục và Tu sĩ lo việc Mục vụ người Việt có dịp gặp gở để cùng cầu nguyện, chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận một đề tài mục vụ. Tuyên úy đoàn có 3 ban:
1. Ban Điều hành Trung ương gồm một linh mục Đại diện (nhiệm kỳ 3 năm, có thể lưu nhiệm 3 năm nữa), các cố vấn và một thư ký.
2. Ban Đặc trách Giới Trẻ gồm 4 Tuyên úy (do Đại diện mời) và 4 bạn trẻ được chọn trong Đại hội.
3. Ban Đặc trách Giới Trưởng thành gồm 4 Tuyên úy (do Đại diện mời) và Ban Đặc trách đề cử theo 5 vùng điện thoại.
Tòa Thánh như người Mẹ Hiền đau khổ trước đoàn con hoạn nạn và lưu lạc, nên không bao lâu sau ngày 30 tháng Tư đó, Thánh Bộ Truyền Giáo đã gởi thư đến các Hội đồng Giám mục các quốc gia tiếp nhận nạn nhân Việt-Nam tỵ nạn, yêu cầu lưu tâm đặc biệt giúp đỡ về mục vụ, yêu cầu cho các Linh mục được hưởng mọi quyền lợi thiêng liêng và vật chất, cho các chủng sinh được hội nhập, được thụ huấn và chịu chức, cho các nữ tu các dòng thuộc luật Giáo phận được bảo đảm đời sống tu đoàn, v.v..
Nhưng động lực cuối cùng thúc bách Bộ Truyền Giáo phải kết thúc công việc bổ nhiệm như ý muốn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Trong chuyến công du mục vụ tại Thái Lan tháng 05/1984, Đức Thánh Cha đến thăm trại tỵ nạn Phanat Nikhm. Trước hoàn cảnh nheo nhóc đau thương vật chất và tinh thần của người tỵ nạn Việt-Nam. Đức Thánh Cha đã hỏi Đức Khâm sứ tại Thái Lan có ai đặc trách lo mục vụ cho họ không ? Đức Khâm sứ trả lời ‘Không’, thì Đức Thánh Cha nói: « Họ có quyền được chăm sóc mục vụ như những người tỵ nạn thuộc các quốc gia khác », và truyền cho Đức Khâm sứ làm phúc trình cho Người về vấn đề này.
Thánh Bộ Phúc Âm hoá các Dân Tộc, qua Văn thư Bổ nhiệm Đức Ông Philiphê Trần văn Hoài số 2900/87 ngày 30.05.1987, đảm nhận trọng trách Văn Phòng Phối Kết việc cổ võ Tông đồ cho người Việt-Nam hải ngoại. Văn Phòng đặt tại trụ sở tại Rôma.
Theo Giáo Luật, người Công giáo thuộc bất cứ dân tộc nào, định cư trong một Giáo phận thì thuộc pháp quyền lãnh thổ (juridiction territoriale) của Đấng Bản Quyền Giáo phận ấy. Đấng Bản Quyền có bổn phận đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của người ấy, và ngược lại, người ấy có quyền lợi yêu cầu đòi hỏi, nhưng đồng thời cũng có bổn phận phải chu toàn đối với Đấng Bản Quyền như một tín hữu thuộc về Giáo phận. Thí dụ, hiện nay, người Việt-Nam Công giáo sống trong các Giáo phận của Hoa kỳ, Úc đại lợi, Gia nã đại, Pháp, Đức…, chúng ta phải tuân phục các Đấng Bản Quyền nơi chúng ta đang sống, và Đấng Bản Quyền cũng có bổn phận phải giúp đỡ chúng ta.
Do đó, vai trò của Vị phụ trách Văn Phòng Phối Kết việc cổ võ Tông đồ cho người Việt-Nam hải ngoại thuộc pháp quyền nhân sự (juridiction parsonnelle) vì Giáo Hội Việt-Nam là một xứ truyền giáo và trực thuộc Bộ Truyền Giáo.
Vị phụ trách Văn Phòng Phối Kết có nhiệm vụ tìm cách giúp đỡ cho tín hữu người Việt vừa hội nhập vào các Giáo Hội địa phương đồng thời bảo tồn căn tính, văn hoá, truyền thống và dân tộc tính của mình.
Sự thành lập Văn Phòng Phối Kết đã trùng hợp với thời kỳ chuẩn bị tổ chức ngày Phong Thánh 117 Chân Phước Tử Đạo Việt-Nam, nên Đức Ông Philiphê Trần văn Hoài được cử làm Chủ tịch Ủy ban Tổ chức Lễ Tuyên Phong Hiển Thánh năm 1988.
Từ Văn Phòng ở Rôma, ngày 20.01.2007, Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo đã gởi đến Cộng Đồng Dân Chúa Việt-Nam Hải ngoại loan báo: Qua Văn thư số 5530/06 ngày 16.12.2007 gửi Văn phòng Phối Kết, Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng Trưởng Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc đã loan báo quyết định chấm dứt hoạt động của Văn phòng Phối Kết vì « các giáo hữu Việt Nam tại hải ngoại đã ổn định và hội nhập vào đời sống tại các quốc gia cư ngụ và được các Giám mục địa phương tận tình lo lắng cho các nhu cầu mục vụ. »
Văn Phòng Phối Kết, duới sự phụ trách của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo, đã phụ trách chương trình mục vụ nhân dịp Năm Thánh 2000 và tổ chức ‘Hội Ngộ Niềm Tin Công giáo Việt-Nam Hải Ngoại’ tại Roma từ 24 đến 27 tháng 07 năm 2003, với Chủ đề "Hiệp Nhất Để Sống và Loan Báo Tin Mừng". Ba ngàn tín hữu đã tham dự đến từ Quê Hương và từ các quốc gia có người Việt tỵ nạn.
(Còn tiếp)
Hà minh Thảo
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 02:45)
Các Ngoắt Ngoéo của Thụ Thai Nhân Tạo
Với việc thụ thai trong ống nghiệm (IVF) ngày một trở nên phổ thông hơn, con số các trẻ em có nguy cơ tách ly khỏi người cha của chúng vì thế mỗi ngày càng gia tăng lên.
Thượng Pháp Viện Ái Nhĩ Lan mới đây phán quyết không nhìn nhận quyền làm cha của một người hiến tinh trùng để dùng cho việc thụ thai nhân tạo mà kết quả là con trai ông đã được hạ sinh. Vốn là một người đồng tính luyến ái, người cha này hiến tinh trùng của mình cho người mẹ và người phối ngẫu nữ giới của bà ta, nghĩa là cho một cặp đồng tính luyến ái nữ. Ngày 17 tháng Tư vừa qua, tờ Irish Times tường thuật rằng Chánh Án John Hedigan cho rằng cặp đồng tính luyến ái nữ phải được coi là một cặp “vợ chồng sống chung với nhau” (a de facto couple) với đầy đủ quyền lợi theo Công Ước Nhân Quyền Âu Châu.
Thành thử, vị chánh án này đã bác khước quyền giám hộ hay quyền thăm viếng của người cha theo sinh học, là người trước đó đã nạp đơn xin hưởng các đặc quyền ấy. Các tường thuật của báo chí cho hay rất có thể ông ta sẽ kháng án lên Tối Cao Pháp Viện.
Trong một tuyên bố báo chí công bố cùng ngày, Viện Iona, đặt cơ sở tại Dublin, một tổ chức phi chính phủ rất tích cực trong các vấn đề gia đình, cho hay: trẻ em có quyền được biết cha mẹ chúng, và được cha và mẹ chúng nuôi dạy. David Quinn, giám đốc Viện này, nhận định rằng: “Trong trường hợp này, sự kiện người đàn ông, có tên ‘A’, là một người hiến tinh trùng cũng không có cách chi làm giảm sự kiện ông ta là cha đứa nhỏ và do đó, đứa nhỏ có quyền được biết cha nó và có cơ hội nào đó bất cứ để tiếp xúc với cha mình. Quyền này vốn có sẵn trong đứa nhỏ và quả là ngoại thường khi người ta bỏ qua điều đó vào đúng lúc ta đang xem sét việc tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về các quyền lợi của trẻ em”.
Một trong các vấn đề liên quan đến việc không được biết cha mình đã được một bài báo ngày 19 tháng Tư đăng trên tờ Irish Independent nhấn mạnh. Câu truyện ấy kể lại việc Kirk Maxey đã làm cha một số lượng trẻ em không biết là bao nhiêu qua chương trình hiến tinh trùng trong một thời gian dài, mà ông ta ước tính lên đến khoảng từ 200 đến 400. Bây giờ tuy ông ta đã có con riêng rồi, nhưng Maxey vẫn không vui khi biết rằng trong chòm xóm gần nhà ông, rất có thể có đến 100 bé gái gần bằng tuổi con trai ông, cùng cha như con trai ông, nhưng chẳng có ý niệm gì về ông cả.
Mồ Côi
Trong một bài nhận định viết cho số báo ngày 19 tháng Tư của tờ Irish Times, Breda O’Brien ghi chú rằng trong mấy thập niên qua, nhiều trẻ em đã bị tách ly khỏi cha mẹ và đưa vào viện mồ côi khi nhà cầm quyền thấy gia đình các em không đủ khả năng chăm sóc các em. Cô cũng cho hay: mấy năm gần đây, phần lớn các trường hợp thuộc chính sách trên đã bị coi là lầm lẫn. Cô đặt câu hỏi: “Như thế, tại sao ta lại không chịu nhìn ra rằng mình đang tạo ra các bất công mới và quả đang phạm cùng những lầm lỗi trong các hoàn cảnh mới này y hệt như người ta đã phạm trong quá khứ?” O’Brien khuyến cáo “Ta cần phải tiến hành một cách hết sức thận trọng đặc biệt vì trong quá khứ, ta đã hiểu quá tệ các nhu cầu của trẻ em”.
Ái Nhĩ Lan không phải là nước duy nhất tạo ra các vấn đề như thế. Tại Anh, nhật báo Telegraph ngày 20 tháng Ba tường trình rằng mới đây có người đàn bà hạ sinh đứa con của chồng sau khi ông ta qua đời được bốn năm. Lisa Roberts cho hay người đàn bà này chắc chắn chồng bà là James hẳn chấp nhận việc hạ sinh đứa con gái của họ. Tinh trùng của người chồng đã được đông đá sau khi ông ta được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vào năm 2004. Ông qua đời cuối năm đó. Theo tờ Telegraph, một số trẻ em tại Anh đã được hạ sinh sau khi cha các em qua đời đã lâu, tiếp sau một án lệ năm 1997, khi Diane Blood khởi tố để được phép sử dụng tinh trùng của người chồng đã qua đời.
Trong khi ấy, tại tiểu bang Victoria của Úc, các đề nghị đang được thảo luận để nới lỏng các đạo luật về IVF, gồm cả các đạo luật liên quan đến việc hiến tinh trùng. Một bài báo đề ngày 16 tháng Hai đăng trên nhật báo The Australian, Myfanway Walker, một phụ nữ được sinh ra do kết quả của IVF và tinh trùng hiến tặng, đã trình bầy chi tiết các chống đối của cô đối với việc hiến tặng tinh trùng này.
Chỉ đến tuổi 20, cô mới khám phá ra sự thật về cha mẹ cô. Nhờ thế, cô đã liên lạc được với người cha theo sinh học của mình, nhưng cô cho hay dù cuối cùng trẻ em đạt được việc ấy chăng nữa, thì đó cũng không phải là một giải pháp có thể chấp nhận được.
Tìm Kiếm Vô Vọng
Dù hiện nay con số các quốc gia bãi bỏ tính nặc danh của người hiến tặng, nhờ thế, các trẻ em có cơ hội liên lạc được với cha hay mẹ sinh học khi các em đã 18 tuổi, nhưng Walker nhận xét rằng các dữ kiện đưa đến việc tiếp xúc kia thường không được các bệnh viện cập nhật hóa thỏa đáng. Mặt khác, chính các người hiến tặng thường cũng tích cực tìm cách tránh né để khỏi bị tìm ra. Như thế, khi trẻ em tới tuổi biết bắt đầu tìm kiếm cha “ruột” của mình, thì việc tìm kiếm ấy thường là không thành công. Walker nói với tờ The Australian rằng Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền Trẻ Em tuyên bố rằng trẻ em có quyền biết căn tính mình. Một quyền như thế chắc chắn bị vi phạm khi một cha mẹ là người hiến tặng, mà lại có quyền dấu tên trong những năm đầu đời của đứa trẻ.
Nhà đạo đức học Margaret Somerville trong một bài viết cho nhật báo Gia Nã Đại, The Ottawa Citizen ngày 17 tháng Chín năm ngoái xác nhận rằng quan điểm của Walker được nhiều người khác vốn cũng được sinh ra qua chương trình hiến tặng tinh trùng ủng hộ. Somerville cho hay càng ngày càng có nhiều trẻ em như thế, nay đã ở tuổi thiếu niên, đang lên tiếng mạnh mẽ chống đối phương cách chúng được sinh ra. Chúng cảm thấy mình như “những trẻ mồ côi sinh học”. Somerville cảnh cáo: ta đang có nguy cơ phân chẻ quyền làm cha mẹ thành các yếu tố vụn vặt về phương diện sinh học, nuôi nấng, xã hội và luật lệ. Việc ấy sẽ gây hại nghiêm trọng cho cả trẻ em lẫn xã hội.
Một nhật báo Gia Nã Đại khác là tờ The Globe & Mail, ngày 13 tháng 11 năm rồi, tường trình việc Liza White khám phá ra con gái Morgan của bà, được thụ thai nhờ tinh trùng hiến tặng, có đến 6 anh chị em “cùng cha” khác mẹ. Sáu gia đình và bẩy đứa trẻ này sống khắp nước Mỹ từ tiểu bang Washington tới Thủ Đô Washington. Cả bẩy đứa trẻ này cùng sinh cách nhau nửa năm, và vào lúc bài báo kia xuất hiện, chúng đều đang học lớp mẫu giáo. Theo tờ The Globe & Mail, các bà mẹ, thẩy đều đồng tính luyến ái, nên chưa biết ai là cha con cái họ và làm cách nào liên lạc với ông ta.
