[go: up one dir, main page]

trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 433 bài
  1 - 20 / 433 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngChính trị thế giới
26.4.2008
Trịnh Vĩnh Niên
Lộ trình Hồ Cẩm Đào tới tương lai của Trung Quốc
(Cuộc thám hiểm một nền dân chủ xã hội độc đảng)
La Thành dịch
 
Từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tới chủ nghĩa dân chủ xã hội

Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc, được tổ chức mỗi 5 năm một lần, có nghị trình tương tự như những cuộc bầu cử tổng thống trong các hệ thống chính trị có tổng thống đứng đầu. Đại hội Đảng không chỉ quyết định toàn bộ những chính sách lớn cho 5 năm tiếp theo, mà còn bầu chọn ra các uỷ viên của Bộ Chính trị và của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan hoạch định chính sách quyền lực nhất ở Trung Quốc. Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc [1] (tiến hành từ ngày 15 đến ngày 21 tháng Mười năm 2007) đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương [2] gồm 204 uỷ viên. Trung ương mới đã nhóm họp ngay phiên toàn thể đầu tiên vào ngày 22 tháng Mười và đã cử ra Bộ Chính trị gồm 25 thành viên, với Ban Thường vụ Bộ Chính trị gồm 9 người.

Hồ Cẩm Đào đã được tái cử làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương như trông đợi. Tập Cận Bình (nguyên Bí thư Thành uỷ Thượng Hải) và Lý Khắc Cường (nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Liêu Ninh) được bầu vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Hai người này được dư luận rộng rãi coi như những ứng cử viên sẽ cạnh tranh ngôi vị “hoàng thái tử” của họ Hồ vào năm 2012. Bằng cuộc cải tổ nhân sự đáng kể này, Hồ đã tuyên hứa sẽ dẫn dắt ban lãnh đạo mới thực hiện mục tiêu xây dựng một hoà-hài xã-hội (= “xã hội hài hoà”) [3] , thông qua cái gọi là khoa-học phát-triển-quan (= “quan niệm khoa học về phát triển”) [4] .

Cái hộp đen của nền chính trị đảng-cộng-sản-trị Trung Hoa thế là cuối cùng đã được mở ra, khi các uỷ viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị dàn hàng trước các phương tiện truyền thông. Màn đã hạ, và mọi người cả ở trong lẫn ở ngoài Trung Quốc đang bắt đầu lượng giá ảnh hưởng lâu dài của cái sự kiện diễn ra trong một tuần này đối với Trung Quốc và cả thế giới. Trong thế giới hiện tại, không một đảng chính trị nào có được một ảnh hưởng đối nội và đối ngoại to lớn như ảnh hưởng mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đang có. Chính đảng đã 86 năm tuổi (vào 2007 – người dịch) này hiện đang là đảng chính trị lớn nhất thế giới với tổng số đảng viên tới 73 triệu người, lớn hơn tổng dân số của nước Pháp – quốc gia đông dân thứ nhì trong Liên hiệp Âu châu, với 64 triệu người – hoặc của nước Iran – 71 triệu. Hiển nhiên, quốc gia mà đảng này đang điều hành cũng là đất nước lớn nhất thế giới về dân số – hơn 1,3 tỷ người.

Từ sau khi Đặng Tiểu Bình khởi động chính sách Cải cách và Mở cửa vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế chưa từng thấy với tỷ lệ tăng trưởng hằng năm trên 9 phần trăm. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa hiện là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới xét theo tổng sản lượng quốc nội (GDP), sau Hoa Kỳ, Nhật Bản và Cộng hoà Liên bang Đức. Ngoài ra, là một quốc gia đã hội nhập ở mức độ cao vào hệ thống thế giới, mọi diễn biến trong nội tình Trung Quốc đều sẽ tác động sâu sắc đến thế giới bên ngoài.

Vì quyền lợi của mình, các thành viên của cộng đồng quốc tế buộc phải theo dõi mọi biến chuyển quan trọng trong nội bộ Trung Quốc. Tuy nhiên, khi hàng nghìn ký giả từ các nơi trên thế giới tụ tập về Bắc Kinh, theo dõi chặt chẽ diễn trình của Đại hội Đảng, họ đã cảm thấy hết sức thất vọng với cách thức mà ban lãnh đạo Đảng đang chèo lái con thuyền chính trị. Nỗi thất vọng của họ có nguyên nhân một phần ở chế độ siết chặt kiểm soát thông tin của Trung Quốc, phần khác do những khó khăn trong việc diễn dịch ý nghĩa của các thông tin được quảng bá trong sự kiện, bao gồm cả bản báo cáo dài lê thê của Hồ Cẩm Đào cùng với những thuật ngữ và khái niệm mà ông sử dụng trong đó.

Truyền thông nước ngoài lâu nay vẫn chú mục quá nhiều vào những thay đổi nhân sự ở cấp thượng đỉnh. Các nhà báo và đoàn ngoại giao ở Bắc Kinh đã từng thăm dò mọi khả năng để tìm hiểu xem trò chơi nhân sự được điều khiển ra sao ở bên trong Trung Nam Hải – cư xá của ban lãnh đạo Trung Quốc. Ngược lại, phần đông người Trung Quốc lại tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề chính sách chứ không phải nhân sự. Họ lãnh đạm một cách bất cần với chuyện ai sẽ thủ đắc những vị trí quyền lực trong Đảng, bởi lẽ họ không hề có một cơ chế đáng kể nào để bày tỏ ý kiến về các vấn đề nhân sự. Trong khi đó, những chính sách mà ban lãnh đạo mới sẽ thực thi lại có ảnh hưởng lớn đến đời sống thường nhật của họ.

Giới lãnh đạo Trung Quốc biết rõ những ưu tiên của mình. Cho dù ai được tuyển chọn vào vị trí quyền lực, người đó cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức hiện đang đứng sừng sững trước đất nước này. Nền chính trị Trung Hoa không chỉ đơn thuần là một đấu trường để tranh đoạt quyền lực. Một châm ngôn chính trị Trung Quốc nói rằng “cán bộ chỉ xác định khi đường lối đã quyết định”. Theo đó thì các nhà lãnh đạo Đảng phải đặc biệt chú trọng tới các vấn đề chính sách. Trên thực tế, Đại hội XVII đã đưa ra một lộ trình cho tương lai của Trung Quốc. Theo bản báo cáo của Hồ Cẩm Đào, mục tiêu của phát triển và những phương tiện để có thể đạt được mục tiêu đó chỉ ra rằng Trung Quốc đã đi vào một thời kỳ phát triển mới. Mục tiêu của thời kỳ này là xây dựng một “xã hội hài hoà”, và phương tiện để đạt tới mục tiêu này là chủ nghĩa xã hội dân chủ (democratic socialism) hoặc chủ nghĩa dân chủ xã hội (social democracy).


