29.4.2008
Xuân tóc đỏ
Với các vụ bắt bớ, gọi lên thẩm vấn, trục xuất… ở Việt Nam trong những ngày vừa qua, đuốc Olympic chắc sẽ được an toàn khi ghé qua Thành phố Hồ Chí Minh trong chặng rước cuối, trên đường về “sân nhà”. Ðây là cuộc hội thoại mà Xuân tóc đỏ [1] nghe lỏm được tuần trước: “Ðồng chí PA (18, 25…) [2] , hôm nay Bộ Nội vụ đã có lệnh hẳn hoi rồi! Vận mệnh cái xã hội này là ở tay chúng ta. Ðiều này là một sự bí mật ghê gớm phải giữ kín!” ”Thưa đồng chí A (18, 25…), xin đồng chí cứ dạy bảo.” ”Cái chính sách của Nhà nước bây giờ là không mập mờ gì nữa. Từ nay đến hôm đuốc đến, đồng chí phải tận tâm dò la và theo dõi những hạng văn nghệ sĩ quốc doanh nào vờ cổ động chính sách Mỹ Việt đề huề, Mỹ Việt thân thiện, hoà giải, khép lại quá khứ, xây dựng tương lai…” ”Bẩm... văn nghệ sĩ quốc doanh, Mỹ Việt thân thiện, mà cũng... dò xét?” “Chính thế! Bọn ấy mới thực là nguy hiểm cho trị an! Lúc khác thì không sao, nhưng lúc đuốc sang ra đây thì bọn ấy đáng đề phòng lắm, vì bọn họ muốn xén bớt quyền thế Thiên hành đạo của nước bạn Trung Hoa.” "Bẩm thế còn bọn bất đồng chính kiến thực sự?” “Cho ăn kẹo bọn ấy cũng không dám giở trò gì, vì xưa nay họ vẫn biết họ có tội. Vả lại, phần lớn ta đã bắt giam hoặc vô hiệu hoá, hoặc họ tự vô hiệu hoá nhau cả rồi, có còn ai đâu mà lo. Nhưng bọn văn nghệ sĩ quốc doanh thì lại khác, vì Chính phủ gần đây trót để cho họ hơi được tự do, cho nên bây giờ chỉ lo họ thừa cơ...” “Như vậy thì ngoài bọn bất đồng chính kiến thực sự, còn cứ việc... bắt ráo cả?” “Bắt ráo! Cần nhất là phải bắt những kẻ hô: ‘Việt Nam vạn tuế!’ và ‘Trường Sa – Hoàng Sa là của Việt Nam’, vì hai khẩu hiệu ấy xem chừng là xung đột với đuốc cả.” “Thế còn đối với những kẻ kêu ‘Trung Quốc vạn tuế’ thì có bắt hay không?” "Ấy thế mới chết đấy! Ðiều ấy tôi lại chưa hỏi kỹ ông Bộ trưởng... À, nhưng mà cần gì phải hỏi quan trên? Mình cứ việc bắt chứ, vì Trung Quốc vạn tuế thì lại xung đột với Việt Nam...” “Thưa đồng chí A (18, 25…), âu là ta làm thế này: Ðối với những kẻ nào đi đón đuốc mà đứng ngây mặt ra như tượng thì thôi, ta tha bắt cho; còn kẻ nào ra ý vui mừng mà hô khẩu hiệu, hoặc vạn tuế Trung Quốc, hoặc vạn tuế Việt Nam, hay Hoàng Sa - Trường Sa gì đó, thì ta cứ việc bắt giam cả một lượt!” “Chẳng biết có nên thế không?” “Nghĩ cho cùng kỳ lý ra, đằng nào thì họ cũng đều có tội cơ mà?” “Ðồng chí nói chí lý lắm. Ta sẽ cứ thế để trị an. Nhưng thôi, ta đừng nói nữa, hay là nói khẽ chứ, vì đó là những... điều bí mật của Chính phủ mà ta phải giữ cho thật kín.” Xuân tóc đỏ chỉ nghe lỏm được có thế. Ở bàn nhậu bên cạnh, từ đấy trở đi chỉ còn thấy tiếng đũa bát lạch cạch, vì hai người công an đã nhất định giữ kín những bí mật đã hở… [1]Vũ Trọng Phụng, Số đỏ. Chương 18, “… Xuân tóc đỏ dò xét sở liêm phóng…” [2]PA: công an cấp thành phố; A: cấp bộ. 18 phụ trách xuất nhập cảnh; 25 phụ trách văn hoá…
29.4.2008
Đặng Tiến