Khủng Hoảng Căn Tính
Kỹ thuật thụ thai trong ống nghiệm cũng đang được sử dụng để tạo ra những loại liên hệ gia đình hết sức dị kỳ. Tờ Sunday Times, ngày 10 tháng Hai vừa qua cho hay: ít nhất có đến sáu bà mẹ tại Anh đã đông đá trứng của mình để các con gái hiếm muộn của họ có thể sử dụng sau này. Những người con gái có khả năng hạ sinh các anh chị em của chính mình ấy sở dĩ thực hiện được việc đó là nhờ kỹ thuật đông đá hiện nay tiến bộ đến độ các trứng của bà mẹ có thể sống lâu đủ để chờ mấy đứa con gái kia đến tuổi trưởng thành và đem ra sử dụng.
Phê phán việc ấy, Josephine Quintavalle thuộc tờ Nhận Định Về Đạo Đức Học Sinh Sản nói với tờ Times: “Đứa trẻ chắc chắn sẽ gặp khủng hoảng căn tính, không tài nào tính ra được mối liên hệ của mình với thân nhân”.
Một trường hợp điển hình khác ở Anh đã được đài BBC tường trình vào ngày 5 tháng Mười năm ngoái. Một ông già nặc danh 72 tuổi đồng ý hiến tặng tinh trùng của mình để có “cháu nội”. Ông cụ hiến tinh trùng của mình cho con trai và nàng dâu là những người không có khả năng thụ thai qua chương trình IVF.
Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo từng lên tiếng chống lại các nguy cơ của IVF, trong đó có nhắc đến quyền một đứa trẻ được sinh ra bởi một người cha và một người mẹ, và quyền được biết họ (Số 2376). Sách này nói thêm “Đứa trẻ không phải là một đồ vật nợ nần ta, nhưng là một hồng phúc, ‘một quà phúc tối cao của hôn nhân’ (số 2378). Cho nên, bản văn viết tiếp: “Không được coi đứa trẻ như một món tài sản”. Các nguyên tắc ấy thường rất dễ bị làm ngơ, gây thiêt hại không những cho đứa trẻ mà cho cả xã hội như một toàn bộ.
Viết theo Cha John Flynn, LC, Zenit 27-04-08
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Hai 28/04/2008 02:39)
Sự nâng cao tinh thần
(Thánh Bonaventura: Itinerarium mentis in Deum)Sau hai năm rưỡi được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền VII Dòng Phan-xi-cô, Bonaventura, tên thật là Johannes Fidanza (1221-1274), đã lui vào trong nơi thanh vắng Alverna, một ngọn núi thuộc dãy Appenin ở Toakana, không cách xa Caprese, nơi sinh trưởng của nhà danh họa Michelangelo. Chính nơi đặc biệt này, nơi thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi được in năm dấu thánh, Bonaventura đã soạn thảo tác phẩm thời danh:
“Itinerarium mentis in Deum“ (Con đường tầng cấp tinh thần dẫn về cùng Thiên Chúa), một tác phẩm rất xứng đáng được liệt vào hàng các tác phẩm tư tưởng sâu sắc nhất ở thế giới Kitô giáo Tây phương.
|
| Triết-thần học gia nổi danh: Thánh Bonaventura |
Bonaventura trình bày con đường hành trình của tinh thần tiến về cùng Thiên Chúa như là một sự bay lên cao của tinh thần. Và một thị kiến cho thấy rằng sự bay lên cao đó của tinh thần được Thiên thần Sê-ra-phim có các cánh, dưới vóc dáng một người mang năm dấu thánh như nơi thánh Phan-xi-cô, Đấng sáng lập Dòng, hiện ra và hướng dẫn. Sáu cánh của Thiên thần Sê-ra-phim tương ứng với sáu cấp bậc của sự nâng cao tinh thần, mà qua đó linh hồn đạt tới sự an bình trong việc chiêm ngắm Thiên Chúa. Ở đây, trước hết linh hồn hướng ra bên ngoài, để đi tìm những dấu ấn của Tạo Hóa trong vũ trụ, sau đó quay lại với tinh thần trong chúng ta, và sau cùng là vượt lên khỏi chúng ta để nhận ra được Thiên Chúa trong yếu tính đặc trưng của Người.
Cuối cùng, một bước đi thứ bảy, đó là sự đạt tới tình trạng chiêm ngắm trọn vẹn và sự bình an vĩnh cửu. Điều đó có nghĩa là tất cả mọi khát vọng mong muốn nhận thức đều không cần thiết nữa; hay nói rõ hơn, con người không cần phải mong muốn đạt tới bất cứ điều gì nữa, vì đã đạt tới được tột đỉnh của sự trọn hảo.
Động tác nhận thức đó, tức động tác hướng dẫn từ dưới thấp lên trên cao, từ ngoài vào trong, từ tạm thời tới vĩnh cửu, làm phát huy những khả năng của bản chất con người. Ở đây Bonaventura đã so sánh toàn thể các sự vật, trong đó bao gồm cả chính linh hồn con người, tác nhân nhận thức, với một chiếc thang, mà nhờ đó chúng ta có thể bước lên cùng Thiên Chúa, tương tự như chiếc thang trong giấc mộng của Tổ phụ Gia-cóp (x. St 28,12tt). Tuy nhiên, nếu
“chiếc thang Gia-cóp“ đó bắc qua các sự vật, thì Bonaventura giới hạn nó lại trong hai bậc thang đầu, tức: dấu ấn và hình ảnh. Bậc thang cuối cùng, tức bậc thang – được tượng trưng bằng cặp cánh trước của Thiên thần Sê-ra-phim – dẫn đưa linh hồn thiêng liêng bước ra khỏi chính mình để chiêm ngưỡng nguyên lý đệ nhất, tương ứng với hai danh xưng đầu tiên của Thiên Chúa: Sự hiện hữu và sự thiện hảo; trong khi đó ngược lại, một sự tạo hình trực tiếp, nghĩa là một sự tạo hình ưu tiên thì cần phải nhờ đến ánh sáng của chính chân lý vĩnh cửu.
Bước đầu tiên trong việc phân tích sự nhận thức của tác phẩm
“Itinerariums“ nối tiếp hoà nhịp với bậc cấp nền tảng đầu tiên theo cách thức sự khởi đầu của thế giới, của đại vũ trụ, vào trong linh hồn chúng ta, trong tiểu vũ trụ. Tại đây linh hồn nhận thức được các sự vật phức tạp. Nhưng những sự vật thâm nhập vào trong linh hồn không phải theo bản thể của chúng, nhưng nhờ phương tiện những hình ảnh trực cảm của những sự vật đó qua các cổng giác quan. Cũng chính qua cách thức này, toàn thể thế giới sự vật thâm nhập được vào trong linh hồn con người qua các cổng giác quan.
Nhưng chính bậc cấp nền tảng thứ nhất - tức bậc cấp bao gồm hai cánh thấp nhất của Thiên thần Sê-ra-phim – không bị giới hạn trong những sự vật có thể tri giác được bằng giác quan, nhưng còn bao gồm cả những sự vật tinh thần nữa. Tính cách tổng quát của dấu ấn Tạo Hóa trong vũ trụ được tham chiếu theo ba nguyên nhân tính sáng tạo, vì Thiên Chúa là:
• nguyên nhân tác động,
• nguyên nhân mô phạm
• và nguyên nhân mục đích.
Tác động đi lên - từ dấu ấn cho tới chỗ khám phá ra chính Thiên Chúa - của một sự lùi dần từ các sự vật lên đến nguyên lý đệ nhất cũng tương ứng theo cùng cách thức như thế. Theo Bonaventura, đó chính là sứ mệnh của
“nhà siêu hình học chân chính“, tức rời khỏi sự chiêm ngưỡng
“hữu thể từ một hữu thể khác, theo một hữu thể khác và vì một hữu thể khác“ để đạt tới một
“hữu thể từ chính mình, theo chính mình và vì chính mình“, và đó là điều bao hàm nội dung ý nghĩa về nguyên ủy, về căn nguyên và về mục đích.
Ngay tại sự khởi đầu bậc cấp nền tảng thứ hai tiếp theo sau đó - bậc cấp tương ứng với hai cánh giữa - là sự dẫn đưa quay trở về chính mình. Cùng với những lời của Augustinô, Bonaventura đòi hỏi hình ảnh:
“Vậy, hãy quay trở lại với chính mình và hãy nhìn xem: Tinh thần ngươi đang yêu chính mình một cách hết sức nồng nàn. Nhưng nó sẽ không thể yêu chính mình được, nếu như nó không nhận ra được chính mình, và nó sẽ không thể nhận ra chính mình được, nếu như nó không hồi tưởng được những gì đã xảy ra cho mình; bởi vì chúng ta chỉ nhận thức được những gì đang hiện diện trong ký ức của mình mà thôi.“ Đây là điều Bonaventura đã giải thích rõ ràng qua một sự phân tích khả năng nhận thức được đặt cơ sở trên chân lý.
Sau cùng, sự phân tích nhận thức – được thực hiện trong hai giai đoạn – dẫn tới sự nhận thức hữu thể đệ nhất, tức hữu thể thuần tuý nhất, chân thực nhất và trọn vẹn nhất, nghĩa là hữu thể tuyệt đối, một hữu thể chiếm giữ sự ưu tiên kép: Hữu thể đệ nhất vừa trong trật tự nhận thức và vừa trong trật tự hiện hữu. Và chính hữu thể đó đi qua trí năng của chúng ta như là hữu thể đầu tiên và cũng là hữu thể luôn luôn được suy tưởng trước tiên trong tất cả những gì chúng ta nhận thức và suy tưởng. Hữu thể đó là thực tại tuyệt đối, là hữu thể Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa vậy.
Như thế, tinh thần đã khám phá trong chính nội tâm mình điều - mà theo bản tính nó - luôn luôn là chính nó, dù nó không ý thức được điều đó. Vì thế, Bonaventura đã nói đến một sự mù loà đầy bí ẩn khó hiểu; đó là khi tinh thần chúng ta không nhận thức được điều gì đã xảy ra trong nó, tức là điều mà khi thiếu nó, thì người ta chẳng nhận thức được bất cứ điều gì cả. Vậy, mặc dầu đối với Bonaventura sự tri thức về hữu thể trọn hảo của Thiên Chúa là nền tảng cho mọi nhận thức của con người, nhưng để có thể đạt tới được sự nhận thức về Thiên Chúa, con người cần phải nhờ vào sự chiêm ngưỡng thế giới tạo vật; bởi vì hữu thể Thiên Chúa – xét như là điều kiện tiên thiên của khả năng nhận thức của con người -, trí năng con người có thể nhận thức được một cách chung chung mà thôi, chứ không thể thấu hiểu trọn vẹn được. Nói cách khác, trí năng con người có thể minh chứng và xác tín được sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn không thể giải thích được một cách trọn vẹn yếu tính hay sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Nguyên tắc nền tảng sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa qua công trình sáng tạo như thế là một sự tri thức về hữu thể, mà nhờ đó các sự vật không chỉ mang trên mình ý nghĩa của chính mình, nhưng chúng - xét như là những phản ánh sự sáng tạo – còn giới thiệu nguyên bản sáng tạo theo từng cách thức hiện hữu cụ thể của chúng. Điều đó có nghĩa là sự tương quan giữa các tạo vật với Thiên Chúa dựa theo mức độ:
• dấu vết,
• sự phản ánh,
• và sự tương tự.
Bonaventura đem áp dụng cách thức trình bày sự tương quan đó vào trong việc diễn giải về lãnh vực Thiên Chúa Ba Ngôi và Kitô học: Ngôi Lời Thiên Chúa, xét như là sự biểu lộ hoàn hảo của Chúa Cha, là nguyên bản vĩnh cửu của tất cả mọi tạo vật, và tất cả những tạo vật, qua mức độ hoàn hảo của chúng, phải được coi như là phản ánh sự vinh quang của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả mọi tạo vật xuất phát từ Thiên Chúa qua Ngôi Lời, và qua mầu nhiệm nhập thể làm người, Ngôi Lời đã hoàn toàn đảm nhận chức vụ trung gian của mình một cách trọn vẹn.
Như vậy, sự quay trở về cùng Thiên Chúa được giới thiệu như ba con đường cùng song hành và gắn liền với nhau:
• con đường thanh luyện,
• con đường chiếu sáng
• và con đường hoàn thiện.
Chính con đường sau cùng này quyết định toàn diện cuộc sống tinh thần con người và dẫn tới sự hoàn thiện của tình yêu Thiên Chúa cũng như dẫn tới sự huy hoàng rực rỡ của chân lý. Đó chính là con đường mà thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi đã trải qua để nên giống Đức Kitô chịu đóng đinh về cả tinh thần lẫn thể xác. Nhưng để đạt tới được sự hoàn thiện cuối cùng trên con đường dẫn tới
“sự bình an vượt trên tất cả mọi tư duy“ thì chỉ có ai biết loại bỏ được tất cả mọi cách thức suy luận theo các phạm trù của trí năng nhân loại và biết vượt ra khỏi sự tri thức khả tri,
“đó là khi người ấy sử dụng cách thế hiệu lực có thể thắng vượt được tất cả để vượt ra được khỏi chính mình, tức khi người ấy nâng mình lên trên chính mình.“ Bonaventura diễn tả hành động „transcensus“ đó như một cái gì được nắm bắt, được tách ra và được đưa lên cao trong
“lãnh vực thuộc khuynh hướng tri thức và tình cảm.“ Đồng thời chứa đựng trong đó sự minh triết hoàn hảo, tức một ơn của Chúa Thánh Thần bắt đầu trong sự nhận thức và kết thúc trong tình cảm, đó là ơn mà
“không một ai ý thức được, nếu người ấy không cảm nhận được ơn đó.“ Trong sự đi lên này thì chính Đức Kitô là đường, là cửa, là thang và bạn đồng hành. Qua đó, ý niệm vượt qua có được ý nghĩa Kitô học. Đó chính là hành động – mà khoa thần bí học sau này giải thích là sự loại bỏ hoàn toàn ý riêng – sẽ dẫn đưa chúng ta, sau khi đã chết về mặt tinh thần, tới sự phục sinh: tức trở nên một con người mới! Chính qua hành động đó, thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi – sau khi rời bỏ miền núi Alverna, nơi thánh nhân được in năm dấu thánh - đã trở nên mẫu gương trong việc chiêm ngắm trọn vẹn.