Những động lực của nền chính trị Trung Quốc

Từ khi Đặng Tiểu Bình chấp chính, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu đặt phát triển kinh tế lên mức ưu tiên cao nhất. Đặng lập luận rằng đói nghèo không phải là một tiêu chí của chủ nghĩa xã hội. Theo Đặng, nếu chủ nghĩa xã hội muốn hồi sinh và phát triển ở Trung Quốc, nó phải thể hiện khả năng đem lại một nền kinh tế phát triển. Sau khi chủ nghĩa cộng sản bị tan rã ở Liên Xô và Đông Âu, ban lãnh đạo Trung Quốc đã cảm nhận được sự bức thiết phải đẩy nhanh tốc độ phát triển. Đặng nhận định rằng sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô là hệ quả của việc các chế độ cộng sản ở đó đã bất lực trong việc thực hiện sứ mạng kinh tế trước nhân dân. Trong một loạt bài nói khi đi công du các tỉnh Hoa Nam hồi đầu năm 1992, Đặng đã thúc giục các cán bộ Đảng và quan chức chính quyền hãy hãy “hoá giải” những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội. Ông yêu cầu họ đừng đặt ra câu hỏi liệu Trung Quốc đang phát triển chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn không tránh khỏi để tiến tới một xã hội xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc (người dịch đánh đậm).

Vào năm 1992, Đại hội Đảng lần thứ XIV đã đặt việc xác lập nền kinh tế thị trường là mục tiêu của công cuộc Cải cách ở Trung Quốc. Một khi phát triển kinh tế trở thành ưu tiên cao nhất, cái gọi là “chủ nghĩa GDP” xuất hiện. Các quan chức chính quyền ở mọi cấp theo đuổi một cách sốt sắng việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP như là thước đo của phát triển, bất chấp mọi hậu quả về xã hội và môi trường phát sinh từ sự tăng nóng của nền kinh tế.

Để xúc tiến tăng trưởng kinh tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từ bỏ ý thức hệ truyền thống, và chủ nghĩa thực dụng đã trở nên thịnh hành. Dưới sự chỉ dụ thực dụng chủ nghĩa của Đảng Cộng sản, khu vực tư nhân và các khu vực ngoài nhà nước khác của nền kinh tế – như các doanh nghiệp tập thể hoặc các liên doanh – đã nhận được những xung lực phát triển mạnh mẽ. Tất cả các nhân tố này – bao gồm chủ nghĩa thực dụng, sự phi tập trung hoá, khu vực tư nhân, bối cảnh toàn cầu hoá (chẳng hạn sự đầu tư trực tiếp từ nước ngoài) – đã cộng hưởng thành phép mầu kinh tế Trung Quốc.

Sự tăng trưởng mau lẹ của nền kinh tế cũng đã làm xuất hiện một giai cấp trung lưu đang ngày một lớn mạnh, bao gồm nhiều nhóm xã hội khác nhau như giới tư bản đỏ, giới chủ doanh nghiệp tư nhân và các nhà chuyên môn. Các nhóm xã hội mới này đã bắt đầu đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy và duy trì sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Hơn nữa, cùng với đà khuếch trương nhanh chóng sự sung túc vật chất, họ cũng muốn tiếng nói của họ được lắng nghe, và những đòi hỏi của họ để được tham gia vào chính trường đang ngày càng mạnh mẽ.

Để đáp ứng nhu cầu của họ, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản thời Giang Trạch Dân đã có những cố gắng lớn trong việc luật hoá sự sở hữu tư nhân. Bản Hiến pháp sửa đổi năm 1999, lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, đã cung cấp sự bảo đảm hiến pháp đối với nền kinh tế tư nhân. Mặc dù đã gây nhiều tranh cãi, Dự luật về Các quyền Sở hữu (the Property Rights Bill) cũng đã được thông qua vào tháng Ba năm 2007.

Điều quan trọng hơn là, với sự lớn mạnh của giai cấp trung lưu (do chính sách của Đảng tạo ra – người dịch), ban lãnh đạo Đảng Cộng sản đã mở rộng được nền tảng xã hội của Đảng. Giới lãnh đạo Đảng hiểu rằng thiếu sự hậu thuẫn chính trị từ các giai cấp xã hội mới trỗi dậy, Đảng sẽ không thể tồn tại trong những điều kiện kinh tế - xã hội mới. Khi biện hộ cho chủ nghĩa tư bản, ê-kíp Giang Trạch Dân cũng trương ra – vào năm 2001 – khái niệm tam cá đại-biểu (= “ba đại diện”), ngụ ý rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải đại diện cho những quyền lợi kinh tế và xã hội khác nhau. Trong khi về mặt truyền thống, Đảng Cộng sản Trung Quốc vốn dĩ chỉ đại diện cho quyền lợi của công nhân, nông dân, giới quân nhân và các viên chức nhà nước, thì nay nó cần phải đại diện cả cho các lợi ích khác nhau của nhiều nhóm xã hội mới nổi lên. Ban lãnh đạo Đảng đã cho phép và cổ vũ các chủ doanh nghiệp tư nhân gia nhập Đảng Cộng sản.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đang trải qua một cuộc biến đổi quyết liệt, từ một đảng chỉ “của công-nông” trở thành một đảng “dung nạp tất thảy”. Các đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc giờ đây đã trở nên ngày càng có lai lịch kinh tế và xã hội đa dạng. Trong vòng ba thập niên, tỷ lệ công nhân, nông dân và binh sĩ trong thành phần của Đảng đã suy giảm đáng kể: từ năm 1978 đến năm 2006, tỷ lệ đảng viên công nhân đã giảm từ 18,7 phần trăm xuống còn 11,1 phần trăm; đảng viên là nông dân đã giảm từ 46,9 xuống còn 31,7 phần trăm; còn thành phần binh sĩ thì từ 6,9 nay chỉ còn 2,2 phần trăm. [5]

Trong khi đó, các thành phần đảng viên có gốc gác “phi công-nông-binh” thì lại tăng đột biến. Hiện nay, số đảng viên “cổ cồn trắng” (bao gồm các kỹ sư và giới cán bộ quản lý) đã chiếm 21,4 phần trăm, còn đảng viên với lý lịch doanh nhân đã chiếm 5,1 phần trăm đảng số.

Nhờ những thay đổi chính sách này, giới nghiệp chủ tư nhân đã bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong nền chính trị đảng trị của Trung Quốc. (Lúc này) không khó để tìm ra những đại biểu của họ đang ngồi trong những cơ cấu đại nghị như Đại hội Đại biểu Nhân dân hoặc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân ở mọi cấp. Sự thay đổi này về chính sách cũng được phản ánh qua những đổi thay trong sự lựa chọn đại biểu cho Đại hội Đảng vừa qua. Lần đầu tiên, các nhóm kinh tế mới (chẳng hạn các phòng thương mại) và các nhóm xã hội mới (chẳng hạn các hội luật gia) đã tìm thấy đại diện của mình trong số các đại biểu tại Đại hội Đảng.

Khi các nhóm xã hội mới trở nên tích cực hơn về chính trị, phản ứng của các nhóm xã hội truyền thống cũng mạnh lên. Công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội mà Đảng Cộng sản từng tuyên bố đại diện cho trong quá khứ đã cảm nhận thấy mình ngày càng bị tách ra khỏi nền chính trị của Đảng, và các quyền lợi của mình đã bị những thay đổi chính sách của ban lãnh đạo Đảng ngấm ngầm làm xói lở.