Giải hoặc Cảm ơn anh Hòa Nguyễn đã quan tâm đến những bài viết của tôi, đã đọc kỹ bài về Đỗ Kh. Tôi trả lời với tất cả sự nghiêm chỉnh. Chữ "giải hoặc", tôi dùng theo nghĩa: giải thoát tư duy ra khỏi huyễn hoặc của huyền thoại. Từ này thông dụng ở miền Nam trước 1975. Nguyễn Văn Trung ưa dùng, có lẽ do chính ông đặt ra để dịch chữ démystification, cũng như ông dùng từ "giải thực" để dịch décolonisation. Từ "giải hoặc", ngoài ý nghĩa nghiêm chỉnh như trên, còn có khi đuợc dùng để đùa vui: "giải hoặc rồi" có nghĩa "sáng mắt ra rồi"; dường như trong kịch vui Ngộ nhận, mà tác giả Vũ Khắc Khoan gọi là "lộng ngôn", ông có dùng theo nghĩa đùa vui này. Gặp dịp, tình cờ thôi, tôi hồn nhiên dùng lại. Nay anh Hòa Nguyễn hỏi, tôi mới được "giải hoặc": mở các từ điển tiếng Việt hiện hành, không có "giải hoặc", "giải thực" gì ráo! Chuyện nhỏ thôi, nhưng cũng là kinh nghiệm cho người viết văn: những chữ mình cho là đơn giản, vì quen dùng, chưa chắc gì mọi người đã biết. Về một vài thắc mắc khác: tình yêu là thực chất, có lúc xen vào huyền thoại; bản năng sinh lý, tình dục, dĩ nhiên là thực chất, cũng có lúc xen vào hoang tưởng, nghĩa là thuyền thoại. Đề tài này sâu xa và phức tạp, khó lý giải ở đây – và cả nơi khác. Về trường hợp Nguyễn Huy Thiệp đã phá huyền thoại này lại rơi vào huyền thoại khác, như tôi gợi ý, là vì ông ấy nghiêm trang. Còn Đỗ Kh. thì tếu. Ông Đỗ Kh. không phải là "bậc siêu xuất" hoặc "bậc giác ngộ", mà chỉ quan sát con người, có lẽ chủ yếu là cộng đồng di dân, rồi đưa ra một vài nhận xét phúng thế. Tập truyện Đỗ Kh. xuất bản 1993 tại hải ngoại, bài điểm sách của tôi đăng trên một tạp chí hải ngoại 1994: vào thời điểm ấy, bài ấy, sách ấy là cần thiết. Mục đích của tôi không phải là đề cao Đỗ Kh., nhất là "đề cao hơi quá" về mặt nội dung giải hoặc; mà để đáp ứng lại môt nhu cầu tâm lý lúc ấy. Anh Hòa Nguyễn có thể trách tôi: đưa ra tiêu đề "Đỗ Kh., kẻ giải hoặc", là đã vô hình trung tạo một huyền thoại Đỗ Kh. Nói vậy thì tôi chịu, không cãi vào đâu được. Nhưng cũng sẽ vui thôi. 28/4/2008
29.4.2008
Diên Khánh
Nửa vời Trong bài “Từ Đại học Berkeley: cũng đều là vinh danh những người mẹ”, tác giả Bùi Văn Phú tường thuật về một nhạc cảnh trong chương trình văn nghệ sinh viên Berkeley như sau: “30.4.1975, Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho miền Nam đầu hàng. Những người lính miền Nam ôm cờ, thay quân phục, bỏ chạy.” (Người viết in đậm) Có mặt trong chương trình văn nghệ hôm đó, tôi không nghĩ rằng lời tường thuật này phản ánh đúng với những gì diễn ra trên sân khấu. Đúng, trong nhạc cảnh đó, một số những người lính Cộng hoà cải trang trong sợ hãi…, nhưng tiếp sau đó là cảnh một số những người lính Cộng hoà đứng lên chống lại một “rừng” bộ đội Bắc Việt, và nhạc cảnh chấm dứt với việc tất cả những người lính Cộng hoà đều gục ngã. Tấm màn hạ xuống chấm dứt phần một, như chấm dứt một trang sử của dân tộc Việt Nam. Một nhạc cảnh khá “hỗn độn”, để ghi lại những giờ phút hỗn độn của Sài Gòn ngày 30 tháng 4. Trong giờ phút đó, lịch sử đã ghi lại tất cả, có người hoang mang rũ bỏ quân phục, và cũng có người đã cầm súng đến cùng… Không phải tất cả đều “bỏ chạy”, và các sinh viên gốc Việt hẳn hiểu rất rõ điều đó. Lời tường thuật nghe có vẻ “hợp” chủ đề của bài viết, nhưng chỉ là “một nửa” của những gì đã diễn ra trên sân khấu hôm đó. Khi một lời “nửa vời” được gởi đi, sẽ rất dễ gây hiểu lầm rằng sinh viên Berkeley đều… “vinh danh người Mẹ”" theo kiểu “chậu rửa chân” của Trần Thuỷ Châu. Tội lắm!