______________________
Sách tham khảo: Bonaventura: “Pilgerbuch der Seele zu Gott“ (Itinerarium mentis in Deum). Eingeleitet, übersetzt und erläutert von Julian Kaup. Kösel Verlag, München 1961.
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 10:51)
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh, Giáo Phận Hà NộiBối Cảnh U Ám Thời Chinh Chiến Đầu Thập Niên 1950 tại vùng Đồng Văn, Phủ Lý, Hà Nam Bắc Phần Việt Nam1.
Đã từ lâu người cựu chủng sinh họ Đỗ tiểu chủng viện Piô XII Hà Nội đã cố tập trung tài liệu để viết về Linh mục Nguyễn Văn Vinh, người cha linh hướng thánh thiện, một vị anh hùng tử đạo kính yêu, đầy kiêu hùng của bản thân cậu, của nhiều người, và của Giáo Hội Việt Nam,.
Đoạn đường cậu di chuyển từ Tiểu chủng viện Thánh Phêrô Hoàng Nguyên, trong vùng Cộng Sản chiếm đóng sang vùng tề (quốc gia không Cộng Sản) sau những ngày hè có nhiều xáo trộn đặc biệt. Hoàng Nguyên thuộc Quận Phú Xuyên, Tỉnh Hà Đông. Tình hình này diễn biến từ tháng Năm đến Tháng Tám năm 1952.
Khu chủng viện và nhiều làng xóm chung quanh đó thuộc Quận Phú Xuyên và Huyện Duy Tiên, Hà Nam đã nằm trong vùng kiểm soát của quân du kích Cộng sản, sau một thời gian ở trong vùng tề của quân đội Liên Hiệp Pháp. Trong lúc rời chủng viện Hoàng Nguyên về làng Hòa Khê, nơi sinh nhau cắt rốn của mình, dưới bộ đồ trắng cậu phải đi vội như chạy, trên đường đá bên kia con sông đào Hòa Khê. Mắt cậu như như dán chặt, trông chừng chiếc máy bay do thám bà già liên tục cứ xà thấp xuống quan sát toàn khu vực.
2. Về đến nhà, cậu chủng sinh thấy Mẹ và hai chú em trai đang vùi đầu chuẩn bị các thứ đồ đạc, thức ăn cho cậu rời làng Hòa Khê. Đạn móc chiê ùng oàng bắn loạn vào vườn, chẻ nát bụi tre làng, bên cạnh nhà. Mẹ vội giục giã con đi sớm ngay vào Đồng Văn để tránh nguy hiểm, không kịp ngó lại những kỷ niệm thời thơ ấu trong thửa vườn đầy luyến thương. Ngay chiều sâm sẩm tối hôm ấy, mẹ con cậu âm thầm mang vào Đồng Văn cho Cha cậu đã chạy vào đó từ trước. Họ khẩn trương chuẩn bị cho cuộc di chuyển của toàn thể gia đình cậu tản cư lên Hà Nội.
Tuy chậm chân thoát ly làng lên thành thị cải thiện cuộc sống gia đình, nhưng đó là cơ hội bắt buộc vì hoàn cảnh chiến tranh, gia đình cậu phải đi, dù tương lai ra sao. Cậu cùng mẹ đầy âu lo vội tìm, đi theo các lối khuất giữa các ruộng ngô khoai hay các bờ ruộng nhô cao khô ráo. Mẹ con cũng đã tới được nơi căn nhà cha cậu tản cư và tạm ngụ cùng với anh Truyền, Phổ đã đi từ trước, và anh Nguyễn. Anh này là con trai con ông Cửu Hoàn, anh ruột cha cậu mà cậu thường gọi là Bác Hoàn.
Đó là một gian nhà lợp vội bằng tre rơm rạ, trống trải mà người ta cất lên và cho thuê ở trạm Đồng Văn, bên vệ đường quốc lộ số 1, đã bị quân du kích Cộng Sản đào nát ở nhiều chỗ theo chữ chi, để “tiêu thổ kháng chiến chống Pháp”. Ban ngày ngoài đường ai nấy đều nhốn nháo, kẻ đi lên người đi xuống, chạy trốn cảnh chiền tranh. Cậu, như con thiêu thân, say mùi thuốc pháo và hơi xăng xe ô tô Ngựa Bay và nhiều hãng khác, chạy trên quốc lộ. Ban đêm, súng móc chiê từ Bót Cống Nhật Tựu gần Sổ Nghệ hay phía sau làng Động Linh, bắn ùng oàng vào các làng bị chiếm đóng nằm hai bên đường quốc lộ số một.
Các toán lính đi tuần ban đêm trên đường trước mái nhà tranh sơ sài mà người ta ngủ bên trong. Qua những khe hở qua phên liếp tre đan, dưới ánh đèn điện vàng khè leo lét, hầu như cả nhà từ bên trong, ai cũng đều ngó xem những toán lính từ đâu trên xe tải nhà binh đổ xuống. Họ đi tuần ngay bên ngoài mặt đường. Người ta nơm nớp lo sợ khi có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ran, chung quanh đồn gần đó, khua tan đêm ngủ không tròn giấc.
Từ trạm ga Đồng Văn, một hôm anh Truyền và cậu đi xe đạp trên đường số một đã bị đào chằng chịt, hạn chế việc di chuyển của quân đội Liên Hiệp Pháp và những chuyến ô tô của dân buôn. Hai anh em xuống thăm chị Hợi ở làng Kẻ Sở (Hồng Phú), rồi vòng lên huyện lỵ Phủ Lý vào thăm gia đình anh chị Xã Hòa. Gia đình này đã rủ gia đình ông bà Hàn Tịch cùng tản cư xuống đây. Bà Hàn Tịch là chị ruột của Lý Phẩm, và hai cô chú ấy đều là em họ hai cậu Ở Nam Định, anh Doanh đã phải bỏ nghề dân quân tự vệ tại các bốt (postes) trong các làng vừa bị quân kháng chiến chiếm đóng, để tham gia quân đội Liên Hiệp Pháp, khi vùng tề bị đánh phá chiếm đóng. Anh đang lái xe Jeep cho một viên sĩ quan Pháp, nhưng chuẩn bị đào ngũ để mang gia đình và con cháu tản cư lên Hà Nội. Anh kiếm thuê một miếng đất ở phố Đội Cấn, Khu Ngọc Hà, Hà Nội để nuôi sống gia đình trong những ngày chạy loạn lên Hà Nội.
Đi Hà Nội Lần Đầu Tiên Cậu đi Hà Nội trước để kịp gia nhập chủng viện. Cha cậu, anh Truyền, anh Phổ và anh Nguyễn trù liệu thu xếp chuyển lên Hà Nội sau. Cha cậu sẽ đến cư ngụ tại số 78 Phố Đội Cấn Khu Ngọc Hà, Hà Nội, chung nhau mở hiệu thuốc Bắc, người góp công kẻ góp của, với cha con ông bà Dần. Ông bà này người thuộc giáo xứ Chằm hạ, mới trúng sổ xố nên có đủ tiền mua nhà ở Hà Nội.
Còn gia đình anh Ngoạn, Nguyễn tạm trú tại nhà anh Ba Khoa, thuê tại gần khu Thái Hà Ấp, cùng với anh Truyền, Phổ, hai anh ruột lớn của cậu. Khi cha cậu lên cư ngụ ở Phố Đội Cấn, ông mở cửa hiệu thuốc làm Đại Lý Nhà Thuốc Đông Hoa để kiếm tiền sống qua ngày.
Khi cha cậu ổn định tại đây, thì mẹ cậu, chị Hợi, anh Truyền, Phổ cũng đến thăm cha cậu tại Hà Nội. Chị ở chơi Hà Nội mấy ngày thăm cha mẹ, các em, rồi trở lại Hồng Phú. Anh Phổ ở lại Hà Nội, học nghề may với anh Ba Khoa, còn mẹ lại đi đi về về nhiều lần sau mới lừa quân du kích trong làng bỏ nhà hẳn đi lên Hà Nội với hai em Trang và Dzong
Gia Nhập Tiểu Chủng Viện Piô XII Hà Nội Sau Hè 1952Trong bối cảnh ly tán của những người thân trong gia đình, cậu chủng sinh đã chuyển trước lên cư ngụ Quần Ngựa, gia nhập tiểu chủng viện Piô XII, lúc đó đặt cơ sở tại Trường Lacordaire mà chủng viện tiếp quản từ các linh mục thừa sai Paris. Trước đó các thừa sai này (cụ thể là Linh Mục Paul Seitz Kim coi Cô Nhi Viện Thị Xã Kitô Vương, về sau chuyển đến Gò Đống Đa, lối đi xuống thị xã Hà Đông) tiếp nhận từ các linh mục dòng Đaminh chi tỉnh Lyon tại Việt Nam. Cô Nhi Viện vừa tản cư từ cơ sở tại Sơn Tây về Hà Nội.
Thụ Huấn với Linh mục Nguyễn Văn Vinh, cha giáo Pháp Văn và Âm NhạcTừ đó, cậu theo học, được xếp vào lớp Đệ Thất, lớp nhỏ nhất trong chủng việc khi đó và từ đó biết chút ít về Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Lúc ấy Linh mục mới ở Pháp trở về sau mấy năm du học tại Pháp. Ngoài LM Vinh, con có một số linh mục mới từ bên Pháp về nước: LM Lê Văn Lý, Đình Lưu Nhân, Nguyễn Văn Khiết. Về sau, khi chủng viện vào Nam, thì có thêm các Linh mục Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Minh Thông, và Nguyễn Hân Quynh.
Như cậu nghe biết, ngài sinh tại làng Ngọc Lũ, Nam Định, chưa có tư liệu để biết ngày sinh tháng năm sinh của ngài, nhưng chắc là sấp xỉ cùng tuổi với linh mục Lê Văn Lý (1913-1992). Ngọc Lũ là một làng quê gần núi Đọi Đệp, hay Đọi Sơn, gốc gác nổi tiếng của Trống Đồng Ngọc Lũ. Đó cũng là nơi xuất phát nhiều dòng tín hữu tử vì đạo trong thời kỳ cấm đạo (1771-1885). Trong thời gian du học tại Pháp Linh mục Nguyễn Văn Vinh đã gia nhập dòng Biển Đức. Nhưng khi về Hà Nội, cậu chỉ biết Linh mục là một giáo sỹ thuộc địa phận Hà Nội. Linh mục say mê và rất giỏi Violon. Tôi nghe nói là Linh mục đỗ đầu trong các thí sinh trúng tuyển kỳ thi vĩ cầm (violonistes lauréats) ở Conservatoire National Supérieur de Musique de Paris.
Thừa Sai Dépaulis Hương (1876-1950), Đỡ Đầu Linh Mục Nguyễn Văn VinhJoseph, Antoine Dépaulis sinh ngày 27/4/1876, tại giáo xứ Thánh Jean Baptiste, ở Rive-de-Gier, hạt La Loire, giáo phận Lyon. Cậu theo trung học tại TCV Montbrison, rồi lên học triết ở chủng viện Lyon, và ở đó ngày 28/5/1896 thầy chịu phép cắt tóc.
Ngày 4/10/1898 Thầy vào chủng viện thừa sai, chịu các chức nhỏ từ 1899-1901 và thụ phong linh mục ngày 23/6/1901. Ngày 24/7/1901, tân linh mục được lệnh sang truyền giáo ở Địa phận Đại Diện Tông Tòa Tây Bắc Kỳ (Hà Nội), Việt Nam.
Sau thời gian học tiếng Việt, Cha Dépaulis được bài sai đi coi xứ Kẻ Bèo (Đồng Bào, nơi công đoàn mà Thánh Théophane Vénard (Thánh Ven) và xứ Kim Bảng, làm phó xứ cho Cha Chalve, đã phụ trách trông coi hai xứ khác.
Năm 1904, GM Hà Nội Gendreau Đông bổ nhiệm ngài làm chính xứ Ngọc Lũ. Chính thời gian ngài quản nhiệm Ngọc Lũ, v à mấy xứ khác lân cận, ngài nhận đỡ đầu cho cậu Nguyễn Văn Vình.
Năm 1920, Linh Mục Dépaulis nhận trách nhiệm làm quản lý Hội Thừa Sài ở Hà Nội. Ngài hết sức tích cực để hoàn thành nhiệm vụ mới. Ngài chuẩn bị các tài nguyên cho tương lai. Ngài điều khiển xây cất trường thử, nhà quản lý và nhà ở mới, hai trường học mới, một cho con trai, một cho con gái trong giáo xứ nhà thờ lớn, một cư xá sinh viên.
Ngài nổi tiếng là một người hăng say hoạt động, có tài quán xuyến công việc xây dựng và tố chức, trong đó có tài âm nhạc. Có thể vì thế thiên tài âm nhạc của ngài đã tác động nhiều đến người con đỡ đầu Nguyễn Văn Vinh.
Năm 1930, hai giám mục Gendreau Đông và Marcou Hành về Pháp, tham dự Đại Hội Hội Thừa Sai Paris. Nhân đó các ngài đem theo 12 chủng sinh Bắc Kỳ cùng đi với các ngài. Linh mục Dépaulis tháp tùng phái đoàn. Linh mục lưu lại Pháp để bồi dưỡng sức khỏe từ tháng 6/1930 đến tháng 3/1931, đồng thời tham gia học hỏi thêm những phương pháp làm tông đồ mới. Trong hai tháng, ngài đã nhiều lần thuyết trình tại các học viện và chủng viện ở Bỉ và Pháp.