Thêm vào đó, đồng thời với những thành tựu tăng trưởng kinh tế mau lẹ trong ba thập kỷ qua, sự biến chuyển về kinh tế - xã hội của Trung Quốc cũng đã gây nên những vấn nạn như sự cách biệt ngày càng doãng rộng về thu nhập giữa các giai tầng xã hội và các vùng lãnh thổ, sự suy thoái của môi trường cũng như tệ tham nhũng nghiêm trọng trong giới cán bộ Đảng và viên chức chính quyền.

Trong những năm gần đây, ở Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện những tranh luận gay cấn trong nội bộ Đảng Cộng sản và giữa các nhóm xã hội khác nhau. Những người chủ trương ‘khai phóng’ (liberals) trong số cán bộ đã về hưu, công chức nhà nước, giới học giả và các nghiệp chủ tư nhân đã bắt đầu đòi hỏi những cải cách chính trị triệt để. Theo kiến giải của họ, mọi khó khăn mà Trung Quốc đang đụng độ trong quá trình thâm hoá (= ‘deepening’, “[làm] sâu sắc hoá” – người dịch) công cuộc Cải cách là có nguyên nhân bởi sự thiếu vắng cải cách chính trị. Họ cho rằng việc đẩy mạnh toàn cầu hoá, tư nhân hoá và dân chủ hoá sẽ giải quyết được các vấn nạn của Trung Quốc. Những người chủ trương cấp tiến như (cựu) Phó Hiệu trưởng Đại học Nhân dân Trung Quốc Tạ Thao đã thúc giục ban lãnh đạo Đảng Cộng sản hãy từ bỏ phương thức cai trị cộng sản và chấp nhận chủ nghĩa xã hội dân chủ kiểu Âu châu.

Mặt khác, sự trỗi dậy của phái Tả cũng rất rõ rệt. Phái Tả Cũ, bao gồm những nhà cách mạng lão thành và giới cán bộ tuyên huấn đã nghỉ hưu, đã lên tiếng đòi hỏi một nền công bằng xã hội kiểu Mao-ít. Còn phái Tả Mới, hình thành chủ yếu trong giới trí thức và sinh viên trẻ, thì yêu cầu một sự công bằng thông qua tái phân phối thu nhập dựa vào vai trò của nhà nước. Chủ nghĩa Mao đang tái lập vị trí của nó trong các nhóm xã hội [có nền tảng kinh tế] yếu như công nhân thành thị, lao động du cư từ nông thôn [6] và nông dân. Hiện nay, Trung Quốc đang phải hứng chịu một làn sóng mới các cuộc phản kháng xã hội – mà truyền thông chính thức gọi là các ‘quần-thể sự-kiện’ (bính âm Quan thoại [qúntĭ shìjiàn]) – với khoảng 70 đến 100 nghìn cuộc phản kháng bùng phát mỗi năm. Nếu phái Tả Mới và các nhóm xã hội bất mãn liên kết lại với nhau, họ sẽ tạo thành một sức mạnh ghê gớm có tầm vóc chính trị đáng kể.

Áp lực ngày càng tăng từ cả cánh Tả lẫn cánh Khai phóng (được coi là cánh Hữu – người dịch) và trọng lượng chính trị của họ đã thúc bách ban lãnh đạo Đảng phải đáp ứng. Vào trước lúc Đại hội Nhân dân Toàn quốc nhóm họp hồi tháng Ba năm nay (năm 2007 – người dịch), giới chức Trung Quốc đã sử dụng biện pháp ngăn chặn trước để hạn chế sự tranh cãi giữa các đại biểu, nhằm đảm bảo cho Dự luật về Các quyền Sở hữu được thông qua. Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã cho đăng một bài báo dài 5000 chữ (tức chữ Hán – người dịch) ký tên ông. (Trong đó) họ Ôn biện luận rằng Trung Quốc vẫn đang ở trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, và (vì vậy) phát triển kinh tế cần phải tiếp tục được đặt lên hàng ưu tiên. Những khó khăn mà Trung Quốc đang đối mặt hiện nay tất sẽ được giải quyết, và công bằng xã hội chỉ có thể đạt được thông qua tiếp tục phát triển.

Tuy nhiên, phương sách này đã không ngăn chặn được những cuộc cãi vã trong nội bộ Đảng Cộng sản và giữa các nhóm xã hội. Trong khi giới lãnh đạo Đảng liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của “sự thống nhất về tư tưởng” giữa các cán bộ Đảng và quan chức chính quyền, điều này hầu như là một nhiệm vụ bất khả thi. Một khi Đảng đã hoá giải những quyền lợi kinh tế và xã hội khác nhau, chủ nghĩa đa nguyên về ý thức hệ sẽ trở nên không tránh khỏi xuất hiện ngay trong nội bộ Đảng. Những người khuynh tả trong Đảng đã lên tiếng phê phán rằng (cái gọi là) ‘Đặng Tiểu Bình lý luận’ (Dengism) đã mang chủ nghĩa tư bản vào Trung Quốc, còn ‘tam cá đại-biểu thuyết’ của Giang Trạch Dân thì đã mở lối cho “bọn tư bản” chui vào Đảng.

Tình trạng trên đã đòi hỏi ban lãnh đạo Đảng phải xây dựng một lộ trình cho tương lai của Trung Quốc nhằm giảm thiểu sự bất an trong các nhóm xã hội và đạt được sự đồng thuận. Lẽ tự nhiên, lộ trình này cũng áp dụng cho cộng đồng quốc tế nhằm xoa dịu “niềm bất an Trung Quốc” đang gia tăng trong những năm gần đây.

Trong bản báo cáo của mình đọc trước Đại hội Đảng, Hồ Cẩm Đào đã kêu gọi các cán bộ đảng, các viên chức nhà nước cũng như các nhóm xã hội hãy tự giải thoát tư tưởng của mình khi nghĩ về tương lai của Trung Quốc. Ông nói với họ rằng không có câu trả lời sẵn nào cho mọi câu hỏi quan trọng như: chủ nghĩa xã hội là gì, làm thế nào để đi đến chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Trung Quốc – với tư cách là một đảng chính trị – cần được xây dựng trên nền tảng nào, và làm thế nào để xây dựng Đảng; Trung Quốc nên đi theo con đường phát triển nào, và làm thế nào để truy cầu sự phát triển. Tất cả các câu hỏi này đều đã được nêu ra từ trước đây. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng – tự mình – đưa ra định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, cũng như [tự mình] xác định mô hình phát triển của Trung Quốc. Giờ đây, các khái niệm này trở nên mở ngỏ, và có thể được xác định lại cho phù hợp với những đổi thay của hoàn cảnh, cả bên trong lẫn bên ngoài.

Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh rằng bất chấp những khó khăn đang phải đương đầu, Trung Quốc sẽ không lùi bước. Đặc biệt, Hồ đã chỉ ra những hậu quả thảm khốc của cuộc Cách mạng Văn hoá và chủ nghĩa tả khuynh, và biện luận rằng lựa chọn duy nhất mà Trung Quốc có thể làm là tiến lên phía trước. Đương nhiên, Trung Quốc cần phải có hướng đi đúng đắn, và hướng đi đúng đắn đó phải được dẫn đạo bởi phát triển khả trì [7] , dân chủ và công bằng xã hội.