28.4.2008
Bùi Văn Phú
Kính gửi ông Nguyên Châu, Trước hết, cám ơn ông đã cho biết về một biên khảo trong đó có nhắc đến bài viết mới đây của tôi về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi đã đọc bài của tác giả Như Hà trên trang mạng chùa Pháp Vân và nhận thấy rằng tác giả câu mà ông đã trích dẫn đã viết không mạch lạc, nên gây hiểu lầm và thắc mắc cho ông. Độc giả đọc bài viết của tôi nhân ngày giỗ lần thứ 7 nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trên mạng talawas thì hiểu là tôi còn khá trẻ, như ông đã biết đúng, và người chỉ huy tình báo mà tôi trích dẫn trong bài viết của mình là Đại tá Nguyễn Mâu, tác giả cuốn sách N.D.B (Ngành Đặc biệt) mới xuất bản. Năm 1975 tôi là sinh viên năm thứ hai của Đại học Sài Gòn. Tác giả Như Hà làm cho ông Nguyên Châu có những hiểu lầm và có lẽ nhiều độc giả khác cũng hiểu sai như thế. Vì vậy tôi cũng chuyển thư này đến ban biên tập trang mạng chùa Pháp Vân để yêu cầu họ sửa lại cho đúng và rõ nghĩa. Tôi hy vọng đây chỉ là lỗi của tác giả Như Hà về cách hành văn chứ không phải một sai lầm nào khác. Cám ơn Như Hà về nhã ý tặng tôi bài viết đó.
27.4.2008
Dạ Thảo Phương
Nghe 2 điếu văn trong đám tang nhà thơ Lê Đạt
Tôi đã có cảm giác như mình đứng ở đám tang một nhà thơ nào đó tôi không quen biết, cùng lắm là chỉ đọc loáng thoáng tác phẩm đâu đó một đôi lần, khi nghe bài điếu văn dành cho nhà thơ Lê Đạt do ông Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam đọc. Mọi từ ngữ viết ra đều đúng mực, trang trọng, tiếc thương đầy đủ, được đọc bằng một giọng đọc, nhịp độ, ngữ điệu quá hoàn hảo cho một điếu văn “giữa đình”. Nhưng không một điểm ngưng, chứ đừng nói là một từ nhắc đến 30 năm bị cưỡng bức viết trong im lặng của Lê Đạt. 30 năm quan trọng nhất khẳng định Nhân cách và Bản lĩnh của Một Lê Đạt. Trước một bài điếu văn như thế, thì mọi nước mắt, mọi cảm xúc mạnh mẽ trong đám tang của nhà thơ Lê Đạt bỗng trở nên lạc lõng. Vì, nếu thay những chi tiết tiểu sử và một vài câu thơ của Lê Đạt được trích dẫn, thì có thể sử dụng bài điếu văn này cho bất cứ đám tang một nhà văn, nhà thơ nào mà như đánh giá của ông Tổng thư ký là “có thành tựu và nổi tiếng”. Cả bài điếu văn có lẽ chỉ có một từ thật sự là Lê Đạt: “Một nhà văn lịch lãm”.
Sau ông Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, bà Tổng biên tập của tạp chí Tia sáng đứng lên đọc “lời vĩnh biệt”, nhưng thực chất là một điếu văn khác, có lẽ đã được lược bớt những phần tiểu sử “đúng lề đường bên phải” của Lê Đạt để khỏi trùng lặp với điếu văn trước. Song sự xuất hiện của điếu văn “number 2” này vẫn là hợp lý, chỉ vì nó đã nhắc đến 30 năm buộc phải viết trong im lặng vì “cái mà ông đã hài hước gọi là ‘tai nạn nghề nghiệp’”. Lần đầu tiên, tôi thấy từ “hài hước” vang lên trong một điếu văn mà không bị phản cảm. Bài điếu văn này cũng nhắc đến một câu nói của Lê Đạt: “Một nhà văn tự trọng sẽ đặt việc thành nhân quan trọng hơn việc thành danh”.
Con trai của nhà thơ Lê Đạt đáp lễ ngắn gọn những tấm lòng dành cho cha anh - một người luôn sống và trả giá “cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập, tự do”. Hai từ độc lập, tự do nghe quen vậy nhưng khi được dùng để nói về sự nghiệp của Lê Đạt, nó lại được trả về cái nghĩa trong sáng, không hề sáo mòn của bản thân nó.
(Những) lãnh đạo của Hội Nhà văn Việt Nam đã may mắn có được vinh dự quý giá là người đứng ra tổ chức đám tang và viết điếu văn cho nhà thơ Lê Đạt. Nhưng họ đã bỏ qua cơ hội ngàn vàng mà gia đình nhà thơ Lê Đạt đã rất đại lượng dành cho họ, để đại diện tổ chức này có thể tạ tội trước ông, và cũng là để rửa đi vết chàm trên tay họ trong con mắt văn giới. Bản điếu văn ông Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam đọc trước linh cữu nhà thơ Lê Đạt, gia quyến của nhà thơ và văn giới hôm nay, bản điếu văn ấy thật tròn trặn, trơn tru, chuyên nghiệp, nhưng nó chỉ thiếu một điều thôi: sự sòng phẳng. Đúng là, khôn trước mắt, dại lâu dài.
Hà Nội, sáng 25.4.2008
|