Đây là chính thời gian các vị thừa sai miền Bắc chuẩn bị hàng ngũ chủng sinh thành những linh mục đủ tài đức về làm việc cho giáo hội Việt Nam, cụ thể là giáo phận Hà Nội. Về sau trong kế hoạch đó, địa phận Hà Nội có các linh mục Lê Văn Lý, Đinh Lưu Nhân, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Huy Mai, Nguyễn Hân Quynh, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Minh Thông, Nguyễn Xuân Oánh (Hà Nội), Nguyễn Văn Bồng (Thanh Hóa).
Trở lại Hà Nội, ngài phụ tá cho Linh mục Dronet, chính xứ nhà thờ lớn. Từ năm 1931 đến tháng 12/1935, ngài coi sóc việc xây dựng và trang trí nhà thờ Đức Bà Các Thánh Tử Đạo, xây một phòng làm việc, một nhà xứ tiện nghi. Về sau ngài đến cư trú đó năm 1934. Ngài hăng hái tồ chức đoàn nghĩa binh thánh thể, xuất bản một bản tin tiếng Việt, và củng cố đoàn hướng đạo đầu tiên của Hà Nội.
Năm 1936, Linh m ục Dépaulis được bổ nhiệm quản trị một giáo xứ mới được xây dựng quanh ngôi nhà nguyện Thánh Antôn khiêm tốn. Chính ngài đã tậu một thửa đất khá rộng để xây dựng một trung tâm giáo xứ với một nhà thờ, một nhà ở, một phòng làm việc và trường học.
Ngài hăng say xây dựng các công trình để qui tụ các tin hữu trong khu vực và giúp đỡ các người nghèo: Quân Binh Thánh Thể, Hội Vinh Sơn, Công Giáo Tiến Hành, các tập thể thanh niên Việt Nam, các trại hè, v.v…Chủ Nhật ngày 7/5/1939, nhà thờ mới Thánh Antôn được khánh thành.
Tháng 3/1940, ngài được bổ nhiệm làm đại diện của các phái đoàn truyền giáo Bắc Kỷ ở Quỹ Brévié. Tổ chức này có mục đích trợ giúp các trẻ em lai, chủ yếu là Pháp Việt, bị bỏ rơi.
Tháng 3/1945. Cha Dépaulis bị chấn động mạnh do biến cố quân sự Nhật đảo chính Pháp. Trong các tháng tiếp theo, khi Việt Minh nổi dậy, ngài phải chịu nhiều cảnh khốn đốn đau khổ do tinh thần ngoan cố của giới thanh niên và do các biến cố xảy ra..
Một thanh niên đã dám dùng tay đánh ngài. Được cha Khuê, người Việt Nam lúc đó làm phụ tá cho ngài, giúp đỡ tận tình, ngài cố gắng chịu đựng và thích ứng. Ngày 19/1/1946, ngài phải lánh nạn, tạm trú ở các văn phòng trong hãng Shell gần đó ít ngày. Sau đó mới có thể gặp lại Phái Đoàn truyền giáo. Từ lúc đó, ngài mất hết khả năng tự chủ và phải từ nhiệm rồi buộc phải hồi hương về Pháp. Có thừa sai Chabert thuộc phái đoàn truyền giáo Hưng Hóa đi theo ngài đến Marseille ngày 4/6/1948. Từ đó ngài được chuyển đến Montbeton.
Một trong những niềm vui cuối cùng của ngài là Giám Mục Trịnh Như Khuê đến thăm Ngài. Linh mục Khuê, phó xứ cho ngài trước kia, bây giờ được bổ nhiệm Giám Mục Hà Nội. Linh mục Hương Dépaulis chết tại Montbéon, sau nhiều đau đớn kéo dài ngày 3/12/1950
Vài Kỷ Niệm Thâm Tình Với Linh Mục Nguyễn Văn VinhGiảng dậy, linh hướngHai kỷ niệm nhớ nhất mà tôi có cho đến nay khi được thu huấn Pháp Văn với linh mục ở TCV Piô XII Quần Ngựa, đường Hoàng Hoa Thám, Quận Hoàn Long, Hà Nội. Ngài thường kể truyện khi ngài ngồi trên Métro đi đến mỗi buổi sáng sớm dâng thành lễ ở một nhà thờ nào đó tại Paris, nhiều hành khách cứ tưởng ngài là một phụ nữ nên đã liên tục chào Bonjour Madame, dù họ có thể gặp ngài nhiều lần. Linh mục Nguyễn Văn Vinh có dáng dấp bề ngoài một người dễ thương, yểu điệu, hay faire la petite bouche. Nhưng ẩn dấu trong con người đó ngài lại bộc lộ một tính tình cương nghị sắt đá!
Kỷ niệm khác, cậu chọn ngài làm cha linh hướng. Khi còn nhỏ, cứ mỗi lần lên phòng ngài bàn việc linh hồn, thì ngài hay đùa nghịch. Có ai đó cho biết ngài giỏi vĩ cầm, nhưng câu chưa được chính ngài kéo vĩ cầm cho nghe riêng trong phòng ngài. Cậu thích nhõng nhẽo, thường chui rúc vào dưới áo soutane như con chó cún nhỏ bé dễ thương. Thế rồi khi hết giờ, trước khi ra về, ngài thường cho một hộp sữa đặc có đường mà người ta gửi biếu ngài từ bên Pháp. Mỗi lần có sữa như thế, cậu thường mang về và tối mở ra mút sữa một mình khoái trá bên trong màn.
Cha giáo âm nhạcNgài qui tụ một số anh em giỏi nhạc như Nguyễn Văn Hòa (GM Hòa Nha Trang), Nguyễn Văn Đồng (Đồng Bi ton, linh muc tại Cần Thơ), Nguyễn Văn Lệ (Titus Lệ, Nhạc Sĩ Nguyễn Hải Ánh), Vũ Kim Hường (Hường Khé Khò), Vũ Hùng Tôn (Tôn, cháu cha Lai, gốc Thanh Hóa) để huấn luyện và giúp ngài tập hát chung cho chủng sinh.
|
| Ngôi nhà và thửa đất tại Ngọc Lũ, quê hương LM Vinh |
Tôi nhớ nhất là những bài “De Profundis”, “Lạy Cha”, “Jam Albae sunt ad Messem”, “Bravo, Bravo!!!”… mà ngài tập cho ca đoàn chủng viện Piô XII hát trong thánh lễ hay các dịp lễ tân. Về sau, khi sang Hoa Kỳ, từ cuối năm 2003, tôi còn thấy những bài đó được thế hệ Vũ Hùng Tôn phổ biến cho nhiều ca đoàn ở hải ngoại, như ở Seattle bang Washington, như ở Ca Đoàn Giáo Xứ La Vang, Cincinnati, bang Kentucky.
Khi Địa phận Hà Nội cho các chủng sinh di cư vào Nam, từ khoảng 14/7/1954, trong số các linh mục được chỉ định vào đi theo chủng viện, theo hiểu biết của người viết, có các Linh mục Đinh Lưu Nhân và Nguyễn Văn Vinh, nhưng cả hai vị đều xin ở lại.
Ở địa phận Hà Nội theo nhận xét của một cựu chủng sinh Hà Nội (Nguyễn Văn Lục), Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê có cái may mắn là qui tụ được một số Linh mục trí thức như các linh mục trên. Họ đều là trí thức du học, có thể là bậc thầy của đám bốn tên sau này ở Sàigòn, mà nhiều người gọi tên là “tứ nhân bang”. Nhưng họ có lý tưởng vững chắc, đạo hạnh, can đảm, hy sinh, tuân phục mặc dầu bị bách hại. Trong số bốn vị trên, Lm Vinh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù, hai lần lên Cổng Trời, được thả ra và chết sau đó vài năm. Lm Quynh, Oánh, đều bị quản thúc trên 20 năm.
Trường Hợp Cha Chính Vinh bị bắt giamTrường hợp LM Nguyễn Văn Vinh bị bắt diễn ra như sau: Khoảng năm 1959, tất cả các trường theo sắc lệnh 234, các tôn giáo đều có quyền mở trường tư thục do tư nhân điều khiển.
[Sắc lệnh 234 đầu tiên về Tôn giáo do Hồ Chí Minh ký ngày 14-6-1955. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234
- Điều 3: “Các nhà tu hành ngoại quốc mà Chính phủ ViệtNam Dân chủ Cộng hoà cho phép, thì được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam.....”,
- Ðiều 5. “Các tôn giáo được mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình.”
- Điều 9: “Các tôn giáo được phép mở trường tư thục. Các trường tư thục phải dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ. Ngoài giờ dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ có thể dạy thêm giáo lý cho những học sinh nào muốn học”.
- Điều 13: “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”,]Nhưng nhà nước Cộng Sản chỉ thị cho tất cả các trường học, dù công hay tư, đều phải treo ảnh Hồ Chí Minh trong lớp. Trước giờ học cả lớp đều phải chảo cờ đỏ sao vàng, hát bài tiến quân ca bấy giờ được chọn làm quốc ca.
Chỉ thị của nhà nước được lệnh phải đọc công khai trong nhà trường và nhà thờ. Trung thành với tinh thần sắc lệnh tôn giáo về qui chế tư thục, Linh mục Nguyễn Văn Vinh, với tư cách là cha chính (tồng đại diện) địa phận Hà Nội, chính xứ nhà thờ lớn Hà Nội, đã không cho công bố sắc lệnh này ở nhà thờ, không tháo gỡ thánh giá và treo ảnh lãnh tụ, không chào cờ đỏ sao vàng, thay thế.
Cụ thể là ngài không áp dụng chỉ thị trên cho trường giáo xứ Nhà thờ lớn Hà nội là trường Dũng Lạc.
Lúc đó ngài còn đang được mời dậy La tinh cho các sinh viên ở Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội. Khi Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Hoa đến thăm Hà Nội, ông thấy Linh mục Nguyễn Văn Vinh còn tiếp tục được mời giảng dậy tại Đại Học. Ông liền nói với phái đoàn tháp tùng ông:
“Giờ này mà còn có linh mục được mời giảng dậy Đại Học à!”
Thế là một buổi sáng nọ linh mục Nguyễn Văn Vinh bị bắt dẫn đi, đem tống giam vào nhà Hỏa Lò Hà Nội, một nhà tù khét tiếng độc ác tại Hà Nội, vỉ bất tuân thượng lệnh! Dần dà linh mục bị dẫn giải đem giam ở nhiều trại giam, có thể ở Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An, Thanh Cầm Thanh Hóa, Đàn xanh, Ba Sao Nam Hà, Hồng Ca Yên Bái, Trại Ngọc Yên Hòa Phú Thọ, An Thịnh Tuyên Quang, Vinh Quang Vĩnh Phú, Phong Quang Lao Kay, trước khi đến Trại Tù Cổng Trời. Nhiều nhiều nhân vật khí khái đã từng bị kiên giam và biệt giam cho đến chết, mà không tự phản bội chính mình và lý tưởng của mình. Nào là thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, nhà văn Vũ Thư Hiên, Nhà văn Nguyễn Hữu Đang. Rất nhiều linh mục đã bị kiên giam và biệt giam nhiều năm trong chin tầng địa ngục Cổng Trời này.
Theo chứng từ của một người tù (Kiều Duy Vĩnh) tại Cổng Trời, thì thành phần tù nhân phần lớn là vì lý do bách hại Công giáo:
“Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ.
Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim). rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.
Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.
Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ. còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyễn Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc Nam Lộc Nam Đàn...
Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.
Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.” Một Hình Ảnh Về Trại Cổng Trời, Nơi Linh Mục Nguyễn Văn Vinh Bỏ Xác Lìa ĐờiCó nhiều người tù còn sống ghi chép lại trại tù này. Trong “Đêm Giữa Ban Ngày", Vũ Thư Hiên hồi ức về Trại Cổng Trời như sau.
Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của người tù. Những ai đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải vì sợ bị công an trừng phạt (nghiêm cấm nói đến bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe nghĩ mình bịa đặt.
Hình như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai....Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị”khóa cánh tiên”, bị “hạ huyệ”, còn nếu bị “cùm hộp” thì coi như đời đi tong.
Vũ Thư Hiên đã mô tả ba lối hành hạ “Khóa cánh tiên, Hạ huyệt và Cùm hộp” trong cuốn hồi ký của ông, mà thú nhận chỉ mới được thấy cảnh người bị "khóa cánh tiên" (có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, có người chịu được hàng giờ như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,) còn hai lối giết người kinh khủng kia ông chưa được thấy chỉ nghe kể lại.
Một nhân chứng ở trại Cổng Trời cho biết là Linh mục Nguyễn Văn Vinh qua đời vào khoảng năm 1970. Tù nhân trong trại được lệnh đem xác cha đào hố chôn ở một khoảnh rừng gần đó. Về sau, người làng Ngọc Lũ đã tìm cách đào nấm mồ chôn xác ngài. Người ta thu lượm được một phần mùn di cốt và mảnh y phục mà ngài mang khi qua đời, rồi đem về, bảo quản, tôn sùng tại Nhà Thờ Ngọc Lũ, chung với số phận các tiền nhân tử đạo Việt Nam, như đã nói
Một Hình ảnh Khác Về Trại Tù Cổng Trời, Qua Ngói Bút Của Một Số Cựu Tù Nhân Sống Sót Ghi Chép Lai. Tổ chức ở Nhà Tù Cổng Trời ở miền Bắc Việt Nam, nơi giam giữ cha Nguyễn Văn Vinh, nhiều cha khác và nhiều thành phần khẳng khái bị khép vào tội lật đổ hay âm mưu lật đồ chế độ. Hầu hết tù nhân là những chính trị phạm ngoan cường, những linh mục tu sĩ hay chỉ duy nhất một lần một người tù hình sự cho anh em biết là ở đó có hầm đá, quan tài đá và chôn một người chết ở đó được thỉ thêm một cân lòng trâu. Thế thôi. Không còn biết gì hơn nữa.