Theo họ Hồ, phát triển cần phải tiếp tục được đặt lên hàng ưu tiên cao. Không có phát triển, Trung Quốc sẽ không thể khắc phục được tất thảy những khó khăn mà nó đang phải đối diện hiện nay. Tuy nhiên, phát triển cần phải khả trì. Để đạt được sự phát triển khả trì, Trung Quốc cần phải tiếp thu khoa-học-quan (= quan điểm / phương pháp khoa học – người dịch), là cái nhắm tới cân bằng sự phát triển kinh tế với [sự phát triển] xã hội và là sự thân thiện với môi trường.

Quan trọng hơn, phát triển cần phải hướng-về-nhân-dân. Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội [kiểu] Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội nhân đạo chủ nghĩa. (Luận điểm về) chủ nghĩa xã hội nhân đạo chủ nghĩa đã từng được đề xướng vào thập niên 1980 bởi các trí thức [chủ trương] khai phóng đứng dưới tán lọng của Hồ Diệu Bang, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc lúc đó. Song le, khái niệm này (ngày đó) đã bị giới bảo thủ trong Đảng nghiêm khắc phê phán và bị coi là một bộ phận của cái gọi là “sự tự do hoá tư sản”. Chỉ từ khi Hồ Cẩm Đào chấp chính (năm 2002), chính sách “thân dân” của ông mới bắt đầu trả lại công bằng cho chủ nghĩa xã hội nhân đạo, một chủ nghĩa cổ vũ cho công bằng xã hội và các quyền con người. Hẳn là giới lãnh đạo Đảng đã nhận thấy chỉ khi nào sự phát triển là hướng-về-nhân-dân, mục tiêu “xã hội hài hoà” mới có khả năng đạt được.

Có vẻ như ở đây, Hồ Cẩm Đào đã toan điều hoà những đòi hỏi từ những người Khai phóng hậu thuẫn cho phát triển với các yêu cầu của phái Tả Mới về công bằng xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là bằng cách nào để ở Trung Quốc, phát triển có thể dẫn đến công bằng xã hội. Câu trả lời của họ Hồ là chủ nghĩa dân chủ xã hội (the social democracy). Mặc dù nền dân chủ ở Trung Quốc đã được giới lãnh đạo Đảng nói đến từ hàng chục năm nay, đây là lần đầu tiên Đảng đặt khái niệm “dân chủ xã hội” vào bối cảnh của sự thực thi công bằng xã hội. Trong bản báo cáo của họ Hồ, “dân chủ xã hội” có nội hàm là một dải rộng của sự mở mang về chính trị – từ sự thực hành dân chủ ở khu vực nông thôn, sự tham gia chính trị của “thảo dân”, cho đến “dân chủ nội Đảng”. [8]

Điều đáng chú ý là trong bối cảnh đang mở mang một nền dân chủ xã hội, Trung Quốc ngày càng quan tâm đến mô hình Âu châu của phát triển. Trong những năm gần đây, chính quyền Trung Quốc đã cử những phái đoàn đông đúc sang châu Âu để khảo sát sự thực hành dân chủ xã hội hoặc chủ nghĩa xã hội dân chủ ở đây. Trường Đảng Trung ương, nơi những cán bộ Đảng hay quan chức Chính phủ cao cấp được đào luyện, đã trở thành trung tâm cổ suý cho chủ nghĩa dân chủ xã hội. Trong khi giới lãnh đạo Đảng tiếp tục tỏ ra bất tín hệ thống đa đảng ở châu Âu, họ đã bắt đầu thám hiểm xem có cách nào để một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Trung Quốc) có thể đại diện cho những quyền lợi kinh tế và xã hội khác nhau hay không.


Nhân sự ban lãnh đạo mới và “tân chính sách”

Ở tầm lãnh đạo, Hồ Cẩm Đào đối mặt với hai nhiệm vụ chủ yếu. Trước tiên, ông phải cơ cấu lại nhân sự ban lãnh đạo của mình, nhắm tới hiệu quả của việc thực thi các chính sách. Trong nhiệm kỳ 5 năm đầu của mình [9] , Hồ và ban lãnh đạo của ông đã từng khai thuỷ đủ loại chính sách mới tập trung vào hai khái niệm then chốt “xã hội hài hoà” và “khoa học quan [về phát triển]”. Tuy nhiên, kháng lực từ nhiều phía đã rất mạnh mẽ, và sự thực thi chính sách đã tỏ ra hết sức trì trệ, không đáp ứng những kỳ vọng của dân chúng. Một số biện pháp để khắc phục các trở lực đã được áp dụng, chẳng hạn như việc cách chức Bí thư Thành uỷ Thượng Hải Trần Lương Vũ. Trong Đại hội Đảng, Hồ đã lôi kéo những người mới vào ban lãnh đạo để củng cố quyền lực của mình và khuếch trương sự hậu thuẫn chính trị cho những sáng kiến chính sách mới của ông.

Nhiệm vụ thứ hai, còn quan trọng hơn, là phải trù bị nhân sự kế tục quyền lực vào năm 2012. Theo Hiến pháp Trung Quốc và những quy tắc chính trị bất thành văn khác, chẳng hạn giới hạn tuổi tác, Hồ Cẩm Đào sẽ phải dời khỏi các chức vụ trong Đảng, Nhà nước và Lực lượng Vũ trang vào năm 2012–2013. Điều đó có nghĩa là Hồ cùng với ban lãnh đạo của ông phải bắt đầu trù liệu thế hệ lãnh đạo kế tiếp khi còn chưa muộn. Nhiệm vụ này đã tỏ ra khó khăn hơn sau khi những thiết-nhân (strongman) như Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình qua đời: các lãnh tụ hậu-thiết-nhân như Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào không thể [đơn phương làm công việc] chỉ định “hoàng thái tử” cho mình.

(Có thể nói) thông qua Đại hội XVII, họ Hồ và ban lãnh đạo của ông đã thực hiện thành công hai nhiệm vụ này. Trong số 25 thành viên của Bộ Chính trị thì 10 là những gương mặt mới (xem Phụ lục 1). Quan sát cho thấy những nhân vật mới được bổ nhiệm này hầu hết đều xuất thân từ hai lực lượng chính trị có thế lực nhất ở Trung Quốc hiện nay, là Thái-tử-đảng (con cái của các cán bộ chủ chốt lão thành hoặc quá cố, Phụ lục 2) và Đoàn-phái (cánh cựu cốt cán của Đoàn Thanh niên Cộng sản, Phụ lục 3). Từ sau khi thâu tóm quyền lực vào năm 2002, ê-kíp Hồ Cẩm Đào - Ôn Gia Bảo đã thu được ít nhiều sự ái mộ trong dân chúng. Tuy nhiên, do không được lựa chọn qua những cuộc bầu cử dân chủ, sự ái mộ đại chúng dành cho ê-kíp này không thể được chuyển thành sự hậu thuẫn chính trị mạnh mẽ của các tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước ở mọi cấp.

Như vậy, sự ủng hộ chính trị từ phía các lực lượng chính trị trọng yếu là chìa khoá của sự lãnh đạo và thực thi chính sách một cách hiệu quả. Sự bổ nhiệm các chính trị gia [có lý lịch] Thái-tử-đảngĐoàn-phái, không nghi ngờ, là lựa chọn hữu dụng cho mục đích đó. Trong các uỷ viên Bộ Chính trị hiện nay, Tập Cận Bình (bí thư Thành uỷ Thượng Hải), Vương Kì Sơn (thị trưởng Bắc Kinh), Lưu Diên Đông (quốc-vụ-khanh, trưởng Ban Công tác Mặt trận Thống nhất thuộc Trung-cộng Trung-ương), Du Chính Thanh (bí thư Tỉnh uỷ Hồ Bắc) và Bạc Hi Lai (cựu bộ trưởng Thương vụ, bí thư Thị uỷ Trùng Khánh) được dư luận rộng rãi xem là những đại biểu của Thái-tử-đảng; trong khi Lý Khắc Cường (bí thư Liêu Ninh), Lý Nguyên Triều (bí thư Giang Tô), Uông Dương (cựu bí thư Trùng Khánh, đương kim bí thư Quảng Đông) và Vương Triệu Quốc (Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Toàn-quốc Nhân-đại) là các nhân vật thuộc Đoàn-phái. Chẳng cần phải thêm rằng hai tập hợp này có giao nhau; để thí dụ, Lưu Diên Đông và Lý Nguyên Triều xuất thân từ các gia đình cán bộ cao cấp, đồng thời cũng đã từng công tác trong Cộng-thanh-đoàn.



Phụ lục 1. Danh sách các uỷ viên và uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị mới (2007) của Đảng Cộng sản Trung Quốc

Bộ Chính trị (25 người, xếp theo thứ tự số nét tăng dần của chữ Hán chỉ họ): [10]


Họ tên theo cách đọc Hán Việt
Họ tên bằng chữ Hán
Ghi chú đặc biệt
Chức vụ Đảng, Nhà nước và các cương vị khác





1.
Tập Cận Bình*
习近平

UV Thường vụ BCT; Bí thư Thường vụ Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước CHND Trung-hoa
2.
Vương Cương*
王剛

Phó Chủ tịch Thứ nhất Trung-quốc Chính-hiệp
3.
Vương Lạc Tuyền
王乐泉

Bí thư Khu uỷ Khu tự trị Dân tộc Uyghur Tân Cương; Chính uỷ Binh đoàn Xây dựng - Sản xuất Tân Cương
4.
Vương Triệu Quốc
王兆国

Phó Uỷ viên trưởng Thứ nhất Toàn-quốc Nhân-đại; Chủ tịch Tổng Công hội Trung Quốc
5.
Vương Kì Sơn*
王岐山

Phó Tổng lý Quốc-vụ-viện; Chủ tịch Uỷ ban Olympic Bắc Kinh 2008
6.
Hồi Lương Ngọc
回良玉
Sắc tộc Hồi
Phó Tổng lý Quốc-vụ-viện
7.
Lưu Kì
刘淇

Bí thư Thành uỷ Bắc Kinh
8.
Lưu Vân Sơn
刘云山

Bí thư Trung ương Đảng; Trưởng ban Tuyên truyền TƯ Đảng
9.
Lưu Diên Đông*
刘延东
Nữ
Trưởng ban Công tác Mặt trận Thống nhất TƯ Đảng; Phó Chủ tịch Trung-quốc Chính-hiệp; Quốc vụ khanh
10.
Lý Trường Xuân
李长春

Uỷ viên Thường vụ BCT phụ trách công tác tư tưởng
11.
Lý Khắc Cường*
李克强

Uỷ viên Thường vụ BCT; Phó Tổng lý Thường vụ QVV
12.
Lý Nguyên Triều*
李源潮

Bí thư TƯ Đảng; Trưởng ban Tổ chức TƯ Đảng
13.
Ngô Bang Quốc
吴邦国

UV Thường vụ BCT; UV trưởng UB Thường vụ Toàn-quốc Nhân-đại
14.
Uông Dương*
汪洋

Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Đông
15.
Trương Cao Lệ
张高丽

Bí thư Thành uỷ Thiên Tân
16.
Trương Đức Giang
张德江

Phó Tổng lý Quốc-vụ-viện
17.
Chu Vĩnh Khang
周永康

UV Thường vụ BCT; Chủ nhiệm UB Chính-pháp TƯ Đảng; Quốc-vụ-khanh
18.
Hồ Cẩm Đào
胡锦涛

Tổng Bí thư ĐCSTQ; Chủ tịch nước CHND Trung-hoa; Chủ tịch Quân-uỷ TƯ
19.
Du Chính Thanh
俞正声

Bí thư Thành uỷ Thượng Hải
20.
Hạ Quốc Cường
贺国强

UV Thường vụ BCT; Chủ nhiệm UB Kiểm tra Kỷ luật TƯ Đảng
21.
Giả Khánh Lâm
贾庆林

UV Thường vụ BCT; Chủ tịch Trung-quốc Chính-hiệp
22.
Từ Tài Hậu*
徐才厚
Thượng tướng
Bí thư TƯ Đảng; Phó Chủ tịch QUTƯ
23.
Quách Bá Hùng
郭伯雄
Thượng tướng
Phó Chủ tịch QUTƯ
24.
Ôn Gia Bảo
温家宝

UV Thường vụ BCT; Tổng lý Quốc-vụ-viện
25.
Bạc Hi Lai
薄熙来

Bí thư Thành uỷ Trùng Khánh

Ban Thường vụ Bộ Chính trị (9 người, xếp theo thứ tự lễ nghi): Hồ Cẩm Đào, Ngô Bang Quốc, Ôn Gia Bảo, Giả Khánh Lâm, Lý Trường Xuân, Tập Cận Bình*, Lý Khắc Cường*, Hạ Quốc Cường*, Chu Vĩnh Khang*.

Dấu * chỉ uỷ viên mới được bầu từ Đại hội XVII.


Phụ lục 2. Sự trỗi dậy của Thái-tử-đảng

Sự thăng tiến của Tập Cận Bình đã khiến nhiều nhà quan sát ngạc nhiên. Tuy nhiên, họ Tập không hề là “con ngựa ô”, nếu mọi người để ý đến sự vươn dậy của cái gọi là Thái-tử-đảng [11] , một liên minh chính trị rộng khắp gồm các “quý tử” của những cán bộ cách mạng kì cựu.

Khi Đặng Tiểu Bình tại quyền hồi thập niên 1980, Thái-tử-đảng bị đẩy ra bên lề đời sống chính trị. Thời gian này người Trung Quốc có ác cảm với Thái-tử-đảng, bởi nhiều người trong số họ đã lao vào các hoạt động kiếm tiền và trở nên giàu có nhờ các mối quan hệ (guānxì theo bính âm Quan thoại) của cha anh họ. Tuy vậy, nhiều thành viên của Thái-tử-đảng – trong đó có Tập Cận Bình, Bạc Hi Lai và Lưu Diên Đông – là những người có tham vọng chính trị. Họ đã từ bỏ những cơ hội làm giàu, chấp nhận những vị trí công tác thấp trong các cơ quan Đảng và chính quyền địa phương. Sau nhiều năm, họ trở nên dày dạn kinh nghiệm trong quản lý các công việc Đảng và Nhà nước. Từ khi Giang Trạch Dân chấp chính sau sự biến Thiên An Môn năm 1989, các thành viên của Thái-tử-đảng bắt đầu bước lên sân khấu chính trị Trung Hoa. Hiện nay, họ đang chiếm giữ nhiều vị trí quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và trong các tổ chức xã hội.