Nhưng Khu A, Khu B, Khu C thì có tù nhân biết rõ vì đã lần lượt bị giam ở ở cả ba khu này.
Khu A thì (tính đến 1967) chết gần hết chỉ còn tù nhân Kiều Duy Vịnh và Trần Huy Liệu người Cầu Giát, Quỳnh Lưu. Khu B thì chết ít hơn, Khu C thì phần lớn còn sống trở về.
Đấy là chỉ tính từ thập kỷ 70 trở về sau. Còn 72 người tù đầu tiên lên trại Cổng Trời năm 1960 thì vào khoảng năm 1997, tù nhân họ Kiều chỉ còn gặp lại một mình Nguyễ¬n Hữu Đang, người bị kết án là cầm đầu Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm mà thôi. Như thế là trong số 70 người tù kia chẳng còn ai cả.
Coi sóc cả ba khu là một Phó Giám Thị, tù nhân họ Kiều không còn nhớ tên, chỉ nhớ tên đó là xuất thân ở Đức Thọ, Hà Tĩnh cùng quê với cố Hoàng (có hai con trai sinh đôi là Song, Toàn).
Người ta thấy Phó Giám thị như một Quỷ Sứ Đen Đủi hiện hình, lác bạch như mắt này chửi mắt kia, mồm méo sệch. Vì thân tàn ma rại như thế mà bọn Công Sản mới dùng vào việc này bất nhân này. Lúc nào hắn cũng lừ đừ, lầm lủi như ma hiện hình, chợt đến, chợt đi, như muốn rình mò chộp giựt một cái gì đó. Hắn nhìn ai cũng thể như trợn trừng như muốn ăn sống nuốt tươi người ta. Cố Hoàng bảo: "Tôi biết hắn lắm mà. Hắn giết nhiều người lắm đó." Tuy đồng hương, nhưng hắn không hé răng với cố Hoàng bao giờ cả.
Một Mẩu Sinh Hoạt Trong Nhà Lao: “Nhất Nhật Tại Tù, Thiên Thu Tại Ngoại” Quỷ mắt lác chợt đến, đâm xông vào buồng, sộc vào tận ngóc ngách nhìn soi mói, sờ nắn nếu có gì nghi ngờ, có thể chui ngay xuống gầm sàn nằm, để móc ra một cái gì đó.
Có một lần khi mới lên, tù nhân Trần Huy Liệu thấy hắn vào buồng bèn thắc mắc:
"... Thưa ông."
"Gì?"
"Ăn uống ở đây kém quá, ông cho biết tiêu chuẩn của chúng tôi được như thế nào?"
"Cái gì. Tiêu chuẩn à. Các anh không có tiêu chuẩn gì hết. Cho thế nào ăn thế."
Xong,Phó Giám Thị đi tiếp. Đến lượt Chánh Giám Thị Vũ Đình Nhân nói về số phận của tù nhân. Thế là mọi sự đều đã rõ rang, các tù nhân đành cam chịu.
Mỗi Khu có chế độ đối xử riêng:
Khu A: Hưởng đồng loạt: 12 Kg sắn cộng gạo một tháng, được ngồi chơi trong buồng giam không phải làm gì cả. Cứ ở trong kiên giam suốt ngày đêm. Không được viết thư, không được nhận thư, không sách, không báo, không một mẩu giấy, không một cái bút.
Khu B: Ăn 13 kg 5 đến 15 Kg sắn cộng gạo một tháng. Được ra ngoài hè nhà đan lát, chẻ tăm làm việc vặt. Sáu tháng được viết thư một lần và được nhận thư.
Khu C: Ăn 15 Kg đến 18 Kg sắn cộng gạo một tháng. Được lao động ở sân trại: đánh đá xây trại, xây nhà, thợ mộc thợ nề biết gì làm nấy. Ba tháng viết thư một lần. Được mua thêm sắn, khoai, rong diềng, thịt trâu ăn thêm. Được coi là những tù nhân có phần nào đã chịu cải tạo. Được đối xử khá hơn Khu A và Khu B, tuy vẫn ở trong bốn tường rào và vẫn chịu sự kiểm soát ngặt nghèo.
Nhưng tất cả đều không được gặp người nhà và không được nhận tiếp tế, thăm nuôi.
Theo tù nhân họ Kiều đã nói ở trên: Khu C có một lần được mua sắn về luộc ăn. Say sắn chết mất năm người.
Đầu năm 1965 thì tù nhân họ Kiều được sang Khu C và đến năm 1965 thì anh được về suôi tại Phú Sơn 4, Thái Nguyên.
Ngày Tết Nhâm Dần 1961 tại Cổng Trời Với cái Tết đầu tiên ở Cổng Trời năm Nhâm Dần 1961, anh được hưởng một cái Tết đặc biệt nhất trong đời anh.
Tết ở Các Trại Dưới. (Trại Ngọc, Yên Bái; trại Da Thịnh, Tuyên Quang; Phong Quang, Lao Kay; Tân Lập, Phú Thọ; Tân Sơn, Lạng Sơn; và Vĩnh Quang, Vĩnh Phúc... )
Cứ lúc đói là anh Trần Huy Liệu nói chuyện với tù nhân họ Kiều về Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An, quê anh về thịt trâu, thịt bò, thịt me (bê), thịt lợn, thịt nghé rồi cá chim, cá thu, cá ngừ, cá dưa, cá cơm, cá cháo. Đời tù vui đáo để là thế mà cũng buồn đến não lòng.
Đầu óc anh thật đơn giản nhưng vô cùng tốt lành. Có lần đứng ở cửa sổ nhìn ra sân trại, anh quay lại bảo với tù họ Kiều: "Chiều nay ăn 'chốc tru'."
Tù họ Kiều ngớ người ra không hiểu, anh nhắc lại: "Chốc" là đầu, "tru" là trâu: đầu trâu.
Anh rất méo mó nghề nghiệp, giảng cho tù họ Kiều biết: "Đừng tưởng 'chốc tru' là toàn xương đâu. Khối thịt ra đấy. Bỏ sừng đi. Còn lại hai phần ba là thịt đấy."
Tù họ Kiều bảo: "Hai phần ba là xương thì có."
Anh cãi: "Cậu đếch biết gì, này lưỡi này tai, này mồm này má, này óc; xương không bao nhiêu đâu."
Và anh nói đúng sự thật, vừ nói xong vừa nuốt nước bọt làm tù họ Kiều thèm lây.
Những tháng rét, các tù nhân ăn sắn độn cơm và ăn lá bắp cải già nấu muối. Tiếu chuẩn nói là 12 kg sắn gạo, nhưng có lẽ chỉ còn độ 9, 10 kg thôi. Tù nhân đi lĩnh gạo ở mậu dịch về làm gì có cân đủ. Về để ở kho, lũ chuột bọ lại xơi hao hụt đi. Ban quản lý trại phân phát cho nhà bếp còn độ 10 kg. Nhà bếp còn giữ lại cháy để nuôi lợn nữa.
Lá bắp cải già đen, nấu trong chảo, hòa thêm muối khiến nước đen sì có vị nồng. Người ngoài trông không dám ăn, nhưng tù nhân ăn ngon lắm. Tù nhân ước mong nhà bếp cho đủ mặn thì tốt quá. Nhưng muối ăn cũng bị hạn chế. Tù nhân thường đổ thêm nước vào canh để cho đồ ăn có vẻ được nhiều hơn.
Và ai húp hết canh rồi, thì mới ăn đến cơm. Những lúc đó tù nhân họ Kiều cứ nghĩ lẩn thẩn, tại sao ở ngoài đời lại phải ăn cơm với thức ăn! Cơm không cũng đã ngon lắm, thế thì cần gì phải có thêm thức ăn nữa.
Cơm ăn nhà bếp đem lên nhà tù rất ít khi còn nóng. Từ nhà bếp lên đến buồng giam, thường người mang cơm phải mất thời gian khoảng hai tiếng đồng hồ. Cơm để trong chảo, rồi xúc ra đổ ra thùng. Sau đó,còn phải cân lại. Cân xong, gánh để ở sân trại. Hôm nào mưa thì để ở hè. Hôm trời rét, cơm canh nguội rất nhanh. Quản Giáo trực lúc đó mới mở cửa từng khu mộ, cho tù nhân ra lấy cơm theo thứ tự.
Khu C trước, rồi Khu B, rồi sau cùng mới đến Khu A. Đến lượt tới Khu A, thì cơm đã nguội ngắt. Đem vào buồng lại phải dằm nát ra để chia đều, cho công bằng. Chia bằng cân tiểu ly tự tạo từng xuất một. Thế là nguội lạnh hết cả. Ăn cơm xong coi như không ăn. Vì ăn vào lại thấy rét thêm. Dường như cơ thể phải tỏa ra năng lượng để hâm nóng cơm canh cho cân bằng với thân nhiệt.
Tù nhân thường phải khoác chăn vào mà ăn, nhưng ăn xong vẫn thấy rét. Đói và rét thường song hành với nhau. Người xưa thường nói: “Cơ hàn thiết thân” là thế. Trong những lúc đói rét đó, tù nhân rất mong Tết đến.
Dù sao chăng nữa, Tết trong các trại tù dưới, bao giờ cũng có bánh chưng. Có khi nhà bếp còn phân phát cả kẹo bánh nữa. Tuy chẳng là bao, nhưng cũng gọi là có thêm. Cũng như bao nhiêu người, mà tù nhân họ Kiều cũng mong Tết đến lắm. Anh thấy thòm thèm một viên kẹo bột dỗ trẻ, như lúc còn thơ ấu.
Tết đến may ra các tù nhân được một bữa no, lại có thêm tí đường. Những ngày lễ Lao Động 1-5, Quốc Khánh 2-9, tù nhân có được ăn thịt trâu, bò, hoặc lợn. Tù hình sự gọi thịt là "mều." Phần ăn có dăm ba miếng thịt, lại thêm mấy miếng lòng, thế là đời tươi rồi.
Tưởng tượng đến những ngày ấy, anh thấy bụng mình đã hơi lưng lửng. Mỗi lần đến Tết, nguyên bữa ăn có cơm, canh, thịt và miếng bánh chưng là anh thấy gần no rồi.
Anh thường luôn nghĩ đến câu:
"Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết."
Anh dồn cả bánh chưng phát chiều 30 Tết, và tất cả kẹo bánh dành cho sáng mồng một. Ăn vội hết cơm canh thịt xong, anh mới bóc xơi cái bánh chưng. Rồi ngoạm hết cái bánh chưng, anh mới tráng miệng nốt chỗ kẹo bánh, liền một lượt. Anh vươn vai đứng dậy, kể như là hết Tết.
Ở các trại dưới, chỉ có hai ngày Tết, chứ không có ba. Vì sáng mồng ba Tết, các tù nhân đã phải đi làm rồi. Đúng là lao động là vinh quang, tay làm hàm nhai, vì “nhàn cư vi bất thiện”.Trong tù, Tết bắt đầu từ chiều 30. Bữa ăn chiều 30 Tết bao giờ cũng có món lòng trâu, lòng lợn, thêm tí thịt thủ, tý mỡ vào canh lá bắp cải già. Vì buồi sáng 30 Tết, trại bận làm thịt lợn, thịt trâu cho Ban Giám Thị, Ban Chỉ Huy bộ đội kịp gói bánh chưng.
Bữa sáng mồng một Tết, tù nhân được ăn thịt hẳn hoi. Chiều lại ăn cơm rau như thường. Sáng ngày mồng hai,tù nhân còn được ăn một bữa thịt nữa. Chiều mồng hai lại ăn rau có thêm nước luộc thịt. Thế là thường tù nhân nào ăn xong, vẫn thấy còn đói.
Tết ở Cổng Trời Năm Nhâm Dần 1961... Ở Cổng Trời, khií hậu một năm có hai mùa: Mùa nóng bắt đầu từ đầu tháng Năm; mùa rét từ đầu tháng Chín. Thường mùa nóng ngắn hơn hơn mùa rét. Gọi là nóng, nhưng đêm vẫn phải đắp chăn, vì khí lạnh từ núi đá và tường đất tỏa ra.
Tù nhân Nguyễ¬n Hữu Đang sáu tháng tắm một lần. Anh bảo: "Có ai chết vì không tắm đâu. Cậu xem đấy những anh nghiện thuốc phiện cả đời có tắm bao giờ đâu, chả sao hết."
Anh Đang nói chắc nịch, đúng như đinh đóng cột. Những lúc đói rét, cơ hàn thiết thân, tù nhân mới thấm câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Đã đói, làm sao mà sạch được! Thấy đói rét, chỉ mới nhúng tay vào nước, ai cũng còn ngại, còn nói gì đến tắm. Đã rách rưới, mà còn muốn thơm. thật là oái ăm, người xưa thật quá khe khắt với thế hệ con cháu.
Tù nhân họ Kiều nửa tháng không dám rửa chân. Vì nếu rửa chân thì cái lạnh cứ dai dẳng bám lấy đôi bàn chân, dường như mấy ngày không ấm lại được. Cả ngày đêm, lúc nào, tù nhân cũng ngồi co ro trên sàn gỗ, có đi đến đâu mà bẩn, phải rửa! Thậm chí, Trần Huy Liệu cả thàng trời không đánh răng rửa mặt. Mắt anh ta đầy dữ, và mồm vêu ra đầy bựa, thật hôi hám.
Chiều 30 Tết hôm ấy,trời rét cắt da, cắt ruột, cắt thịt. Bầu trời ảm đạm xám xịt, chăng đầy mây. Trại tù im ắng như chết. Tù nhân họ Kiều đứng ở cửa sổ, nhìn qua song gỗ lim, thấy Nguyễ¬n Hữu Đang đứng ở sân trại nói với Phó Giám thị trại Quỷ Sứ người Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Anh lắng nghe lõm bõm:
"Thưa ông, theo tục lệ cổ truyền của Việt Nam thì đến chiều 30 Tết, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng gia tiê, và ở các trại dưới tù cũng đều được cải thiện ăn thêm... Mong rằng ông cũng cho anh em chúng tôi..."
Nhưng có tiếng quát cao giọng ngắt lời Nguyễn Hữu Đang.
"Không có gì cho các anh cả. Biết chưa. Cấm không được đòi hỏi, yêu sách lôi thôi gì... Cho thế nào ăn thế..."
Rồi Quỷ Sứ quay ngoắt ra cổng trại. Chiều 30 Tết năm ấy vẫn lá bắp cải già nấu muối đen sì. Không hơn, không kém, mà vẫn như mọi ngày khác!.
Tết Trong Tù Vẫn có thơThơ gắn liền với bàn tính người Việt Nam. Ở trong tù, thơ là một thú tiêu khiển của những người tù.
Hai ngày Tết trôi qua. Đến sáng ngày mồng ba, Cố Hoàng, một tù nhân có nhiều thâm niên, làm một bài thơ vịnh cái Tết đó, rồi đọc cho tù nhân nghe.
Thơ rằng:
Tết đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều 30 Tết vẫn ăn chay
Bánh chưng mong đợi thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán nhìn cơm sắn
Khốn nạn thân tôi đến thế này...
Anh vốn ghét những người làm thơ không hay. Thế nhưng, những người làm thơ không hay, lại rất hay làm thơ. Và đã làm thơ thì thế nào cũng níu kéo chia sẻ với một người nào đó để đọc cho nghe. Anh khổ sở vì phải nghe những bài thơ đó. Hồi nhỏ, anh thấy thầy anh ngồi cùng các vị túc nho hay chữ, lúc trà dư tửu hậu có người lên tiếng đùa cợt nói:
"Ai mà nói dối, thì ăn câu đối cụ Nghè Bản"
Mọi người cười ầm lên.
Anh không rõ cụ Nghè Bản là ai và ở đâu. Nhưng suy ra chắc là câu đối của cụ thối lắm nên mới có câu nói cửa miệng đó.
Nó cũng như câu nói của Trạng thơ Cao Bá Quát:
"Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An."
Đến giờ đây, ở đâu ai cũng làm thơ, thơ hay đến không ngửi được cũng đăng báo, xuất bản thành tập làm khổ người xem, người đọc.
Hình như ở đất nước này, ai ai cũng thích làm thơ. Ngay anh, một người Việt Nam chân chính, anh cũng mắc cái tật ưa làm thơ như ai. Nhưng vì anh là con nhà binh, nên làm thơ chỉ đạt đến trình độ của mấy ông quan võ ngày xưa mà thôi. Nghĩa là:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đấy
Hoặc:
Chẳng phải voi cũng chẳng phải trâu
Ấy là con chó cắn gâu gâu
Rồi anh đọc cho cố Hoàng nghe. Cố sổ toẹt toàn bộ thơ của anh, bảo chẳng ra làm sao cả. Cố nói chỉ có mỗi một câu nghe được là câu:
Ngũ Tử Tư, Ngũ Tử Tư,
Tấm thân chìm nổi đến bao giờ
Cố Hoàng rất hay làm thơ và cũng ngâm lại cho anh nghe. Giọng cố ngâm rất hay, cố lấy làm thích thú lắm. Ra cái điều tâm đắc. Nhưng cố hát còn hay hơn nữa. Cố hay hát lại bài ca tụng các Thánh tử vì đạo của Cha Vinh (địa phận Hà Nội).
Nếu không có mẹ, ở nơi lưu đày...
Xin Mẹ hãy nghe lời con kêu van, khấn cầu đau đớn
và...
Dù gươm chém hay đầu rơi
Lòng vàng đá không hề phai...
Làm cho tù nhân họ Kiều thuộc đến tận bây giờ.
Và cũng như bài thơ Tết Nhâm Dần ở trên, cố cứ ngâm nga mãi, tuy rằng bài thơ không hay, nhưng nó lột tả được toàn bộ sự thật đau xót khốn khổ của cái Tết tù năm đó. Vì không có bài thứ hai, nên anh mạn phép chép lại, các vị cũng lượng thứ cho. Vì cái Tết của tù nhân đúng như vậy đó. Chỉ được ăn một bữa, bữa trưa ngày mồng một Tết thôi. Mà đói vàng mắt ra, vì mãi đến tận một giờ chiều mới được ăn.
Mọi ngày tù nhân ăn khoảng từ 8 đến 9 giờ sáng. Riêng ngày mồng một Tết, các quan còn bận ăn Tết nên không xuống mở cửa sớm. Mãi đến 10 giờ sáng mới xông đất mở cửa nhà bếp. Thế có nghĩa là ba tiếng đồng hồ sau, một giờ chiều tù nhân mới được ăn cơm sáng.
Mười giờ sáng, mở cửa, phát cho mỗi người hai cái kẹo. Lại đóng ngay cửa lại. Sau khi tù khênh cứt đái ra ngoài đổ, tù nhân lại vào buồng ngồi chờ cơm. Trong khi chờ đợi, thì thưởng thức hai cái kẹo ăn dỗ trẻ con. Cả lũ tù phải nhịn đói đến một giờ chiều. Đúng như lời trong thơ tả:
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Và ba miếng thịt lớn bằng ba đốt ngón tay, và, của đáng tội, còn được thêm mấy miếng lòng nữa mà cố Hoàng không chép nhét vào trong bài Thơ Đường đó được.
Bài thơ không được hoàn chỉnh lắm và có thể thất niêm thất luật. Nhưng nó đúng, đúng với sự thật đau xót. Tết vẫn ăn cơm độn sắn, đắng ngắt. Nhưng cái kết không có hậu. Khốn nạn thân anh đến thế này thì thật là mệt quá.
Riêng anh, anh vẫn muốn có một happy end, vẫn muốn có Tiên Điền Nguyễn Du vớt nàng Kiều ở sông Tiền đường lên cho tái hồi Kim Trọng, anh vẫn muốn sống và trở về tự do, về nhà cùng mẹ và vợ con anh, nên anh mạn phép cố Hoàng cho anh sửa lại câu cuối. Cố bảo thì sửa đi. Anh sửa thành:
"Ước đến sang năm khác thế này."
Cố gật đầu bảo: "Thôi cũng được."
Thế là bài thơ đó như sau:
Tết đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều ba mươi Tết vẫn ăn chay
Bánh chưng mong đợi thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán nhìn cơm sắn
Ước đến sang năm khác thế này.
Có thể là vì câu thơ cuối, mà cố Hoàng thì nằm lì chôn thân nơi đó, còn tù nhân họ Kiều may mắn trở về để viết lại câu chuyện này hôm nay.
Bài Anh Hùng Ca Tử Đạo Của Nhiều Tù Nhân Tín HữuKhung cảnh một trại tù Cổng Trời như thế đã là nơi sinh sống muôn thuở của nhưng tù nhân như Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Dúng là Cổng Trời là nơi đã đón tiếp biết bao anh hàng liệt sĩ Công giáo về cõi Vinh Phúc. Không có đau khổ vì đức tin kiêu hùng trung kiên, người tín hữu không thể vào chốn vinh quang muôn đới.
Cùng với nhiều tù nhân chia sẻ cùng số phận, nhiều tù nhân, cùng đức tin cũng như ngoài đức tin Công giáo, kể cả kẻ đã bách hại ngài, đã cùng nghe Ca Đoàn tù nhân đau khổ luôn reo ca bài hát Vết Tử Hùng’ của Văn Thi và Tâm Bảo vì đức tin Kitô. Linh mục, tu sĩ, trùm trưởng,… đã anh hùng bất khuất bạo lực, noi gương các thánh tử đạo, noi gương đức Kitô trên đường Thánh Giá
Bài hát đó trở thành bài thánh ca nuôi dưỡng lòng trong kiên, chuẩn bị đưa Linh Mục Nguyễn Văn Vình cùng với bao con người đau khổ nhưng anh hung, vào Nước Trời Vĩnh Cữu. Xứng đáng thay, một linh mục tử đạo kiêu hùng giữa Ca Đoàn Tù Nhân Tử Đạo, hát vang tiếng ca Vết Tử Hùng:
Điệp khúc:
Kìa Ai còn lưu tiếng Thiên Thu
Cương quyết vì Đạo Chúa hiến thân
Lời ai hòa trong gió âm u
Máu ai còn tiếng vang xa gần
Dù Kiếm Sắc Cần chi
Dù gong mang xá gì
Treo gương cho khắp thế soi chung
Trong đau thương chí khí anh hung
Lòng vàng đá không hề chi
Rầy cùng Chúa được vinh phúc trên Cõi TrờiCâu riêng
1. Càng nung nấu nhiều, vàng thêm trong thêm sang tươi.
Gươm giáo kia ai hay chứng lòng sắt son.
Càng đau đớn nhiều càng thêm hoa trên đường mới
Dắt lên chốn Trời cao còn hạnh phúc nào hơn
2. Đời bao tháng ngày lòng cao siêu không vướng chi.
Sung sướng như mây bay dóng đới tối tăm.
Tìm nơi phúc thật hiền nhân xưa kia bền chí
Bước cay đắng trần gian: đường vinh phúc ngàn năm
3. Lòng tin Chúa Trời tình thân yêu khăng khít liên.
Trong gió mưa tân toan vững niềm kính tin
Còn thêm suối lành đoàn hậu sinh nay tìm đến
Dám dâng các tiến nhân lời tha thiết cầu xinCậu chủng sinh họ Đỗ đã bao lần nức lòng khi đồng ca bài hùng ca bất diệt đó với các bạn hữu, củng cố thêm niềm tin sắt son vào Ơn Trên giữa những cơn đau khổ triền miên trong dòng đời, phương chi người đó là Kitô hữu. “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vinh quang!”
Một Kết Luận: Chuyện Hậu Sự Của Người Dương Thế |
| Đức Cha Oanh giám mục Kontum dâng thánh lễ tại Ngọc Lũ |
Hồi 19h30 ngày 12.10.2007 sau khi bế mạc Đại Hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, giám mục Hoàng Đức Oanh, Giáo Phận Kontum, với tư cách nghĩa tử của cha chính Vinh, đã rời Toà Giám Mục Hànội về Giáo Xứ Ngọc Lũ (Hà Nam) cách Hà nội hơn 90 km. Ngọc Lũ là quê hương của cha chính Vinh, nơi lưu giữ di cốt của cha chính Vinh sau khi cải táng.
Hồi 4h30 sáng 13.10.2007 Thánh Lễ đồng tế do Hoàng Đức Oanh Giám Mục Kontum, và linh mục thư ký cử hành tại nhà thờ Ngọc Lũ
|
| Di cốt Cha Chính Vinh tại Nhà Thờ Ngọc Lũ, Nam Định |
Một chút di cốt ít ỏi, các mảnh vải áo cha mặc khi chôn cất nay may mắn còn sót lại, một ít mùn đất nghi rằng do xương của cha mục nát tan ra.... Tất cả được thu gom trong các túi nhỏ đặt trong một quan tài bằng kính, được đặt và tôn kính tại gầm bàn thờ bên trái của nhà thờ Giáo Xứ Ngọc Lũ.
Hồi 4h30 sáng 13.10.2007 Thánh Lễ đồng tế do Giám Mục Kontum, và linh mục thư ký cử hành tại nhà thờ Ngọc Lũ để cầu nguyện cho cha chính Vinh và các người đã qua đời của Giáo Xứ Ngọc Lũ. Sau Thánh Lễ Giám Mục đến thăm mảnh đất hơn 07 sào, xưa là nhà của ông bà thân sinh cha chính, năm 1993 đã được bán lại cho một gia đình khác (cũng là người công giáo).
|
| Giám Mục Nghĩa Tử Chủ Tế và người thu hồi di cốt cha Vinh |
Anh Phạm Văn Lý, người thông báo những giòng chữ này với một số hình ảnh về buổi lễ đó với một nhúm tro cốt, cùng mọi người có mặt hôm ấy, đều vô cùng bàng hoàng và cảm động, khi quì trước di cốt cha chính..., vị tử đạo khả kính của cộng đồng Dân Chúa Hà Nội cách riêng và của toàn thể giáo Hội Việt Nam nóì chung.
Hãy cầu nguyện và tha thứ cho những kẻ lầm chẳng biết, dù chúng cố ý hành hạ làm khốn người vô tội nhưng một lòng son sắt với đức tin Kitô giáo.
Xin Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Phù Hộ Cho Đoàn Con Đất Việt!
Một Số Tài Liệu Tham KhảoTư liệu đặc biệt:
Huynh Hà, Đặc San Huynh Hà. Viết Về Địa Phận Hà Nội. Sàigòn, 2/7/1971, 100t., 21x32cm
Huynh Hà, Kỷ Yếu Huynh Hà. Uống Nước Nhớ Nguồn. HCM, 1996, 224t, 14x21cm.
Huynh Há, Kỷ Yếu Huynh Hà.Tìm Về Cội Nguồn. HCM, 1997. 446t +74t (phụ), 14.5x21cm, nhất là các trang 300-301. Ngân Khánh 7 LM gốc TGP Hà Nội, trong đó có LM Hoàng Đức Oanh.
Bạn Đường, Kỷ Niệm Ba Mươi Năm Bạn Đường (1960-90). Kỷ Niệm Hai Mươi Lăm Năm Giám Mục của GM. Nguyễn Văn Hòa (58 năm Bạn Đường sống bên nhau. HCM, 29.04.2000, 362t, A4, font 14
Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Philadelphia. Đặc San Kỷ niệm 25 năm (1975-2000). [Tám Cộng Đoàn].Hoa Kỳ, 19/11/2000 Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam (1719 Morris St., Philadelphia, PA. 19145. Tel: 215-755-8369), 184tt., 15x25cm
Huynh Hà, Về Nguồn Huynh Hà. HCM, 4/8/2002, 58t., 14x21cm.