Ở một mức độ lớn, Thái-tử-đảng đang là lực lượng chính trị mạnh nhất ở Trung Quốc ngày nay. Sinh ra và lớn lên trong các gia đình quyền thế của Đảng Cộng sản, các thành viên của nhóm này được coi là trung thành với chế độ mà ông cha họ đã tạo dựng. Thái-tử-đảng cũng nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía các cán bộ lão thành đã về hưu mà phần đông trong số họ là những người từng giữ trọng trách trong Đảng và Nhà nước.


Đội ngũ ban lãnh đạo mới cũng cho thấy một sự cân bằng quyền lực tinh tế. Sự suy vi của nhóm được mệnh danh “cánh Thượng Hải” là rõ ràng: Hoàng Cúc (Phó Tổng-lý Quốc-vụ-viện, nguyên thị trưởng Thượng Hải) đã chết đầu năm nay (năm 2007 – người dịch), trong khi Trần Lương Vũ thì đã bị loại khỏi chức vụ sau khi can án tham nhũng; Tăng Khánh Hồng cũng đã “hạ đài” do tuổi tác. Tuy vậy, một số đồng liêu của họ Giang [12] vẫn còn một chút ảnh hưởng: Trương Đức Giang (nguyên bí thư Tỉnh uỷ Quảng Đông, đương kim Phó Tổng-lý Quốc-vụ-viện) và Trương Cao Lệ (bí thư Thành uỷ Thiên Tân) đang là những uỷ viên Bộ Chính trị. (Song) thế cân bằng quyền lực quan trọng nhất vẫn là giữa Đoàn-pháiThái-tử-đảng.

Bên cạnh tương quan Đoàn-phái / Thái-tử-đảng còn có các mối tương quan giữa trung ương và các địa phương, giữa vùng duyên hải phía Đông và các tỉnh nội địa. Trong số bốn uỷ viên mới của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, Hạ Quốc Cường (trưởng Ban Tổ chức của Trung-cộng Trung-ương) và Chu Vĩnh Khang (bộ trưởng Công an) là những “đại biểu trung ương” bởi lẽ cả hai đều đã ở trong Bộ Chính trị được 5 năm; Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường là những bộ mặt “địa phương” – cả hai suốt bấy lâu đều làm việc ở các tỉnh trên khắp Hoa-lục. (Mặt khác,) trong khi hầu hết các uỷ viên Bộ Chính trị tiếp tục xuất thân từ các tỉnh giáp biển phía Đông và từ đám quan chức trung ương, thì sự xuất hiện của Uông Dương (nguyên bí thư Trùng Khánh [13] và đồng liêu thân cận của Hồ Cẩm Đào) trong thành phần Bộ Chính trị là chỉ dấu về tầm quan trọng của các tỉnh nội địa. Ngoài Uông Dương, Vương Lạc Tuyền (bí thư Khu uỷ Tân Cương) vẫn tiếp tục giữ ghế trong Bộ Chính trị.


Phụ lục 3. Sự hồi phục của Đoàn-phái

Ở Trung Quốc, Đoàn-phái (dụng ngữ thông tục để chỉ Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc [14] ) về danh nghĩa là một tổ chức quần chúng, song trên thực tế thì đây là lực lượng hậu bị quan trọng nhất của Đảng Cộng sản. Trong năm 2006, 1,1 triệu đoàn viên thanh niên cộng sản đã được kết nạp vào Đảng. Hiện nay (cuối 2007 – người dịch), Đoàn-phái có 73,5 triệu thành viên, tương đương với số đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Đoàn-phái đã từng giành được vai trò quan trọng trong nền chính trị quyền lực ở Trung Quốc vào thập niên 1980, khi Hồ Diệu Bang – người mà trước đó đã liên tục đứng đầu Đoàn Thanh niên Cộng sản [15] – được Đặng Tiểu Bình chọn làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hồ Diệu Bang đã từng rất được ngưỡng mộ ở Trung Quốc, đặc biệt là trong giới trí thức, do tư tưởng tự do của ông. Song lập trường tự do về chính trị của ông cũng đã khiến những người bảo thủ trong Đảng khó chịu. Sau vài đợt sóng gọi là “tự do hoá tư sản” hồi giữa những năm 1980, họ Hồ đã bị phe bảo thủ hất cẳng. Cái chết của ông năm 1989 đã dấy lên một phong trào ủng hộ dân chủ trên khắp đất nước. Những sự kiện năm 1989 cũng đã đưa đến sự thất thế của một yếu nhân khác thuộc Đoàn-phái – Hồ Khải Lập.

Từ khi Giang Trạch Dân được [Đặng Tiểu Bình] bổ nhiệm làm Tổng Bí thư Đảng sau biến cố Thiên An Môn, các cán bộ được đề bạt vào các vị trí lãnh đạo Đảng và Nhà nước phần lớn là các nhà kỹ trị. Một ngoại lệ điển hình là trường hợp của Hồ Cẩm Đào, người cũng đã từng đứng đầu Đoàn Thanh niên Cộng sản: ông được Đặng Tiểu Bình cử vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị tại Đại hội XIV của Đảng, năm 1992. Tuy nhiên, thập kỷ 1990 là thời kỳ của giới kỹ trị; ảnh hưởng của Đoàn-phái ở tầm ban lãnh đạo cao cấp là mờ nhạt.

Chỉ từ sau khi Hồ Cẩm Đào trở thành Tổng Bí thư Đảng, những cán bộ có gốc gác Đoàn-phái mới lại được tiến cử nhanh chóng vào các cơ quan lãnh đạo ở mọi cấp. Họ đã trở thành trụ cột quan trọng ở Bộ Chính trị, và ngày càng chiếm ưu thế ở cấp tỉnh – nhiều bí thư tỉnh uỷ và tỉnh trưởng hiện nay là xuất thân từ Đoàn-phái.

Bí thư Thứ nhất đương nhiệm của Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc là Hồ Xuân Hoa (胡春华 [Hú Chūn-huá], sinh năm 1963), người vừa được bổ nhiệm vào chức vụ này hồi đầu năm nay (năm 2007 – người dịch). Hồ Xuân Hoa tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh, đã cống hiến 20 năm công tác ở Tây Tạng, trong đó có nhiều năm làm Phó Bí thư Khu đoàn của Khu tự trị Tây Tạng, và hiện đang được coi là một trong những thành viên cốt cán của ban lãnh đạo Đảng tương lai.

Trong phạm trù kế tục quyền lực, Đại hội XVII đã mở ra một kỷ nguyên mới, mệnh danh “kỷ nguyên lãnh đạo tập thể”. Người tiền nhiệm của Hồ Cẩm Đào là Giang Trạch Dân đã không thể chỉ định được người kế nhiệm ông, bởi lẽ họ Hồ là do Đặng Tiểu Bình chọn lựa. Mặc dầu vậy, Giang đã tập hợp được những trợ thủ chính trị trung thành để hình thành nên “cánh Thượng Hải”. Có vẻ như Hồ Cẩm Đào sẽ không đi theo con đường của họ Giang. Trong báo cáo của mình trước Đại hội, Hồ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “sự lãnh đạo tập thể”: những người kế vị chắc chắn sẽ có, nhưng họ sẽ không do đích thân Hồ Cẩm Đào chỉ định. Thay vì vậy, các nhà lãnh đạo trong tương lai sẽ được tuyển chọn bởi tập thể – một biểu tượng của nền “dân chủ nội Đảng”.

Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường, hai “tân binh” của Thường vụ Bộ Chính trị, được coi là những người sẽ thừa kế các địa vị ở đỉnh cao quyền lực vào 2012. Nếu mọi sự suôn sẻ, Tập được kỳ vọng sẽ tiếp quản vị trí của Tăng Khánh Hồng phụ trách đảng vụ [16] , trong khi Lý sẽ thay thế vị trí Phó Tổng-lý Quốc-vụ-viện phụ trách kinh tế [17] của Hoàng Cúc. Nếu hai người này làm tốt các công việc của họ trong những năm tới, thì họ Tập được chờ đợi sẽ thay thế Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư tại Đại hội Đảng lần thứ XVIII vào năm 2012, trong khi họ Lý sẽ thay thế Ôn Gia Bảo làm Tổng-lý Quốc-vụ-viện (= Thủ tướng Chính phủ) tại Nhân-đại năm 2013. Dĩ nhiên, tất cả đều chưa chắc chắn. Sự cạnh tranh trong nội bộ Trung-cộng Trung-ương đang ngày càng khốc liệt, và không chỉ tồn tại giữa Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường, mà còn giữa hai người này và những thành viên đầy thế lực khác trong Bộ Chính trị – như Lý Nguyên Triều và Uông Dương.


Cạnh tranh chính trị và “dân chủ nội đảng”

Trung Quốc hiện nay đang ở trong một giai đoạn đặc biệt của sự phát triển về chính trị. Trong lúc giai cấp trung lưu đang lớn mạnh đã bắt đầu đòi hỏi quyền tham gia chính trị, các nhóm xã hội kém ưu thế hơn như công nhân các đô thị, nông-công-nhân (= người lao động gốc gác nông dân di cư ra các đô thị để kiếm sống – người dịch) và nông dân cũng mong muốn được tham chính vì công bằng xã hội. Để nới rộng sự hậu thuẫn xã hội cho mình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hoà giải các giai cấp xã hội khác nhau trong khuôn khổ sự cai trị một đảng. Trung-cộng sẵn sàng đại diện cho các lợi ích kinh tế và xã hội khác nhau, nhưng câu hỏi ‘làm thế nào để đại diện một cách tích cực cho các quyền lợi này’ là một thách thức lớn đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để đại diện cho các lợi ích hết sức khác nhau này, Trung-cộng buộc phải viện đến những cơ chế dân chủ. Trong ý nghĩa này, người ta có thể biện luận rằng một khi Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho phép các nghiệp chủ tư nhân gia nhập Đảng, Trung Quốc đã bắt đầu bước đi đầu tiên về phía dân chủ hoá.

Bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, sự vận động hướng dân chủ thậm chí còn sôi động hơn. Tại Đại hội Đảng lần thứ XVII, việc bầu Bộ Chính trị và Ban Thường vụ Bộ Chính trị vẫn tiếp tục sử dụng phương thức đẳng-ngạch tuyển cử (bính âm Quan thoại [dĕng’é xuănjŭ]) [18] , có nghĩa rằng Đảng chỉ đề cử một ứng cử viên cho mỗi vị trí. Thế nhưng phương thức sai-ngạch tuyển-cử (bính âm Quan thoại [chā’é xuănjŭ]) [19] – bầu cử có cạnh tranh – đã được áp dụng để bầu 204 uỷ viên của Ban Chấp hành Trung ương: số lượng ứng viên được đề cử nhiều hơn 8 phần trăm so với số vị trí.

Quan trọng hơn, sự cạnh tranh quyền lực giữa các lực lượng chính trị khác nhau bên trong Trung-cộng có khuynh hướng ngày càng mạnh mẽ. Tại đại hội Đảng vừa qua, điều đó đã được phản ánh trong cuộc tỷ thí giữa Đoàn-pháiThái-tử-đảng. Đáng chú ý rằng cả Đoàn-phái lẫn Thái-tử-đảng đều là những thực thể chính trị lớn hơn so với khái niệm “phe phái” / “bè cánh” thông thường (chẳng hạn “cánh Thượng Hải”). Chúng đang là những lực lượng chính trị chủ yếu ở Trung Quốc hiện nay. Cạnh tranh giữa các lực lượng chính trị khác nhau đã được coi là chính đáng trên thực tế, song vẫn chưa được chính thức hoá. Ở Trung Quốc, nhiều học giả đã bắt đầu thảo luận về lý do tại sao các phe cánh khác nhau trong nội bộ Đảng cần được chính thức hoá thông qua những cơ chế dân chủ.

Những cơ chế dân chủ thậm chí còn hết sức cần thiết đối với vấn đề xác định nguồn nhân lực kế tục chính trị. Một khi không một nhà lãnh đạo nào có thể đơn phương chỉ định người kế nhiệm của mình, dân chủ sẽ phải xuất hiện. Lâu nay, việc lựa chọn những người kế tục trong nội bộ Đảng vẫn được đặt trên cơ sở sự đồng thuận chính trị giữa các thế lực chính trị khác nhau. Tuy nhiên, thoả thuận chính trị là phương pháp tiếp cận mang tính thống-trị-luận (elitism), “từ trên xuống” (top-down) và có thể gây mất ổn định. Để thí dụ, ai sẽ là người kế vị Hồ Cẩm Đào? Tập Cận Bình hay Lý Khắc Cường? (Trong khi) cả hai người này đều có năng lực / bề dày kinh nghiệm tương tự nhau. Cạnh tranh chính trị thậm chí tồn tại ngay cả trong nội bộ Đoàn-phái, chẳng hạn giữa Lý Khắc Cường và Lý Nguyên Triều. Việc các phe cánh chính trị không đạt được đồng thuận sẽ dẫn tới bế tắc. Một khi bế tắc xuất hiện, dân chủ sẽ trở thành giải pháp.

Trong lúc mà sự tham gia chính trị bởi các quyền lợi kinh tế và xã hội khác nhau đang thúc đẩy cỗ xe dân chủ hoá Trung Quốc, Đảng Cộng sản ở quốc gia này vẫn chưa muốn chấp nhận bất cứ mô thức Tây phương nào của dân chủ. Cái mà giới lãnh đạo Đảng gọi là “dân chủ xã hội” (thực chất) chỉ là một hỗn tạp của nhiều phép thực hành dân chủ, tỷ như “dân chủ nội đảng”, các cuộc bầu bán có kiểm soát, sự thực hiện tuyển cử (theo những phương thức khác nhau – người dịch) ở thôn quê và trong các đô thị. Thực ra, giống như cuộc cải cách kinh tế mà Trung Quốc đã tiến hành, công cuộc cải tổ chính trị ở quốc gia này cũng là một trò chơi của cái mà Đặng Tiểu Bình gọi là “cứ dò đá mà qua sông” [20] .


Trịnh Vĩnh Niên (chữ Hán giản thể 郑永年, bính âm [Zhèng Yŏng-nián]) là giáo sư về chính trị Trung Quốc, giám đốc nghiên cứu của Viện Chính sách Trung Quốc thuộc Học hiệu Trung Quốc học Đương đại – trường thành viên của Đại học Nottingham, Vương quốc Anh.