Mậu Hải Chúa Gọi. Hồi Ký. Kỷ niệm 50 năm linh mục và thương thọ bát tuần LM Inhaxiô Mai Xuân Hậu 30/5/2003. Không đề nơi ấn hành, vi tính, 97 trang,15x25cm
Bạn Đường, Kỷ Yếu Kim Khánh Bạn Đường (Giáo Phận Hà Nội), 1953-2003. Sài Gòn, 2004, 329t., A4, in rônêô, font 14. Kỷ Niệm I. Viết về Tràng Tập Hà Nội, II. Hoàng Nguyên Phú Xuyên Hà Đông, III. Piô XII Hà Nội. IV.Thăm Miền Tây II. V.Xây Dựng Nhà Thờ Trung Hải. VI. Sinh hoạt Bạn Đường
Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội: Kỷ Yếu Hà Nội 2004. Mười Lăm Năm Thành Lập Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội Nam California (1988-2003). USA, NV printing (7775 Westminster Ave., Wesminster, CA 92683), 340tr, A5.
Hồng Nhuệ (Nguyễn Khắc Xuyên), Lược Sử Địa Phận Hà Nội, 1626-1954. Lời tựa, ghi ở Paris ngày 2/9/1994. Lưu hành nội bộ, 576t, 20x29cm + 168t. Ảnh và tư liệu. Nha Trang, 4/3/1999. xviii-628t., 20x29cm
Bùi Đức Sinh: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Quyển I.-(1430-1833). USA, CA [Profess Printing Inc., San Jose, California], 2001, in lần 3, 513t, 15x25cm
Quyển II. – (1820-1911). USA, CA, in lần 3, 2001, 619t, 15x25cm.
Quyển III. – (1900-1975). USA, CA, in lần 3, 2001, 550t, 15x25cm
Nhiều tác giả. Ba Mươi Năm Công Giáo Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản 1975-2005. 8.2005, NS Diễn Dàn Giáo Dân & Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại Cơ Sở Dức Quốc, Mỹ và Âu Châu ấn hành, 649t, 16x27cm
Văn Phòng TTK HĐGMVN Giáo Hội CGVN: Niên Giám 2004 (Năm Thánh Truyền Giáo). Nhà XB Tôn Giáo (Nhà In Trần Phú, I HCM), Hà Nội, 2004, 960t, 15x21.5
Văn Phòng TTK H ĐGMVN Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Niên Giám 2005. NXB Tôn Giáo, In lần II, Nhà In Trần Phú, 71-75 Hai Bà Trưng, Quận I, Tp HCM), Hà Nội 2005, 965 trang.
Một Số Websites, Emails Khác:
- Notice biographique du missionnaire Dépaulis au Tonkin, http://archivesmep.mepasie.org/recherche/notices.php?numero=2576&nom;=
- Notice nécrologique du missionnaire Dépaulis au Tonkin, http://archivesmep.mepasie.org/recherche/notices_necro.php?numero=2576&nom;=DEPAULIS
Toàn Văn Sắc Lệnh 234 về tôn giáo tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 14/6/1955 do Hồ Chí Minh ký và ban hành
http://vbqppl.moj.gov.vn/law/vi/1951_to_1960/1955/195506/195506140001/view
- Tran Minh Tien [email protected]; Tài liệu 7:29 am (39 minutes ago to"GM. Tran Xuan Tieu" Oct 16, 2007 7:29 Fw: CHA CHÍNH VINH AM.
- Trong số bốn vị trên, Lm Vịnh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù,... .. 11. Bá cáo của Nguyễn Đình Đầu viết về Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. www.vnfa.com/anews/0710_093.html - 61k - Cached - Similar pages - Note this
- Hãy nhìn mấy cha thầy ẩn tu ở Thiên An mới bị tịch thâu trên 100 mẫu đất... Lạng quạng là có chầu đi nghỉ mát ở trại Cổng Trời như cha Nguyễn Hữu Lễ ngay.... www.longtien.org/httpdocs/cxphuchung/files/chauvehpho.html - 15k - Cached - Similar pages - Note this
- Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng (Cởi Trồng = Cổng Trời)... . Và cũng lắm lúc chính cha ông chúng nó đã bị đàn anh Trung Cộng hống hách, bắt nạt,...
www.ausviet.net/readessay.asp?Title=forum/nnguyen/20080125100004.txt - 45k - Cached - Similar pages - Note this
- Việt Thường: Ghi nhớ về lễ noel hà-nội. ĐOÀN TỤ...
NĂM 1954... ĐỂ CHIA LY HƠN. TỪ ĐẤU TỐ... ĐẾN VU CÁO NHỮNG NGƯỜI MỘ ĐẠO. VẾT DẦU LOANG. MÁU TƯỚI VÙNG CAO. NƯỚC MẮT VÙNG THẤP. NÔ-EN 69 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO.
Chính là từ cái năm 1968 này, các nhà thờ tự nhiên buổi lễ có đông con chiên. Họ đến để cầu nguyện cho con, em, chồng, cha...đã bị "sinh Bắc, tử Nam "....
www.vietthuongonline.com/mainarticles/ghinholenoelhanoi.htm - 66k - Cached - Similar pages - Note this
- Nguyễn Văn Lục: (NVL) Thưa anh Nguyễn Chí Thiện, xin nói thật,... . Tôi có bị giam ở trại tù Phong Quang, Lào cay và tôi đã gặp Vũ Thư Hiên trong vòng ba... phanthanh.multiply.com/reviews/item/74 - 44k - Cached - Similar pages - Note this
- Dữ nhất, theo họ, vẫn là Cổng Trời mà tôi đã nói tới ở trên.... .. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần......
www.quocuy.com/forum/viewtopic.php?p=1903&sid;=abeefb011df6615e9685ccfd08b48b45 - 70k - Cached - Similar pages - Note this
- Sợ lộ sẽ bị bắt tù, chỉ vì ông mắc tội yêu nước, dám chống đối nhà cầm quyền thực... . Hai cha con về đến nhà trời đã xế trưa, bà Biểu Cô, chị họ ông Woòng,...
vietbay.com/docs/haingoai_truyen1/nguyenthi_vinh1.html - 24k - Cached - Similar pages - Note this
- Ông "Cổng trời"
Lao Động số 83 Ngày 12/04/2007 Cập nhật: 9:37 PM, 11/04/2007. (LĐ) - Dân bản gọi già làng Và Phái Tểnh là ông "cổng trời" không chỉ bởi cái bản của ông "mọc" trên chót vót eo rừng quanh năm mù sương. Ông "cổng trời" còn có nghĩa - người đã mở ra một "cổng trời mới" biến "thủ phủ" ma tuý Mường Lống, một địa bàn di dịch cư phức tạp thành điểm sáng của huyện biên giới Kỳ Sơn (Nghệ An).
Bản ta ngày xưa là thung lũng ma tuý"
- (LĐ) - Dân bản gọi già làng Và Phái Tểnh là ông "cổng trời" không chỉ bởi cái... Còn khoảng thời gian từ 1975 về trước, ông là giáo viên dạy chữ Mông ở Tây...
www.laodong.com.vn/Home/phongsu/2007/4/31668.laodon - 56k - Cached - Similar pages - Note this
- Một thời gian ngắn trước khi cha Nguyễn Văn Lý bị bắt, VC đã tung ra rất nhiều... . trại giam ở miền Bắc. Trại Thanh Cẩm và nhất là trại Cổng Trời chắc chắn...
saigonxua.blog.ca/2007/03/04/on_ca_7889_truy_tan_pha_7843_i_cha_7871_~1847816 - Similar pages - Note this
- KIỀU DUY VĨNH: TẾT Ở TRẠI CỔNG TRỜI
Chỉ nhìn thấy Cha Vinh, Cha Quế vào đó và không thấy hai cha đó ra về nữa mà... Ở Cổng Trời một năm chia làm hai mùa: Mùa nóng b¡t đầu từ đầu tháng Năm;...
www.hungviet.org/ncct/kieuduyvinh_ct2.html - 21k - Cached - Similar pages - Note this
- K. Vĩnh TK21 #98, Tháng 6 1997: Hồi Ức Cuộc Tuyệt Thực Ở Trại Cổng Trời. 1/8 Âm lịch năm 1994
K. Vĩnh 2003-10-25 13:02:01
- Kiều Duy Vĩnh: Đức Thánh Tử Vì Đạo Thứ Hai Mà Tôi Được Gặp. Kiều Duy Vĩnh TK21 #100 Tháng 8 1997
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid;=6973
2003-10-25 12:48:03
- Trong số bốn vị trên, Lm Vịnh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù,... .. Bá cáo của Nguyễn Đình Đầu viết về Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình....
vietcatholic.net/News/Html/52570.htm - 46k - Cached - Similar pages - Note this
Oakland, CA Đỗ Hữu Nghiêm biên soạn xong ngày 17/4/2008.5. Ngày sinh nhật Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhân chuyến đến thăm Hoa Kỳ ngày thứ hai (15-20/4/2008) tại Washington D.C.
Đây là bản sơ thảo cần nhiều bổ sung chi tiết chính xác. Quý vị nào có những tư liệu liên hệ để hiệu chính, xin vui lòng cung cấp cho người biên soạn theo địa chỉ: email: [email protected]
Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm
VietCatholic News (Thứ Sáu 25/04/2008 06:43)
Sự Sống Lúc Bốn Tế Bào
Rome, 13 tháng Tư, 2008 (Zenit.org).-Linh Mục John Flynn, LC, dựa vào triết học để bênh vực sự sống con người ngay ở giai đoạn đầu hết của nó.
Việc nghiên cứu tế bào gốc bằng cách sử dụng vật liệu lấy từ phôi thai người vẫn tiếp tục được bàn cãi một cách gay cấn. Người ủng hộ việc dùng phôi thai cho rằng trong giai đoạn đầu hết của chúng, người ta không thể coi các tế bào ấy như một con người được. Tuy nhiên, một cuốn sách gần đây do hai triết gia viết lại biện luận ngược lại.
Robert P. George, cũng là thành viên của Uỷ Ban về Đạo Đức Sinh Học của Tổng Thống, và Christopher Tollesen, tránh các biện luận dựa trên tôn giáo và đưa ra một loạt các nguyên tắc khoa học và triết học để bênh vực tư cách người của phôi thai. Trong cuốn “Phôi Thai: Bênh Vực Sự Sống Con Người” (Embryo: A Defense of Human Life) (Doubleday), họ chủ trương rằng tư cách hữu thể nhân bản bắt đầu lúc được dựng thai.
Cuốn sách trên bắt đầu với việc thuật lại câu truyện một bé trai tên Noah, sinh tháng Giêng năm 2007. Cậu được cứu thoát, cùng với nhiều phôi thai đông đá khác, khỏi một thảm họa xẩy ra tại New Orleans năm 2005. George và Tollesen nhấn mạnh rằng ở đây, người ta quả đã cứu mạng sống của Noah, một mạng sống nhân bản, mạng sống mà sau đó đã được cấy vào một tử cung và sau đó được hạ sinh.
Họ nói tiếp, phôi thai người là thành viên sống động của giống người dù là trong giai đoạn đầu hết của phát triển. Nó không phải là một thứ gì đó thuộc cơ phận sinh vật hay một mớ những tế bào mà sau đó sẽ kinh qua một biến đổi căn để. Nếu không bị tai nạn đáng tiếc nào đó, thì hữu thể trong giai đoạn phôi thai kia sẽ phát triển qua giai đoạn bào thai và cứ thế tiến triển mãi.
Theo các tác giả này, vấn đề đặt ra là ở giai đoạn nào ta có thể nhận dạng ra một hệ thống sinh học đơn nhất đang phát triển để trở thành một con người nhân bản hoàn bị. Họ biện luận rằng giây phút quyết định ấy chính là lúc được dựng thai. Một số chuyên gia y khoa tin rằng nó xẩy ra trễ hơn một chút, với việc tạo thành các sắc nhiễm thể thống nhất giữa tinh trùng và trứng. George và Tollesen cho rằng dù gì mặc lòng, phần lớn các nhà phôi thai học hiện nay đều nhất trí rằng trễ nhất thì một cá thể nhân bản đã hiện hữu một khi cơ cấu nhiễm sắc thể đã thành hình.
Họ cho rằng ba điểm chủ yếu sau đây cần phải lưu tâm liên quan đến tư cách người của phôi thai:
-- Từ đầu, nó đã khác biệt với bất cứ tế bào nào của mẹ hay của cha.
-- nó đã có tính nhân bản ngay trong thành phần di truyền (genetic make-up) của nó.
-- Nó là một sinh vật đầy đủ, dù chưa cứng cáp (mature), và nếu được phòng ngừa khỏi bệnh tật hay bạo lực, nó sẽ phát triển qua giai đoạn cứng cáp hơn của một hữu thể nhân bản.
Do đó, hủy diệt phôi thai người, dù là ở giai đoạn đầu hết, để lấy các tế bào gốc mà nghiên cứu hay chữa trị y khoa là cấp giấy phép cho người ta sát hại một giai cấp hữu thể nhân bản để mưu ích cho các giai cấp khác.
Không Phải Chỉ Là Khoa Học
Đứng trước hoàn cảnh ấy, George và Tollesen bác bỏ chủ trương cho rằng nên để các khoa học gia một mình xác định phải làm gì trong các hoạt động nghiên cứu của họ. Hai tác giả này cho rằng vấn nạn trong vấn đề tế bào gốc phôi thai là nhịp bước của kỹ thuật đã đi trước cuộc thảo luận về bản chất và giá trị của phôi thai người.
Họ quả quyết rằng chống đối việc nghiên cứu ấy không đặt ta vào một thứ đối nghịch kiểu khoa học chống lại tôn giáo. Chống đối việc hủy diệt sự sống con người ngay trong giai đoạn đầu hết của nó không cần phải dựa vào các nguyên tắc tôn giáo hay phải tin rằng sự sống ấy đã được phú ban cho một linh hồn.
George và Tollesen cho rằng lý do thuần triết học đã đủ để hướng dẫn ta trong việc xác định điều được phép làm về phương diện đạo đức học đối với phôi thai người. Theo nghĩa này, bênh vực quyền của phôi thai cũng giống như bênh vực người ta chống lại các kỳ thị bất công.
Họ nhìn nhận rằng có nhiều nguyên tắc luân lý khác nhau. Một lý thuyết cần loại bỏ là chủ nghĩa duy hiệu quả (consequentialism), một chủ nghĩa dẫn tới chủ trương cho rằng có những hữu thể nhân bản cần được hy sinh vì lợi ích lớn hơn.
George và Tollesen xây dựng chủ trương đạo đức học của họ trên lý thuyết luật tự nhiên, là lý thuyết dẫn tới kết luận này là làm hại hay hủy diệt một thiện ích căn bản của con người là một điều sai lầm về luân lý. Bởi vậy, nếu một khoa học gia muốn tìm ra cách chữa trị cho một căn bệnh, mà phương pháp sử dụng lại cố ý hủy diệt một mạng sống con người, thì đó là điều không được phép.
Thực vậy, một trong các nhân quyền căn bản mà hầu hết các nhà chủ trương lý thuyết luật tự nhiên đều đồng ý là quyền người vô tội không bị sát hại hay làm cho què cụt một cách trực tiếp. Khả năng con người nhân bản biết lý luận và tự do chọn lựa đã làm chúng ta ra khác biệt và đem lại cho chúng ta một phẩm giá cao hơn bất cứ một sinh vật nào. Hai tác giả này kết luận: cho nên, tấn công vào sự sống con người là tấn công vào phẩm giá của họ, bất kể tuổi tác hay trạng thái phát triển của nạn nhân.
Nhân Vị
Một trong các chương của cuốn sách đề cập tới phản chứng cho rằng dù phôi thai có thể là nhân bản đi chăng nữa, nhưng dù sao nó vẫn không phải là một nhân vị và do đó không có cùng phẩm giá hay quyền lợi của một nhân vị. Hai tác giả trả lời rằng một cái nhìn như thế quả là lầm lỗi, vì nó rơi vào chỗ coi một số hữu thể nhân bản có giá trị thấp hơn các hữu thể nhân bán khác chỉ vì những đặc điểm tùy thể. Các tác giả cho rằng bác khước tư cách nhân vị dựa trên khả năng biết dùng các chức phận tâm lý hay các cơ năng khác sẽ tạo ra nhiều vấn nạn. Liệu ta có được phép giết các trẻ sơ sinh không vì chúng cũng đâu đã có khả năng thi hành các chức năng nhân bản căn bản?
Đúng hơn, ta nên hiểu rằng sự khác biệt định lượng về khả năng không phải là tiêu chuẩn đúng đắn để xác định ra quyền lợi, vì đó chỉ là khác biệt về mức độ. Sự khác biệt thực sự là giữa hữu thể nhân bản và các sinh vật khác không phải là con người. Đó mới là sự khác biệt về loại. Do đó, phôi thai là một người có tiềm năng trưởng thành, giống như các trẻ sơ sinh, các trẻ thơ và thiếu niên vậy.
Hai tác giả này nhấn mạnh thêm rằng các phôi thai đã là các hữu thể nhân bản rồi, chứ không phải chỉ là những tiềm thể nhân bản. Hơn nữa, quyền sống của con người nhân bản không thay đổi tùy theo các giai đoạn phát triển của họ vì đó là quyền nền tảng của mọi con người. “Nó là một quyền trên đó mọi quyền khác được xác nhận, và là dấu chỉ liệu một hữu thể có phải là một hữu thể có giá trị tinh thần hay không”.
Ngụy Biện
Một luận chứng có tính ngụy biện khác cho rằng phôi thai không đáng có giá trị tinh thần vì đa số không cấy được vào tử cung người mẹ hoặc tự động bị đầy ra ngoài. Hai tác giả này cho hay đây là một ngụy biện có tính duy tự nhiên, vì giả thiết rằng điều xẩy ra trong thiên nhiên đều hợp luân lý khi do hành động con người tạo ra. Sự lầm lẫn của lối suy luận đó cũng hiển nhiên khi ta chú ý đến hiện tượng này là theo lịch sử, tử xuất trẻ em vốn rất cao. Trong trạng huống ấy, nguyên việc nhiều trẻ sơ sinh chết yểu đâu có làm cho việc sát hại chúng để gây ích cho người khác trở thành hợp luân được.
Một lối suy nghĩ khác vốn được sử dụng để bênh vực cho việc dùng tế bào phôi thai để nghiên cứu là: hiện có hàng nhiều ngàn phôi thai đông đá không được ai ngó ngàng tới tiếp theo những cuộc điều trị thụ thai nhân tạo, và là những phôi thai không bao giờ có cơ may được cấy để phát triển cho thành người trưởng thành. Nên các khoa học gia có thể sử dụng các tế bào ấy cho việc nghiên cứu tốt lành.
George và Tollesen cho rằng rõ ràng là bất công khi yêu cầu một người, trong trường hợp này là chính phôi thai, phải hy sinh mạng sống mình theo kiểu này. Họ long trọng tuyên bố rằng: “Các hữu thể nhân bản có quyền tinh thần không bị sát hại một cách cố ý để mưu ích cho người khác”.
Quả là một sai lầm lớn khi đầy ải hàng trăm ngàn mạng sống nhân bản vào một thứ ‘lâm bô’ đông đá. Nên hai tác giả này cho hay ta phải chất vấn chính cái diễn trình tạo ra và đông đá các phôi thai trên.
Ta cần phải hướng chú ý của ta tới số phận các phôi thai ấy, nghĩa là không sử dụng các phôi thai này như thể chúng chỉ là các vật liệu sinh học, mà phải nhìn nhận nhân tính của chúng. Những luận chứng này và các luận chứng đầy thuyết phục khác của cuốn sách quả là đáng đọc ở một thời điểm trong đó khoa học đang có nguy cơ vuợt chạy trước suy tư đạo đức học của ta.
Vũ Văn An
VietCatholic News (Thứ Ba 29/04/2008 08:16)
Hà NỘI - Phóng viên AFP cho biết: hôm nay thứ Ba (29/04)ngọn đuốc Thế Vận Hội đi qua Thành Phố Sài Gòn, và có hai người biểu tình chống Trung Cộng đã bị bắt tại Hà Nội lúc họ phản đối Thế Vận Hội Bắc Kinh.
Ngoài khu chợ, hai thanh niên giơ băng biểu ngữ màu đen có dòng chữ « Bắc Kinh 2008 », trên biểu ngữ có vòng biểu tượng Thế Vận Hội dưới hình dạng vòng còng tay, họ đã bị bắt một cách nhanh chóng sau khi nhiều công an mặc đồng phục và công an dân sự tiếp cận.
Biểu ngữ này nhóm phóng viên không biên giới thường dùng, nhưng theo phát ngôn viên của tổ chức bảo vệ nhân quyền, hai người bị bắt không thuộc tổ chức nhóm phóng viên.
Cánh sát đã giải tán đám đông và yêu cầu nhóm phóng viên nước ngoài rời khỏi khu vực chợ Thanh Xuân nằm trong khu phố cổ Hà Nội.
Một phụ nữ cũng bị cảnh sát bắt tại Hà Nội.
Liên lac qua điện thoại, cảnh sát cho biết không có biết sự cố, cũng không bình luận về việc bắt bớ không xác nhận số quân đội bị đảng dân chủ Việt Tân tố cáo hôm thứ Ba.
Ngọn lửa Thế Vận Hội đến Việt Nam tối thứ Hai, ngọn đuốc sẽ diễn ra tại Thành Phố Sài Gòn bắt đầu từ 18h30 giờ địa phương ( 11h30 GMT) đặt dưới sự thắt chặt an ninh cao, trong khi đó đã có nhiều lời kêu gọi biểu tình ôn hoà chống Trung Cộng.
Sáng thứ Ba, chính quyền việt nam cộng sản triển khai nhiều cảnh sát ở trung tâm du lịch, thành phố, chính quyền rất bí mật về số lực lượng bảo vệ trật tự được huy động cho sự kiện rước đuốc này.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tố cáo sự đe doạ thường xuyên của « kẻ thù đich », từ này thường được dùng để ám chỉ những người ly khai dân chủ, luôn phá rối trật tự công cộng.
Những cuộc biểu tình hiếm khi thấy trong một đất nước cộng sản, độc đảng, nhưng từ tháng 12 năm ngoái luôn có những cuộc phản đối ở Hà Nội và Sài Gòn tố cáo chính sách Bắc Kinh về vấn đề chủ quyền hai hòn đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
(Nguồn: La Croix)
Đức Long
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/04/2008 08:42)
Thông Báo Ngày Hành Hương của các Sắc Tộc Á Châu và Thái Bình Dương lần Thứ Sáu
Năm nay Ngày Hành Hương của các Sắc Tộc Á Châu và Thái Bình Dương lần Thứ Sáu sẽ được tổ chức tại Vương Cung Thánh Đường Đức mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Hoa Thịnh Đốn, 400 Michigan Ave NE, Washington DC 20017, vào ngày Thứ Bẩy 3 tháng 5, 2008 từ 1 giờ đến 4 giờ chiều.
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng sẽ gởi phái đoàn tham dự. Chủ Tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, Linh Mục Giuse Nguyễn Thanh Liêm, tuần vừa qua đã đặc cử Linh Mục Nguyễn Đức Vượng, O.P,, đệ Nhất Phó chủ Tịch Liên Đoàn, làm Trưởng Phái Đoàn lần này.
Chúng tôi mời gọi mọi người cùng đi tham dự nếu có điều kiện, đặc biệt các Giáo Xứ và Cộng Đoàn trong Miền Trung Đông và các miền phụ cận.
Như mọi năm Cộng Đồng Việt Nam đại diện là Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Arlington, Virginia sẽ tham gia với các tiết mục sau đây:
1. Kiệu Đức Mẹ LaVang do Hội Các Bà Mẹ Công Giáo mặc áo dài đồng phục đảm trách.
2. Một màn Thánh Vũ của các em Thiếu Nhi Thánh Thể (Vietnamese Community - 8 phút)
3. 10 em Thiếu Nhi và TSC sẽ luân phiên đọc một chục kinh Mân Côi.
4. Thánh Lễ Đồng Tế Đại Trào.
a. 2 Giúp lễ: Tâm, Tuấn (back up Trung)
b. 2 người dâng của lễ (mặc áo dài): Hội Các Bà Mẹ
c. Các Cha đồng tế Việt Nam xin cho TSC biết để thông báo cho ban tổ chức lo áo lễ.
5. Trang hoàng cỗ kiệu Đức Mẹ LaVang: TSC
6. Đại diện tham dự các buổi họp với 14 sắc dân Á Châu và Thái Bình Dương là đoàn TSC (Hiệp, Christine, Trung, Thanh)
7. Quý hội đoàn hay cá nhân muốn tham dự ngày này xin ghi danh để giáo xứ chuẩn bị phương tiện di chuyển.
Xin liên lạc Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 915 S. Wakefield Street Arlington, VA 22204, điện thoại 703-553-0370.
Tưởng cũng nên biết, Linh Mục Chủ Tịch Liên Đoàn Giuse Nguyễn Thanh Liêm, sẽ tham gia Cuộc Họp Tham Vấn (Consultative Meeting) từ ngày 26-27 tháng 5, 2008 tại Redemptorist Renewal Center, Tucson, Arizona, do Tiểu Ban Á Châu và Thái Bình Dương trực thuộc Ủy Ban Sắc Dân Đa Văn Hóa của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tổ chức.
Đức Cha Oscar Azarcon Solis, Giám Mục Phụ Tá của TGP Los Angeles, và là Chủ Tịch Tiểu Ban sẽ chủ tọa. Tiểu Ban Á Châu và Thái Bình Dương là một trong năm Tiểu Ban của Ủy Ban Sắc Dân Đa Văn Hóa, vừa được Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tái phối trí và chính thức thành lập trong năm 2007 vừa qua.
Trong thành phần chủ tọa còn có Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá địa phận Orange. Đức Cha cũng là một trong các Cố Vấn của Ủy Ban này do Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đề cử. Cùng trong phái đoàn tham dự sẽ có Linh Mục Nguyễn Đức Vượng, O.P., đệ Nhất Phó Chủ Tịch Liên Đoàn.
Phiên họp sẽ nhìn lại những chương trình mục vụ cho người Á Châu và Thái Bình Dương hiện tại trên Hoa Kỳ, đưa ra những chương trình hoạt động, kết hợp cấp giáo phận, tìm phương thức liên lạc và làm việc chung giữa các Tiểu Ban, cũng như giữa các vị Tham Vấn Quốc Gia của các sắc tộc, đặc biệt sẽ nhắm tới việc tổ chức Đại Hội kỷ niệm 10 năm, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ ra tuyên ngôn 'Asian and Pacific Presence: Harmony in Faith' năm 2011.
Thành phần tham dự Cuộc Họp Tham Vấn là các vị Chủ Tịch của các Sắc Dân và Giám Đốc Mục Vụ về Á Châu và Thái Bình Dương của Giáo Phận.
Trước đó, từ ngày 23-25 tháng 5, 2008, vị Chủ Tịch Liên Đoàn sẽ tham dự một Seminar, 'Building rhe Foundations for Asian Ministry and Theology, hướng dẫn bởi Tiến Sĩ Jonathan Tan do Redemptorist Renewal Center đứng ra tổ chức.
Hy vọng rằng, với sự tiếp tục các nỗ lực tham gia các phiên họp, hội thảo, hay kết hợp làm việc chung trong các chương trình với các sắc dân khác do Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ chủ trương, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, sẽ là một nhịp cầu quan trọng để nối kết với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và các dân tộc khác, trong công cuộc quảng bá Đức Tin, tinh thần Sống Đạo của người Công Giáo Việt Nam trên đất nước Hoa Kỳ.
Đặng Văn Kiếm