Bản tiếng Việt © 2008 talawas


[1]Theo trật tự ngữ pháp của tiếng Trung Quốc là Trung-quốc Cộng-sản Đảng (chữ Hán 中国共产党), được gọi tắt một cách thông dụng trong ngữ hội là Trung-cộng (中共, hoàn toàn không có sắc thái nghĩa offensive như thường được cho là). (Các chú thích đều của người dịch.)
[2]Tiếng Trung Quốc gọi là Trung-ương Uỷ-viên Hội (chữ Hán 中央委员会), được gọi tắt một cách thông dụng trong ngữ hội là Trung-cộng Trung-ương (中共中央).
[3]“Xã hội hài hoà” (chữ Hán giản thể 和谐社会; bính âm Quan-thoại [héxié shèhuì]; phiên thiết Hán Việt hoà-hài xã-hội): mục tiêu kinh tế - xã hội tối hậu mà Đảng Cộng sản Trung Quốc theo đuổi, theo học thuyết chính trị hiện nay của Hồ Cẩm Đào. Khái niệm “xã hội hài hoà” được đề xướng lần đầu trong Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (tức Quốc hội) nước CHND Trung Hoa vào năm 2005, xem như một tiêu điểm khả dĩ chấn chỉnh, cân bằng lại những lệch lạc / chệch hướng trong quá trình phát triển ở Trung Quốc. Vẫn theo hệ thuật ngữ của họ Hồ, mục tiêu này sẽ đạt được bằng cách vận dụng cái gọi là khoa-học phát-triển-quan (“quan niệm khoa học về phát triển”, scientific development concept).
[4]Xem chú thích trên.
[5]Đây là những số liệu chính thức được cung cấp từ kênh tuyên truyền của Đại hội XVII. Độc giả có thể cần phải hiểu rằng những con số này thường có một khoảng cách nhất định so với thực tế.
[6]Tức các công nhân có gốc gác nông dân di cư ra thành thị để kiếm sống, tiếng Trung Quốc gọi là các nông-công-nhân.
[7]“Phát triển khả trì”: lựa chọn dịch thuật của người dịch đối với thuật ngữ tiếng Anh sustainable development (SD). SD lần đầu tiên được Uỷ hội Thế giới về Môi trường và Phát triển (World Commission on Environment and Development, WCED), còn gọi là ‘Uỷ hội Brundtland’, đề xuất trong bản báo cáo của Uỷ hội này trước Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1987; bản báo cáo sau đó đã được phụ đính cùng với Nghị quyết số 42/187, ngày 11.12.1987 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Cho đến nay, định nghĩa của WCED về SD như là “sự phát triển đáp ứng những đòi hỏi của hiện tại trong khi không làm tổn thương đến khả năng để các thế hệ tương lai đáp ứng những đòi hỏi của chúng” vẫn là định nghĩa được trích dẫn nhiều nhất. Khái niệm về tính khả trì của phát triển được cho là gồm ba bộ phận cấu thành: tính khả trì về môi trường (environmental sustainability), tính khả trì về kinh tế (economic sustainability) và tính khả trì về chính trị - xã hội (social-political sustainability). Truyền thông tiếng Việt, chủ yếu là truyền thông trong nước, lâu nay vẫn dịch SD là “phát triển bền vững”. Trên ngữ hội tiếng Trung Quốc, SD được đối dịch là“可持续的发展” [khả-trì-tục đích phát-triển].
[8]Độc giả có thể tìm hiểu thêm về các cuộc “thí nghiệm dân chủ” ở Trung Quốc hiện nay qua bài báo “Giới trí thức mới của Trung Quốc” (Mark Leonard, “The China’s New Intelligentsia”, Prospect Magazine, issue 144, March 2008), mà bản tiếng Việt đã được đăng trên talawas ngày 20.3.2008.
[9]Hồ Cẩm Đào được bầu làm Tổng Bí thư BCH TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 25.11.2002, tại Hội nghị BCH TƯ lần thứ Nhất khoá XVI.
[10]Trong nguyên bản tiếng Anh chỉ có một danh sách họ tên. Người dịch đã tra cứu thêm các chi tiết như cách đọc Hán Việt của họ tên, giới tính, sắc tộc, cấp quân hàm (đối với đương sự là quân nhân) và các chức vụ của đương sự, rồi biên soạn thành bảng để độc giả tiện tra cứu khi cần thiết.
[11]Chữ Hán “太子党”, bính âm Quan-thoại [Tài-zĭ-dăng].
[12]Giang Trạch Dân vốn đi lên từ Thượng Hải: trước khi trở thành Tổng Bí thư Trung-cộng, ông từng là thị trưởng rồi bí thư Thành uỷ Thượng Hải.
[13]Từ sau Đại hội XVII năm 2007, Uông Dương làm bí thư Tỉnh uỷ Quảng Đông.
[14]Theo trật tự ngữ pháp tiếng Trung Quốc là Trung-quốc Thanh-niên Cộng-sản Đoàn (chữ Hán 中国青年共产团), được gọi tắt thông dụng là Thanh-cộng-đoàn (青共团). So với Thanh-cộng-đoàn, cách gọi Đoàn-phái (团派 [Tuán-pài]) mang ngữ khí ‘thông tục’ (informal) hơn.
[15]Hồ Diệu Bang đã có 21 năm (1957–1978) làm Bí thư Thứ nhất Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc.
[16]Trong nhiệm kỳ của Trung-cộng Trung-ương khoá XVI, Tăng Khánh Hồng – được coi là người thuộc “cánh Thượng Hải” của Giang Trạch Dân – có địa vị nghi lễ đứng ngay sau Hồ Cẩm Đào, với các chức vụ trưởng Ban Bí thư (về Đảng) và Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa (về Nhà nước). Vào thời điểm hiện nay, Tập Cận Bình đã nắm giữ cả hai địa vị này (chức Phó Chủ tịch nước là do Nhân-đại Toàn-quốc tháng 3.2008 vừa mới bầu cho Tập).
[17]Phó Tổng-lý Quốc-vụ-viện phụ trách kinh tế là chức vụ tương đương với Phó Thủ tướng thường trực hiện nay ở Việt Nam. Vào thời điểm hiện nay, Lý Khắc Cường đã được Nhân-đại tháng 3.2008 (xem chú thích trên) bổ nhiệm vào chức vụ này, trong khi vẫn giữ chức bí thư Tỉnh uỷ Liêu Ninh từ sau Đại hội XVII.
[18]Chữ Hán giản thể “等额选举”.
[19]Chữ Hán giản thể “差额选举”.
[20]“Cứ dò đá mà qua sông”: Nguyên văn tiếng Trung Quốc“摸着石头过河”[mạc trước thạch đầu quá hà]. Ý nói cứ tuỳ theo tình hình thực tế mà làm; tương tự như câu “cứ liệu cơm mà gắp mắm” trong tiếng Việt. Đây là một trong số những châm ngôn của Đặng Tiểu Bình minh hoạ cho triết lý thực dụng trong học thuyết chính trị của họ Đặng.
Nguồn: ZHENG Yongnian, “Hu Jintao’s Road Map to the China’s Future” (a brief report), Briefing Series, issue 28, The University of Nottingham / China Policy Institute, October 2007